TT.
Thích Giác Đẳng Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 6 - Thọ duyên cho ái
(Xin lưu ý: những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng Giảng Sư xin giữ y bản chính, xin đừng sửa chữa. Và xin đề rõ tên người chuyển biên ) Ngày xưa khi chúng tôi vào trong chùa, có đôi lúc chúng tôi cảm thấy phiền toái với bộ y này . Đặc biệt là khi chúng tôi sang Hoa-Kỳ đi học. Vì đi học mà mặc chiếc y người ta chọc ghẹo. Có khi gặp người ta hỏi rằng, “Bộ lạnh lắm sao mà trùm chiếc y kín như vậy?” Hay chúng tôi mặc chiếc y đi đâu, khi mình ra cashier mình trả tiền, người ta cũng nhìn mình với vẻ hơi kỳ thị một chút. Như vậy nhìn chiếc y, như là chiếc y có cái gì chướng ngại, khó chịu lắm. Nhưng càng tu rồi, đôi lúc gặp những phiền não, đôi lúc gặp những vấp ngã, càng lúc về sau này, chúng tôi mới cảm thấy rằng, “À, chiếc y là hàng rào che chở cho mình.” Cái hàng rào đó là gì? Nó tạo cho chúng ta môi trường rất thanh tịnh. Ví dụ như quý vị đi chơi ngồi trên xe hơi với người bạn thân, hay là khi quý vị đi đến nhà nào đó, người ta mời quý vị thưởng thức một ban nhạc kích động rất hay, quý vị không từ chối được. Nhưng quý vị bước vào trong chùa này, quý vị có quyền nói rằng, “À, chuyện đó tôi không muốn, quý vị đừng mở, tôi không muốn” Như vậy chùa cho chúng ta môi trường thích hợp để tu tập. Nhìn về điểm này chúng ta mới cảm nhận được gía trị của giáo pháp, và của những gì Đức Phật để lại cho chúng ta. Ngày xưa khi chúng tôi sang Thái Lan có một vị tên là Upasampada, trong kinh Phật gọi là Cụ túc giới, Ngài hỏi, Như vậy đó là quyền lợi rất lớn lao, quý vị có thể nói với chúng tôi, Đức Phật Ngài cho Chư Tăng mặc chiếc y. Mặc chiếc y là như vầy, ví dụ như quý vị ở ngoài đời bạn bè lâu lâu mời đi dự tiệc, uống rượu để làm cái này cái kia, có khi từ chối cũng phiền phức, nhưng khi mặc chiếc y không ai làm chuyện đó, vì chiếc y đã là một nhãn hiệu rồi, người ta nhìn vào người ta phải đối xử khác, đó là môi trường. Tại sao chúng tôi phải kể dông dài về đời sống xuất gia như vậy? Để quý vị thấy rằng, theo quan niệm của Đức Phật Ngài nói hễ né tránh tốt hơn chúng ta đương đầu với nó. Né tránh là thượng sách ở trong tất cả phiền não. Khi nào quý vị gặp người nào phiền não nhiều quá, sân hận nhiều quá, thì đừng tìm cách giải quyết với người đó nhiều, tránh người đó đi. Đức Phật trong kinh Ngài khuyên chúng ta như vầy, “ Khi giận người nào nên ở thật xa người đó. Ở xa không được, ở gần thì đừng nên nói chuyện nhiều. Nói chuyện thì nên ráng giữ chánh niệm” Tại vì sao vậy? Bởi vì xúc thì sanh thọ, thọ thì sanh ái mà thôi. Không phải vì chúng ta quá bi quan, chúng ta quá yếm thế, nghĩa là chúng ta phải chạy trốn cuộc đời, nhưng chúng ta nên hiểu rằng, chúng ta giống những người đang bịnh nghiền rượu, đang tha thiết với rượu thì nên tránh xa rượu đi Không có gì phải mặc cảm về những