Thap Nhi Nhan Duyen = Bai 1

Thap Nhi Nhan DuyenTT. Thích Giác Đẳng

Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 4 - Danh sắc duyên cho lục nhập


TT Giác Đẳng giảng tại khoá tu học bên Thụy Sĩ
Chánh Hạnh chuyển biên

(Xin lưu ý: những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng Giảng Sư xin giữ y bản chính, xin đừng sửa chữa. Và xin đề rõ tên người chuyển biên
.

Nếu nói theo ý niệm “vô minh duyên cho hành” nãy giờ chúng ta đang bàn, tâm hành đó gồm có hành uẩn là chính, tức là cái cetana, hay là tác ý tạo nghiệp là chính. Còn những gì đi xung quanh nó, đồng sanh với nó là phụ. Như vậy tâm hành gồm có cái thọ- cái tưởng- cái hành- cái thức. Nhưng khi nói trong phương diện thiền định, cái quan trọng của tâm hành đó là tầm và tứ. Tại sao tầm và tứ? Là vì thế này, người hành thiền lúc nào cũng chỉ có một việc cần phải làm, là theo dõi những gì đang xảy ra. Nó xảy ra ra sao thì mình ghi nhận như vậy, mình không can thiệp vào, mình không làm gì hết. Ví dụ đạo hữu thở, đạo hữu theo dõi hơi thở một cách tự nhiên, không điều khiển hơi thở. Tuy nhiên có những lúc chúng ta chủ động làm. Chủ động làm là gì? Chủ động làm là chúng ta phải đi ăn, đi đại tiện, tiểu tiệnv.v…, như vậy chúng ta không còn trong thế quan sát nữa mà trong thế chủ động để làm. Như thế đó trong thiền gọi là tâm hành hay gọi là tầm tứ. Ví dụ bây giờ đạo hữu làm phận sự là người gác cổng, ai đi ra đi vào đạo hữu đều biết, đạo hữu bấm thẻ cho những người đó, nhưng đôi khi người gác cổng lại muốn đi ra đi vào nữa, họ không gác nhưng họ muốn đi ra đi vào nữa, thì họ phải ghi nhận, “À bây giờ tôi đang đi ra, bây giờ tôi đang đi vào”, phải biết như vậy, điều đó là điều quan trọng. Thọ-Tưởng-Hành-Thức trong phương diện “Vô minh duyên hành” thì nó được gọi là tâm hành, nhưng trong thiền nó là tác ý, ý nghiệp.

Bây giờ nói về “ thức duyên cho danh sắc” chúng tôi muốn tóm lược lại một bài kinh. Rất ngắn thôi. Trong bài kinh đó nói rằng có 6 cõi trời dục giới là Tứ đại thiên vương, cõi trời Đạo lợi, cõi trời Đấu Xuất, cõi trời Dạ Ma, Hoá lạc thiên và cõi trời Tha hoá tự tại. Khi nói về cõi trời, ai cũng nghĩ rằng lên các tầng trời thì giống nhau hết, nhưng trong kinh nói rằng không giống nhau. Nó không giống nhau bởi vì lẽ gì? Không giống nhau bởi vì:

-Nếu một người nào trong cõi đời này họ làm phước và mong do làm phước họ được cái này được cái kia, thì họ cũng có phước. Nhưng đời sau nếu họ sanh lên cõi trời, nhờ phước đó họ sanh lên cõi trời Tứ Đại Thiên Vương. Tứ Đại Thiên Vương là cõi Chư thiên có phước, nhưng họ có phận sự phải làm. Họ có công việc làm của họ, họ có phần hành. Những Chư Thiên đó cũng giống như những người sống tại Thuỵ Sĩ chẳng hạn, nghe nói sung sướng hạnh phúc, nhưng không có nghĩa là tiền trên trời rơi xuống để họ sống, mà họ phải đi làm mới sống được. Mặc dầu công việc làm đó cho họ rất nhiều tiền, có rất nhiều phúc lợi xã hội, nhưng rồi họ cũng phải đi làm. Người nào trong đời này làm phước cầu phước họ sẽ sanh về cõi Tứ Đại Thiên Vương, ở đó cũng hưởng phước nhưng cũng phải làm, do cái tác ý đời sau đó.