chuyện đó. Danh dự nó sanh ra phiền não thì mình cứ né thôi. Bây giờ quý vị sang bên Mỹ, không biết bên Pháp như thế nào. Ngày xưa, ở bên Mỹ, cách đây mấy chục năm người ta mời quý vị uống rượu hay hút thuốc. Nếu quý vị không uống rượu hay hút thuốc thì người ta cho quý vị là một người không ra gì, không có văn hoá, không ý thức được thời đại, thời gian là thế nào. Ngày hôm nay quý vị sang Hoa-Kỳ, người ta mời uống rượu, quý vị nói. “ Xin lỗi tôi không uống được” thì họ sẽ rất mến quý vị , họ nghĩ rằng quý vị đang cố gắng làm điều tốt. Cái chuyện né tránh đó, qủa thật đó là đặc quyền của người Phật tử mà Đức Phật Ngài dành cho chúng ta. Quý vị có quyền nói không, chúng ta không làm chuyện đó, không ai coi thường quý vị hết, không ai chê quý vị hết, bởi vì Đức Phật Ngài cho phép chúng ta làm như vậy. Quả thật sự né tránh là một điểm tốt nhất ở trong đời. Nên chi chúng tôi mong mỏi rằng dù hoàn cảnh nào cũng vậy người Phật tử nên cố gắng đi chùa, vì vô chùa được coi như là nơi thánh địa. Khi quý vị bước vào nơi đó, quý vị có quyền nói không với rất nhiều thứ mà ở ngoài quý vị không thể nói không được. Ngay cả thậm chí đôi khi quý vị không muốn nói chuyện tán gẫu. Vào trong chùa, quý vị nói, “ Hôm nay vào trong chùa tu một bữa, không có nói chuyện nhiều”. Mọi người rất tôn trọng quý vị, không ai trách cứ quý vị. Khi Đức Phật Ngài nói rằng xúc duyên cho thọ, thọ duyên cho ái, Ngài đưa cho chúng ta một định lý liên quan đến đời sống mà phiền não là cái gì rất tự nhiên, không phải là cái gì để mặc cảm, và Đức Phật Ngài không khuyến khích chúng ta sống bằng mặc cảm như vậy. Vào một lúc nào đó quý vị muốn thay đổi đời sống của mình, từ đời sống nhiều phiền não đó, cách tốt nhất là đổi cảnh đi, đổi môi trường sống đi, tức là đổi xúc và đổi thọ đi. Xúc và thọ có thể coi như là sự tiếp xúc với môi trường sống chung quanh mình, thì như vậy ái dục từ đó giảm đi. Dĩ nhiên là nó đòi hỏi nhiều ở sự tu tập. không phải đổi cảnh là chúng ta thay đổi hoàn toàn, nhưng ở đây cái chuyện xúc duyên cho thọ, thọ duyên cho ái có giá trị rất lớn với người tu tập thiền định Ngài Ajahn Chah nói trong nhiều bài pháp của Ngài, “ Một con chó đến tìm kiếm quanh nhà chúng ta, chúng ta cho nó ăn nó sẽ trở lại hoài”. Phiền não được chúng ta thoả mãn, sẽ trở đi trở lại hoài. Nó đòi cái gì chúng ta cho nó thì đương nhiên thoả mãn thôi. Như trường hợp như vầy, chúng ta có tật là khi chúng ta bực mình chúng ta hay chỉ trích. Chỉ trích xong chúng ta cảm thấy trong lòng hả hê, cảm thấy đã nư của mình. Bây giờ chúng ta cứ xem chuyện bực mình đó như một con chó nhà hàng xóm, chó đói. Mọi khi chúng ta thường làm cái gì để thoả mãn nó, nhưng bây giờ chúng ta tập, mình nhịn đi một ít. Trong cuộc sống chúng ta nhịn một chút như vậy cũng không chết ai hết. Nhịn lâu ngày như vậy, nó sẽ thay đổi thói quen là chúng ta không còn chỉ trích. Chúng tôi gặp rất nhiều thiền sinh đi vào trong trường thiền, những người này có thói quen nói chuyện, không nói chuyện họ chịu không được, họ nói chuyện lấy vợ lấy chồng, chuyện anh em bạn bè. Khi vào trong trường thiền, những ngày đầu tiên họ rất là buồn, bởi vì trong trường thiền cấm không cho nói chuyện, và trong trường thiền nói rằng món quà tốt nhất có thể tặng cho nhau được đó là sự im lặng. Như vậy những người này phải nhịn. Nhưng mà nhịn lâu, sau hai ba tháng nhịn trong trường thiền, ra ngoài chúng tôi hỏi rằng, “ Hôm nay quý vị trở về tâm thất, quý vị được cái gì?” Họ trả lời rằng, “Không, bây giờ về tâm thất chỉ bớt nói chuyện”. Bởi vì quý vị nói quen rồi, tất cả chỉ là thói quen thôi. Chúng ta hiểu một cách tự nhiên muốn thay đổi nó, chúng ta cứ nhớ hình ảnh Ngài Ajahn Chah nói con chó hàng xóm qua, mình cho nó ăn, nó sẽ đến. Nếu con mắt mình cho cảnh đẹp, nó sẽ đòi. Tại sao người ta không có cái đó người ta chịu được, còn mình không có thì không chịu được. Vấn đề hoàn toàn là thói quen. Tại sao chúng ta không có món đó ăn chúng ta rất khổ sở, còn nhiều người khác không ăn món đó họ vẫn sống đượ. Chúng ta nhìn nhận rằng phiền não là một thói quen, thói quen đó được tạo thành, cũng phải được thay đổi, và như vậy chúng ta sẽ tu được. Do vậy khi Đức Phật Ngài nói “xúc duyên cho thọ, thọ duyên cho ái” là Ngài nói thẳng cho chúng ta biết rằng, “ Những đam mê, những dính mắc trong đời sống là do sự tiếp xúc đối với các cảnh” Chúng ta muốn tâm hồn nhẹ nhàng hơn, chúng ta tiếp xúc với việc nhẹ nhàng hơn. Cũng giống như vầy, chúng ta hiểu rằng chuyện thị phi trong cuộc đời làm chúng ta phiền não nhiều, chúng ta nên đọc kinh sách nhiều hơn. Đọc kinh sách nhiều hơn, chúng ta sẽ ít bị chi phối bởi chuyện thị phi nhiều hơn. Suy nghĩ về Phật pháp nhiều hơn, tâm hồn chúng ta nhẹ nhàng nhiều hơn. Chuyện đó là chuyện đương nhiên. Có một số người hỏi rằng, “ Tại sao mình cũng đi chùa, cũng nghe Pháp mà trong lòng mình không đổi được”. Có thay đổi đó, nhưng chúng ta chưa biết. Nó thay đổi từ từ chậm chậm. Chúng ta nói đến những căn bệnh, Đức Phật Ngài gọi là căn bệnh ái dục. Đó là căn bệnh của vô lượng kiếp, chứ không phải của ngày hôm qua hôm kia gì, mà từ nhiều đời kiếp. Có thể từ xa xưa đến bây giờ, lòng ái dục giữa người nam với người nữ, giữa người nữ với người nam. Lòng ái dục với sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc đã ăn sâu vào đời sống rồi, muốn thay đổi chúng ta phải có một ít thời gian để chúng ta hoán chuyển nó đi. Tuy nhiên điều chúng tôi muốn nhắc lại một lần nữa là nên cố gắng nhìn phiền não, đặc biệt là ái dục như là một hiện tượng tự nhiên của đời sống, và chúng ta thay đổi trong cách tự nhiên của nó, đừng thay đổi trong mặc cảm tội lỗi, bởi vì thay đổi như vậy không có lợi gì hết, hoàn toàn không có lợi gì hết. Chúng ta biết rằng do có xúc nên