-Người nào đặt niềm vui đào giếng đắp đường, để mang lại sự an lạc cho mọi nguời sẽ sanh lên cõi trời Đạo Lợi. Như Ngài Māgha làm những phước xá dọc theo đường để cho những người lở đường trú qua đêm, khi Ngài làm phước như vậy Ngài không cầu được phước. Ngài chỉ nghĩ rằng làm phước để mang lại lợi ích cho người này , để mang lại sự an lạc cho người kia, đời sau với phước này Ngài sanh lên cõi trời Đạo Lợi.

- Có những người làm phước không phải vì lợi ích chung mà làm phước là vì hoan hỷ với chánh pháp thôi. Có những người, họ bố thí vì thấy việc làm đó rất đẹp. Họ trì giới là vì họ tin vào Đức Phật, nghĩa là cảm nhận được cái đẹp của chánh pháp mà làm thiện, thì người đó sanh về cõi trời Đấu Xuất. Chư Thiên trên cõi trời Đấu Xuất luôn luôn sống trong Pháp. Mỗi một thời gian nào đó cố định Chư Thiên sẽ vâng tập trở lại để nghe pháp, để bàn luận Phật Pháp. Thường thường có nhiều vị Bồ Tát căn lành rất cao. Như Đức Bổn Sư của chúng ta, trước khi Ngài giáng trần để thành Phật, Ngài cũng sanh trên cõi trời Đấu Xuất. Ngài cũng trở thành một vị Pháp chủ trên đó, Ngài giảng đạo nói Pháp cho Chư thiên trên đó. Hiện tại bây giờ Đức Bồ Tát Di-Lặc đang ở trên đó. Cõi trời Đấu Xuất là cõi trời của những người làm thiện vì tâm cảm nhận được cái đẹp cái hay của chánh pháp mà làm, chứ không phải vì cầu phước mà làm. Có nhiều khi bố thí vì thấy hành động bố thí đẹp rồi bố thí thôi, chứ không nghỉ chuyện gì hết.

-Có những chúng sanh làm phước là bởi vì họ muốn xoa dịu nổi khổ của chúng sanh khác. Do mình thấy người đó khổ mình làm cho họ bớt khổ. Ví dụ khi mình hiểu được rằng con em lớn lên trong nhà, hay là thế hệ kế tiếp không được giáo dục đầy đủ thì nó lớn lên sẽ khổ, mình ra công mình làm cho những thế hệ đó bớt khổ, cho người đó bớt khổ. Thấy người nào đó thiếu thốn mình bố thí cho họ. Do làm phước với tâm nguyện làm cho người khác bớt khổ, họ sẽ sanh về cõi trời Dạ-Ma. Chư Thiên trên cõi trời này không bao giờ biết buồn hết, gọi là Vô Ưu Chư thiên. Tâm hồn những vị Chư Thiên này suốt cả cuộc đời không bao giờ biết khổ. Chư thiên ở cõi trời Đạo Lợi hay ở cõi trời Tứ Đại Thiên Vương, như Đức trời Đế thích có lúc cũng rầu rĩ, có chuyện cũng rầu rĩ, nhưng chư thiên ở cung trời Dạ-Ma không biết buồn. Không biết quý vị Phật tử ở đây có khi nào gặp những người mà từ lúc họ sanh ra cho đến khi lớn lên, khuôn mặt họ lúc nào cũng vui vẻ và hình như họ ít buồn hơn những người khác. Có những người trong chúng ta sống hay buồn bực, có những người sanh ra đời, họ cũng ăn cũng làm cũng đi học cũng có gia đình như mọi người khác, nhưng tâm hồn họ an lạc. Cái an lạc đó là do cái phước. Không phải ai ai cũng được như vậy được đâu. Không phải là dùng trí tuệ mới an lạc, mà họ an lạc nhờ cái phước. Phước đó là do đời trước họ thấy người ta khổ, họ làm sao cho người ta bớt khổ. Do nghĩ đến chuyện làm cho người khác bớt khổ nên sanh ra cá tính họ không khổ. Quý vị thấy như vầy, những người hay cho người khác, những người đó ít thấy thiếu thốn và những người càng bỏn xẻn họ càng thấy thiếu nhiều, càng thấy thiếu đủ thứ. Không có nghĩa là những người ít cảm thấy thiếu thốn là họ đầy đủ hơn những người khác đâu. Không phải. Không phải họ giàu hơn nhưng vì họ quen cho rồi. Có một đồng họ xài nửa đồng họ cho nửa đồng. Có mười đồng họ cho năm đồng, họ xài năm đồng, họ không thấy thiếu. Những người lúc nào cũng ky cóp, cũng cố gắng gìn giữ, cũng cảm thấy thiếu thốn hoài. Hay một người trong đời sống của mình ít bố thí, ít có xoa dịu nổi khổ của người khác, thấy đời sống của mình sao khổ quá, lúc nào cũng ray rứt. Còn những người như dì phước đi làm trong những trại cùi hay những người đi lo giúp đỡ những người nghèo khó không phải họ sống sung sướng hơn chúng ta đâu. Như khi họ làm trong các trại tỵ nan hay làm tại các trại cùi, họ cũng khổ cũng thiếu tiện nghi lắm, nhưng họ không khổ vì họ thấy người khác còn khổ hơn họ nữa. Bởi vì vậy, họ không có khổ. Ai làm phước với tâm nghĩ rằng để xoa dịu nổi khổ của người khác, người đó sẽ sanh về cõi trời Dạ-Ma, và sanh ra đời không bao giờ thấy sự khổ hết.