có thọ, do có thọ nên có ái, như vậy ái dục sanh từ cảm thọ nào? Và cảm thọ đó sanh từ cảnh nào? Chúng ta nên tránh cảnh đó đi để không có cảm thọ. Không cảm thọ, chúng ta không gặp ái, bớt được cái ái nào, chúng ta an lạc được phần đó mà thôi. Con người chúng ta sống ngày hôm nay, đôi khi chỉ có quan niệm về làm việc thôi, nó tạo ra cho chúng ta rất nhiều sự tranh luận rồi. Đôi khi có nhiều lúc chúng ta sống, chúng ta nhận có những quan niệm rất mới mẻ và xa lạ. Những người châu Phi phần đông họ nhận rằng trả thuế là bổn phận của người công dân, trong một quốc gia mà công dân không trả thuế thì quốc gia không làm việc được. Nhờ vào cái thuế quốc gia được phát triển, chứ không phải vì người dân đâu. Như với người Việt Nam chúng ta, ngày xưa khi người Pháp sang bên mình, họ lấy thuế mình than là sưu cao thuế nặng, nhưng về sau này chúng ta khi sang sống ở các nước, chúng ta thấy những nước kỹ nghệ nào cũng đóng thuế hết, chúng ta thay đổi quan niệm đó, và thấy trả thuế là chuyện tự nhiên Đời sống tu tập là một thế giới rất lạ. Trong thế giới đó, chỉ khi nào sống được mà cảm nhận được, chúng ta mới cảm nhận được cái hay của nó. Bên ngoài người ta nói rằng, “Đạo Phật chủ trương là diệt dục” nghe nói như vậy nhiều người cảm thấy phiền não. Tại sao vậy? Vì đời sống không có ái dục, đời sống sẽ không còn sinh khí nữa. Tuy nhiên một người Phật tử rất bình thường, không cần là Phật tử thiền sinh, không cần là người tu tập mới có thể cảm nhận được rằng, bớt đi sự dính mắc nào thì mình được nhẹ nhàng phần đó, như vậy được an lạc một chút. Khi chúng tôi đi hành thiền trong trường thiền tại Wat Nong Phra That có một lần chúng tôi lên nghe pháp, Ngài thiền sư giảng chúng tôi mới nhận được một lý lẽ quan trọng của đời sống của một vị thiền sinh là, “ Khi lên hành thiền mình không cần phải chờ đến đắc đạo chứng quả, mình mới được sự an lạc. Mình tìm thấy hạnh phúc trong từng giây phút. Với mục đích ca ngợi như vậy mới xứng đáng những giờ phút hành thiền”. Điều đó giống như một bài hát quý vị thường hay nghe, “Đường chúng ta đi qua bao gian khổ chông gai, đóa hoa hồng nở trong từng bước tới.” Mỗi bước chân là một hoa nở, vì trong mỗi giây phút chúng ta cảm nhận được cái an lạc của nó. Nếu quán tưởng đồng thời khéo suy tư, chúng ta thấy những giây phút bình thường như mình đang sống tại đây, không có suy nghĩ về chuyện nhà cửa, không suy nghĩ về chuyện người thân, không suy nghĩ những chuyện làm cho đời sống mình cảm thấy nặng nề. Bớt đi giây phút đó, ta cảm thấy đời sống an tịnh nhẹ nhàng, an lạc hơn một chút, như vậy bớt đi ái dục, và đạt được hạnh phúc. Còn người bên ngoài nói diệt dục sẽ được hạnh phúc, thì qủa thật rất là khó cảm nhận. Về điểm này người Phật tử không cần phải bảo rằng, từ bỏ gia đình, sống đời sống không gia đình, đi vào chùa tu mới cảm thấy an lạc. Nhiều người quan niệm, buông bớt được điều nào mình hạnh phúc điều đó. Ngày nào mình buông bớt được thói quen lệ thuộc, buông bớt được chuyện lo âu, buông bớt được chuyện cố chấp, ngày hôm đó chúng ta được an lạc một chút. Chúng ta phải chắc chiu những hạnh phúc đó, chúng ta mới tìm được hạnh phúc chung quanh đời sống tu tập, ngoài ra rất khó khăn. Chúng tôi xin thưa với quý vị một điều, khi chúng ta mang đôi giầy, đôi giầy đã vừa ý rồi, đôi giầy đã vừa chân rồi, ít khi chúng ta nghĩ đến đôi giầy. Quý vị có thấy như vậy không? Khi nào đôi giầy nó chật, đôi giầy mang vào khó chịu, chúng ta ngồi chúng ta nhớ đôi giầy hoài, tự nhắc “mình phải đi mua đôi giầy”, nhưng khi đôi gìây đã vừa chân rồi, đôi lúc chúng ta quên nó đi, chỉ xỏ vô rồi đi thôi. Nhiều, nhiều thứ trong đời sống nó vốn đã quá quen thuộc, nó vốn đã quá bình thường, nó vốn đã quá gần gũi với chúng ta chúng ta cũng quên, chúng ta không để ý đến nhiều nữa, cái hại là chúng ta sắp để mất nó. Tại vì sao? Chúng ta không để ý nhiều thì chúng ta dễ bỏ quên. Như vậy trong đời sống tu tập nhiều khi một chút thanh thản một chút an lạc, cần phải được chú ý. Khi chúng tôi đi làm việc Phật sự với Ngài Hoà Thượng Hộ Giác, bấy giờ thức đêm, Ngài có nói với chúng tôi một kinh nghiệm, Ngài nói rằng, “ Lâu lâu được đi chỗ này chỗ kia nói chuyện Phật-Pháp, nhiều người lầm nghĩ rằng, ‘À. trong đời sống này ăn cơm của Phật tử, mình phải làm cái gì để đền đáp lại một phần nào đó’, nhưng Ngài nghĩ đó là niềm vui”. Niềm vui đó đi vào trong cuộc đời hoằng pháp của Ngài. Khi chúng tôi nghe Ngài nói điều đó chúng tôi mới cảm thấy rằng, có lẽ một người khác khi nghe Ngài nói như vậy, họ nghĩ chuyện đó rất bình thường. Nhưng khi chúng ta ý thức được nó là niềm vui, thì quả thật là niềm vui lớn, điều đó là một sự ý thức, Đức Phật Ngài gọi “chánh tư niệm”, nếu không ý thức lâu ngày chúng ta sẽ quên đi. Nhiều người tu tập bị lui sụt, không phải họ không có căn cơ tu tập, chung quy họ không ý thức được họ đang tiến bộ. Khi mình không ý thức được mình có tiến bộ, mình sẽ để nó rơi vào trong quên lãng. Như Ngài Xá-Lợi-Phất có dạy trong trung bộ kinh, Ngài dạy như vầy, Bởi vì khi quý vị thanh tịnh mà không biết mình thanh tịnh, cơ hội đánh mất sự thanh tịnh đó có rất nhiều, và chúng ta dễ rơi vào trạng thái cũ. Một người uế trược mà không biết mình uế trược, nó trở thành tệ hại hơn . Còn một người uế trược biết rằng mình uế trược, Ngài Xá-Lợi-Phất nói rằng người đó còn tốt hơn một người thanh tịnh mà không biết mình thanh tịnh. Do vậy trong sự tu tập của chúng ta liên quan đến đời sống ái dục, chúng ta đừng nghĩ chừng nào chúng ta diệt trừ hết phiền não, hết ái dục, chúng ta mới an lạc, đừng nghĩ như vậy. Mình bớt được cái nào thì mình mừng cái ấy. Lâu lâu chúng ta có thể nói với nhau như vầy, “Ngày xưa chúng ta ghiền trà ghiền cà-phê, nhưng bây giờ chúng ta không có trà không có