-Những người làm phước vì lý tưởng phục vụ cho nhân quần, một lý tưởng hết sức trọng đại. Như trường hợp một vị vua hay một vị tổng thống, họ làm việc với ý niệm chung để phục vụ để cải thiện đời sống của người dân. Những người này sẽ sanh về cõi trời gọi là Hoá lạc thiên. Hóa Lạc Thiên là cõi trời tự họ, họ có thể làm ra hạnh phúc cho họ được, họ không bị lệ thuộc vào người khác. Như vậy quý vị sẽ hỏi rằng, “ Như vậy ở trần gian này chúng ta cũng tự biến hoá hạnh phúc mình được”. Nhưng theo trong kinh Phật, hạnh phúc của chúng ta là hạnh phúc vay mượn rất nhiều. Đành rằng chúng ta công nhận thực tế ở đây chúng ta có nhiều người hạnh phúc thật, có cha có mẹ mới hạnh phúc, có vợ mới hạnh phúc, có chồng mới hạnh phúc, có xe cộ mới hạnh phúc, nhưng nếu lấy những thứ đó đi khỏi, chúng ta cũng thấy đau khổ. Vì chúng ta hạnh phúc vì những người đó họ cho mình, họ cho mình nụ cười, họ cho mình sự an ủi, họ cho mình sự nương tựa. Cái hạnh phúc của chúng ta, thấy như vậy chứ nó mỏng manh lắm. Nó mỏng manh đến mức nào? Thỉnh thoảng ở cuộc đời bên ngoài thay đổi thì chúng ta có đau khổ. Bởi vì sao? Vì hạnh phúc đó không phải ở trong lòng chúng ta ra . Như hồ nước khác với dòng suối, Mặt nước trong dòng suối tự nó tuôn ra được, như vậy nếu nắng lâu chưa chắc đã cạn. Nhưng cái hồ nước, chúng ta phải múc nước đổ vào, nếu không nước sẽ cạn. Chư thiên ở cõi Hoá lạc thiên giống như mặt nước trong dòng suối vậy, lúc nào trong lòng họ cũng có khả năng tuôn chảy. Tự trong lòng họ, họ có thể có hạnh phúc mà không cần phải đi vay mượn của người khác.