cà-phê thì cũng không sao hết”. Quý vị tự khen với chính mình và cũng phải nói với những người đồng đạo thân của mình nữa. Ngày xưa đi chùa, ngồi nghe pháp nửa tiếng đồng hồ, chúng ta cảm thấy bực bội khó chịu lắm. Bây giờ chúng ta có thể ngồi được hai, ba tiếng đồng hồ. Chuyện đó cũng đáng hoan hỷ. Ngày xưa không có con cái trong nhà buồn, bây giờ không có con cái chúng ta vẫn an lạc được, cũng đáng hoan hỷ. Mặc dầu những niềm vui đó rất nhỏ, tuy nhiên chúng ta hiểu rằng sự tu là cái gì rất tự nhiên, chúng ta phải chắc chiu những điều đó, để đạt được sự tiến bộ về đời sống tinh thần. Do vậy khi nói đến ái dục thường thường chúng tôi rất ít nói, ở trong một hội chúng mà những Phật tử chưa tha thiết với sự tu học nhiều. Tâm trạng đó của Ngài Xá-Lợi-Phất giống như tâm trạng chúng tôi vừa đề cập với quý vị. Khi nói về ái dục, nếu chúng ta nói một cách thẳng thừng, ái dục là nhân sanh khổ, sẽ rất khó chấp nhận ở nhiều người. Vì thông thường khi nghe như vậy, chúng ta dễ dàng đánh trống lãng đi, chúng ta khó chấp nhận. Tuy nhiên nếu chúng ta suy niệm cho kỹ, nghiệm cho kỹ, và đem áp dụng vào trong đời sống từng phần từng phần một, chúng ta sẽ cảm nhận được cái gì rất thiêng liêng, cảm nhận được cái gì rất an lạc và không khó lãnh hội như nhiều người thường nói. Có lẽ quý vị Phật tử có nghe câu chuyện ngụ ngôn,“ Có một người có bốn bà vợ, ông có bốn cách đối xử khác nhau với bốn bà vợ. Bà vợ đầu tiên ông rất thương mến, lúc nào cũng chăm sóc và để ý đến, lo lắng cả ngày. Người vợ thứ hai ông cũng lo tới, ông cũng có đoái hoài nhưng khi ông cần thì ông lui đến. Người vợ thứ ba tương đối ông không thương nhiều và cũng không hắt hủi nhiều. Bà vợ thứ tư khi có ai nhắc nhở ông mới nghĩ đến. Khi ông chết đi, trong câu chuyện kể rằng, bà vợ thứ nhất là người ông thương nhất ngày nào ông cũng nghĩ tới, đưa ông ra tới cổng rào rồi không đi theo. Bà vợ thứ hai là người ông cũng thương nhưng khi nào ông cần ông thương, đưa ông đến bờ vực, ném xuống vài đóa hoa rồi đi về. Bà vợ thứ ba ông không thương và cũng không nhớ nhiều, bà vợ này theo ông xuống đáy vực và nằm ở đó. Bà vợ sau cùng đi theo ông luôn. -Trong câu chuyện ngụ ngôn này, người đàn ông có bốn bà vợ ví dụ giống như người bình thường chúng ta. Chuyện đó được hỏi tại sao, Đức Phật nói rằng, “Tại vì bản chất tự nhiên của con người, trong ái dục có vô minh và trong vô minh có ái dục”. Thật ra ái dục và vô minh chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Không biết và không thấy, nếu chúng ta biết và chúng ta thấy như vậy, chúng ta phải thay đổi. Thay đổi hoàn toàn cách nhìn của chúng ta về đời sống. Nhưng phải thấy cái gì nó ăn sâu vào trong tâm hồn của mình. Nhiều khi chúng ta biết mà chúng ta không thay đổi được. Khi nói về phần “xúc duyên cho thọ, thọ duyên cho ái”, Đức Phật Ngài tiếp tục thêm hai phần nữa ứng dụng trong đời sống hiện tại, liên quan đến phiền não, đó là thủ và hữu. Sáng hôm nay chúng tôi không đi vào chi tiết khô khan, nếu như vậy có thể làm cho quý vị, buổi sáng mới vừa thức dậy, vừa tụng kinh xong, chưa sẵn sàng. Do đó chúng tôi nói hơi dông dài ngoài đề một chút về ái dục. Phần tiếp theo sau là phần thủ và phần hữu, chúng tôi xin phép nói hơi khô một chút. Những điều này rất có lợi cho hành giả tu tập hơn là cho một người nghe Phật Pháp để mà suy tư một cách bình thường giống như một môn triết học. Khi Đức Phật Ngài nói về “xúc duyên cho thọ, thọ duyên cho ái, ái duyên cho thủ, thủ duyên cho hữu”, Ngài nhìn vào nội tâm của chúng ta trước, nhìn gíông như cái nhìn của nhà bác học đem một mảnh vi khuẩn rất nhỏ đưa lên kính hiển vi vậy, nhìn rất tinh tế. Chính cái nhìn tinh tế này giúp cho chúng ta đạt đến sự tinh tế trong đời sống tu tập. Càng gần với nó, càng biết nó, chúng ta càng thiện xảo hơn, càng khéo hơn, trong đời sống tu tập của mình. Như quý vị Phật tử làm việc, chúng ta nhớ chúng ta học nghề gì đó, lúc đầu chúng ta chưa quen cầm đồ nghề còn lấn cấn tay chân, chúng ta làm rất chậm. Nhưng khi chúng ta làm việc lâu, quen với đồ nghề rồi, chúng ta sẽ làm được nhanh. Đối với những phiến não và đối với những hiện tượng tâm lý chúng ta quen thuộc với nó, chúng ta dễ tu. Nhiều nguời tu tập có quá nhiều mặc cảm, tu tập có quá nhiều thời gian , tu tập có quá nhiều sự phân vân, là vì họ không rõ ràng, cái hình ảnh không bao giờ rõ ràng hết. Cũng như quý vị đến một thành phố nào, quý vị không biết về thành phố đó một cách kỹ lưỡng về đưòng đi nước bước, có đôi lúc quý vị rất ngại đi ra bên ngoài, quý vị rất miễn cưỡng đi đó đi đây. Nhưng nếu quý vị sống càng lâu và biết càng nhiều đường đi nước bước, quý vị có thể xem đó là quê hương của quý vị. Giống nhu là quý vị đang sống tại nơi đây, biết đường đi nước bước như vậy đó cảm thấy hoàn toàn khác với chúng tôi ở xa đến. Nếu chúng tôi biết nhiều lắm cũng chỉ biết những cảnh đẹp như đi ra ngoài Khải hoàn môn, điện Elize, đi tới đi lui chỉ chùng đó thôi. Quý vị biết hang cùn ngỏ hẽm, chỗ này chỗ kia và như vậy quý vị cảm thấy thoải mái hơn. Trong sự tu tập cũng vậy, nếu chúng ta biết sự tu tập, biết sự vận hành của tâm ý một cách tinh tế hơn, chúng ta sẽ thoải mái rất nhiều. Học Phật Pháp, mới nghe rất nhiều, mới nghe rất khó, nhưng nếu quý vị càng học càng hoan hỷ, càng học càng cảm thấy dễ hơn. Cũng như ví dụ khi nãy, khi quý vị mới bắt dầu làm nghề, quý vị làm chậm và cảm thấy lúng túng, nhưng càng làm càng thấy nhanh, càng thấy dễ hơn. Tại sao vậy? Tại vì quý vị đầy đủ dụng cụ, đầy đủ những trang bị, đầy đủ sự quen thuộc, đầy đủ sự thuần thục. Như vậy chúng tôi xin mời quý vị thỉnh thoảng đi vào những đề tài tương đối khô khan. Khi chúng tôi về đây, quý vị có mời tôi nói về Thập nhị nhân duyên. Chúng tôi nhớ trong cuộc đời tu học của