-Có một chúng sanh khác ở đời, làm phước không phải chỉ vì hạnh phúc cho họ, cũng không phải vì xoa dịu nổi khổ chúng sanh khác mà cái hạnh phúc của họ là để giáo hoá cuộc đời. Họ làm những công việc giáo hoá người này và giáo hoá người kia. Như trường hợp các vị Bồ Tát, hay trường hợp các vị sanh ra đời họ làm vị nguyên thủ quốc gia chẳng hạn. Họ cố gắng tạo ra guồng máy như thế nào để làm cho mọi người sống được an cư lạc nghiệp, được tốt đẹp. Điều đó, họ sanh ra đời họ làm một người lãnh đạo thì họ sanh lên cõi trời Tha hoá tự tại, họ cũng làm vị lãnh đạo. Vị lãnh đạo đó là người có thể điều khiển được Chư thiên vì duyên lành của họ rất lớn. Có đôi khi họ có rất nhiều quyền lực, họ có thể sai khiến cả trăm cả ngàn Chư thiên như vậy. Họ đâm ra kiêu mạn, từ sự kiêu mạn đó họ tạo ra nhiều nghiệp bất thiện giống như Ma vương vậy. Ma vương không phải là một chúng sanh thiếu phước. Ma vương là Chư thiên ở cõi trời Tha hoá tự tại, là một vị thiên chủ, vị Thiên chủ đó còn cao hơn cả Đức trời Đế Thích. Ma Vương dám chiếm bồ đoàn của Đức Phật đó, thưa quý vị, có nhiều phước nhiều đức lắm mới sanh làm Ma vương. Ma Vương là một trong mười vị Phật tổ trong tương lai, sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vị Ma Vương này do có nhiều phước báu Ba-la-mật tạo ở đời, sanh lên cõi trời đó làm lãnh đạo người khác. Chúng tôi nói điều này hơi khó hiểu. Giống như ông Sadam Husen hay là Hitler chẳng hạn. Hai ông là những người rất ác, nhưng không phải những người đó không có tiền nghiệp tốt. Nếu họ không có phước, họ không có nhiều quyền hành, nhiều tài sản như vậy, mặc dầu ở kiếp này bị người ta nguyền rủa. Dĩ nhiên kiếp này tạo nghiệp ác, sanh vào kiếp sau sanh vào địa ngục, kiếp sau khổ đó. Do kiếp trước họ tạo nhiều thiện nghiệp nên đời này nói nhiều người khác mới nghe. Quý vị nghĩ bao nhiêu nhà ông tiến sĩ, bao nhiêu nhà chính khách tại sao nói không ai nghe mà ông nói nhiều người nghe. Ông cũng có phước chứ không phải là không. Như ông Sadam Husen, ông làm những chuyện rất là khùng, nhưng ông vẫn điều binh khiển tướng được, tức là ông vẫn có phước. Ngay như Pôn Pốt giết biết bao nhiêu người nhưng cũng làm lãnh đạo được, cũng lãnh đạo ít nhất một nhóm người. Như có những người rất giàu có nhưng họ rất bỏn xẻn, họ keo kiệt vô cùng. Không phải họ không có phước. Họ có phước nên họ mới giàu như vậy, nhưng vì kiếp trước họ bố thí rồi họ hối hận, bây giờ sanh lên họ có phước có tài sản nhưng họ không hưởng được. Do vậy Chư thiên sanh về cõi trời Tha hóa tự tại là Chư thiên có rất nhiều quyền uy.

Chúng tôi kể các câu chuyện về các tầng trời này, không phải để đưa quý vị đi du lịch trong trí tưởng tượng. Không phải như vậy, mà để nói về ý niệm mà Đức Phật nói rằng,
“ Thức duyên cho danh sắc”. Nghĩa là:
-Hành động tạo nên tâm thức của mình, chúng ta gọi là “hành duyên cho thức”.
-Cái thức này tạo nên cuộc đời của mình, đời này đời sau, chúng ta gọi là “thức duyên cho danh sắc”.
Danh sắc nghĩa là thân tâm của chúng ta. Bây giờ chúng ta ngồi đây, thật ra chúng ta không thấy được, đúng ra chúng ta nên hiểu một điều rằng cái thân chúng ta, cao thấp, đẹp xấu, trắng đen, là cái kết quả của qúa khứ. Chúng ta nghĩ, chúng ta đang ngồi tại đây, chúng ta thông minh hay chậm hiểu, vui hoặc buồn, tất cả đều là kết quả của quá khứ, kết quả của nghiệp của quá khứ. Bây giờ ngồi kể lại, chỉ có Đức phật mới chỉ rõ cho chúng ta là do nghiệp nào, chúng ta sanh làm người Việt Nam, do nghiệp nào, chúng ta làm người này chúng ta làm người kia. Chúng ta chỉ biết một cách rất đại khái là do nghiệp quá khứ chúng ta sanh làm người ở đây.

Nhà truờng là nơi học sinh đến học, lao tù là nơi tội nhân bị giam giữ, công sở là nơi công chức đến làm việc, tất cả cảnh giới nào chúng sanh đến đó đều tương xứng với việc của mình làm. Con người mình bỏn xẻn keo kiệt nhiều, chúng ta sanh làm ngạ quỷ, thấy thức ăn không ăn được. Con người lúc nào cũng sân giận, cũng dữ tợn, nghĩ đến bạo lực sẽ sanh về cõi A-Tu-La. Con người, sống lúc nào cũng nghĩ bên ngoài không biết hướng nội bên trong họ sanh vào bàng sanh. Con người nào luôn luôn muốn làm khổ làm hại người khác, họ sanh vào địa ngục, quỷ sứ hại lại họ, họ bị đủ thứ chuyện khổ hết.Con người nào bố thí để xoa dịu nổi khổ thì sanh về cõi trời Dạ-Ma. Con người nào sống như con người, cầu tiến như con người, người đó sanh trở lại làm người.

Ngày xưa có hai vị tu sĩ. Hai vị tu sĩ này phát tâm rất tinh tấn, tức là họ sẽ tu đến nơi đến chốn, tuyệt đối cái gì họ tin họ sẽ thực hành một cách mỹ mãn . Người Ấn Độ có nhiều suy tư rất lạ lùng. Ở đây chúng ta nói ra rất khó tin, nhưng nếu quý vị đến Ấn độ sẽ thấy đó là chuyện có thật. Ví dụ như hai vị tôn giả này họ đều tin rằng, nếu mình lập hạnh nào đó mình kiên trì theo nó hoài, từ ngày này qua ngày kia thì chắc chắn rằng họ sẽ đạt được trình độ tuyệt chủ cao độ. Bởi vì họ tu pháp đó rốt ráo, dù là pháp gì đi nữa tốt hay xấu không cần biết. Do vậy một vị phát nguyện tu theo hạnh con bò, một vị phát nguyện tu theo hạnh con chó. Như ở bên Tàu, những người luyện võ họ luyện theo kiểu con rắn họ luyện theo kiểu con cọp, long- xà- hổ- báo- tượng v.v…người Tàu thì họ coi theo những con vật để luyện võ còn người Ấn Độ coi theo con vật để làm cái hạnh tu, làm phương tiện để tu. Người luyện võ theo kiểu con rắn con khỉ thì họ phải làm giống theo như con rắn con khỉ. Hai vị Tôn giả này khi luyện theo con bò và con chó, con chó đại tiện như thế nào tiểu tiện như thế nào thì vị đó cũng làm y như vậy, đi như thế nào thì cũng đi y như vậy, ăn như thế nào thì vị ấy ăn y như vậy, sủa như thế nào thì vị ấy cũng sủa y như vậy, phản ứng như thế nào thì vị này cũng bắt chuớc y như vậy. Trong suốt hai phần ba cuộc đời vị này tu hạnh con chó, được gọi là Cẩu hành giả. Vị kia tu theo hạnh con bò, con bò nó rống như thế nào, nó ăn cỏ như thế nào, nó đi đứng ra sao vị này cũng bắt chước y như vậy và bắt chước một cách rất mỹ mãn trong hai phần ba cuộc đời. Vị này được gọi là Ngưu hành giả. Đến khi Đức Phật ra đời, hai vị này được nghe Đức phật là bậc đạo sư bậc giác ngộ, nên hai vị tìm đến Đức Phật. Câu hỏi đầu tiên hai vị ấy muốn biết rằng pháp tu của mình có kết quả như thế nào? Gíông như quý vị bỏ ra rất nhiều tiền để mua một món đồ, quý vị hỏi người này nguời kia, món đồ có giá trị hay không vậy đó.
Hai vị đến gặp Đức Phật hỏi.
-“ Thưa Sa môn Cồ Đàm, nghe nói ngài là bậc thông tuệ, theo ý kiến của Ngài có thể cho chúng tôi biết rằng, chúng tôi một người tu hạnh con bò một người tu hạnh con chó và tu rất là mỹ mãn, tu cả đời như vậy. Kết quả bây giờ và kết quả về sau sẽ dẫn chúng tôi đi về đâu?”
Đức Phật trả lời như thế nào? Đức Phật im lặng. Ngài không trả lời.
Ông hỏi lần thứ hai, Đức Phật vẫn im lặng.
Ông hỏi lần thứ ba, Đức Phật vẫn im lặng.
Khi được hỏi lần nữa, Đức Phật nói rằng,
- “ Thật ra Như Lai không muốn nói, bởi vì lời nói của Như Lai sẽ làm cho hai ông rất khổ”
Cả hai vị đều chắp tay lên.
-“ Thưa Sa-Môn, xin Ngài cứ nói”
Ngài nói rằng,
-“ Người nào tu theo hạnh con bò thì kiếp sau sẽ sanh làm bò. Người nào tu theo hạnh con chó kiếp sau sẽ sanh làm con chó”
Khi nghe nói như vậy cả hai vị lăn ra khóc lóc, kể lể rất đau khổ. Sau đó họ bỏ hạnh tu đó. Lúc bấy giờ Đức Phật dạy họ sống như con người để đời sau sanh ra làm con người, sống như bậc thánh để được làm bậc thánh. Tại sao vậy? Tại vì chúng ta muốn làm con người chúng ta phải làm giống như con người. Câu hỏi khó khăn là, “sống như con người là như thế nào?” Đó là cái mà chúng ta cần phải học nhiều trong Phật Pháp. Nhưng hễ người hành động giống như A-Tu-La thì người đó sẽ sanh vào cõi A-Tu-La, người hành động như ngạ quỹ sẽ sanh vào cõi ngạ quỹ. Không có gì khác hơn điều đó, sự việc trên đời là như vậy. Hễ thức thì duyên thì cho danh sắc, tâm của chúng ta như thế nào sẽ sanh về chỗ có thân tâm giống như vậy.