chúng tôi, chúng tôi nói Phật Pháp rất nhiều, nhưng chỉ có bốn lần thật sự chúng tôi dành thì giờ để nói về Thập nhị nhân duyên một cách trọn vẹn từ đầu đến cuối, vì nó là đề tài quý Phật tử ít ai thích nghe. Nói về bố thí trì giới tham thiền nói về ba-la-mật thì dễ, nhưng nói về Thập nhị nhân duyên nghe rất khô khan. Tuy vậy có đôi lúc chúng ta cũng nên đổi món một chút xíu, đi xa hơn một chút xíu, tìm cái gì hay lạ hơn một chút xíu. Chúng tôi mong rằng những điều đó sẽ không làm cho quý vị cảm thấy mệt mỏi, cảm thấy khó chịu khi quý vị dành thì giờ đến đây để tham dự khoá tu học ngày hôm nay. Phần câu hỏi 1) Như chúng tôi vừa đề cập đến trong ở trong bài Thâp nhị nhân duyện, ái dục sanh khởi từ thọ và từ xúc. Xúc có nghĩa là sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh, do sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh sanh ra cảm thọ, và thọ sanh ra ái. Do vậy khi Đức Phật Ngài nói về ái, Ngài cho rằng đó là những hiện tượng rất tự nhiên. Hễ căn tiếp xúc với cảnh, tự nhiên sanh ra ái được, đó là hiện tượng tự nhiên. Phật tử hiểu đạo như vậy sẽ không thấy có mặc cảm. Phiền não không phải là cái gì chúng ta mặc cảm để đương đầu với nó. Tuy nhiên câu hỏi của đạo hữu không trả lời bằng lý thuyết được, bởi vì câu hỏi đó nó đòi hỏi cái kinh nghiệm thực hành, mới tìm trạng thái được liên hợp được. Người ta thường có ý nghĩ rằng chúng ta sẽ không bước tới bằng cả hai chân nhấc lên. Chúng ta không bao giờ bước tới bằng cả hai chân nhấc lên, luôn luôn chúng ta đi tới, phải dở một chân, một chân phải đứng lại. Một chân đạp xuống một chân dở lên, nó thay đổi và như vậy chúng ta mới đi tới được. Khi nói vậy có nghĩa là chúng ta không bao giờ đoạn tuyệt với đời sống hiện tại hoàn toàn, để chúng ta thay đổi cảnh giới mới. Chúng ta muốn bước tới thì một chân phải đạp xuống một chân đưa tới. Ở đây một người có một ít kinh nghiệm về tu tập, không tạo ra những biến động không cần thiết trong đời sống của mình. Bây giờ Đức Phật Ngài dạy về con đường trung đạo, con đường có thể bước tới nhưng không phải đoạn tuyệt với quá khứ, đoạn tuyệt với cái điều kiện tự nhiên mình có. Sỡ dĩ nói với đạo hữu điểm này là điểm tế nhị trong pháp hành là tại vì trên lý thuyết cái xa nhất mà mình có thể nói rằng, “À, mình nên nương vào, mình nên phan duyên thôi", tuy nhiên phan duyên đến mức độ nào thì chuyện đó tuỳ vào mỗi cá nhân mỗi người hành đạo. Chúng tôi muốn kể một ví dụ là vầy, tại xứ Thái Lan và Nhật Bản, chư Tăng sống có hai tiêu chuẩn, khác nhau hoàn toàn. Người Thái Lan họ rất trọng chư Tăng của họ và người Nhật bản cũng rất trọng Chư Tăng của họ. Nhưng nếu đem chư Tăng Thái Lan so với chư Tăng Nhật Bản hay Nhật Bản so với Việt Nam, thì Phật tử Việt Nam khó có thể kính trọng được chư Tăng Nhật Bản và cũng khó có thể kính trọng chư Tăng Thái Lan, Tại vì sao? Băng giảng đến đây là hết.
|