Theo như trong kinh tạng, khi Đức Phật trông thấy những người Bà-La-Môn hay những người tu sĩ ngoại đạo xuống tắm dòng sông Hằng.
Ngài hỏi họ làm gì?
Họ nói rằng họ xuống tắm để rửa tội.
Đức Phật mới nói.
-“ Trong giới luật của bậc Thánh, trong cung cách của bậc Thánh, rửa tội khác chứ không giống như vậy”
Ngài đi dọc đường gặp một thanh niên sáng nào cũng lễ bái sáu hướng, gọi là lễ bái lục phương. Lạy hướng Đông- Nam- Tây- Bắc- Trên- Dưới.
Đức Phật nói rằng,
-“Những lễ nghi đó bậc Thánh có làm, nhưng bậc Thánh làm khác, bậc Thánh có lễ bái sáu phương nhưng lễ bái theo cung cách bậc Thánh.”

Có rất nhiều trường hợp Đức Phật nói như vậy, chứ không phải một hay hai trường hợp. Câu nói của Đức Phật thường là, “À, cái nghi thức của bậc Thánh làm như thế này, cái hiểu của bậc Thánh làm như thế kia và hành động của bậc Thánh làm như thế nọ”. Tại vì Ngài nói rằng một người sống theo bậc Thánh sẽ trở thành bậc Thánh, sống theo giới luật của bậc Thánh sẽ trở thành bậc Thánh. Như chúng ta, sanh làm con người, sống đúng ý nghĩa con người chúng ta trở thành con người. Sanh làm con người, ý nghĩa con người là gì? Con người là biết thờ cha kính mẹ, biết trên biết dưới, là con người biết giữ bản thân của mình, con người thọ ân biết báo ân. Nếu một người sanh ra ở đời chỉ có ác tính thôi thì họ sẽ sanh vào cảnh giới tương xứng như vậy. Cái đó Đức Phật Ngài gọi là “ thức duyên cho danh sắc”

Trong kinh Phật có rất nhiều cảnh giới, nhiều Phật tử cũng như nhiều tôn giáo khác hay nhìn về điều này rất hời hợt. Quý vị nhìn thấy bản đồ này về Thập nhị nhân duyên. Trong bản đồ này có vẽ về sáu cảnh giới mà chúng ta gọi là lục đạo. Trời, Người, A-tu-la, Ngạ quỹ, Địa ngục, Súc sanh v.v… Khi người ngoại quốc đến với người Tây Tạng, người Tây Tạng hay nói về cảnh giới. Người Tây phương cho rằng người Tây Tạng là dân tộc có nhiều thần thoại viễn vông, giống như chúng ta nghe trong thần thoại Hy Lạp vậy. Người ta thường có sự so sánh đạo Phật nói có cõi trời, thì đạo Thiên chúa có thiên đàng, đạo Khổng cũng nói có cõi trời. Nhưng cõi trời giữa các tôn giáo và đạo Phật không giống nhau. Cõi trời của các tôn giáo là cõi, nơi đó có một vị Thần linh ngự trị, vị Thần linh đó nếu ai vinh danh Ngài, ai làm điều gì đó Ngài thấy Ngài muốn ban phước đem về cho ở. Nhưng những cõi trời ở Phật giáo từ cõi địa ngục lên đến cõi vô sắc, đều là kết quả của hành nghiệp. Chữ hành nghiệp Đức Phật ngài dạy rất rõ ràng. Rõ ràng giống như quý vị đi học trong trường, quý vị lấy ngành nào thì ra đời làm việc đó vậy, không phải chuyện hoang đường như chúng ta nghĩ. Người tu thiền thì có cảnh giới của thiền. Ngừơi hành thiền sắc giới thì có cõi sắc giới. Người hành thiền vô sắc thì có cõi vô sắc. Người làm giống như ngạ quỷ thì sanh về cõi ngạ quỷ. Người sống như con nguời thì sẽ trở về cõi người. Người sống để sanh về cõi trời thì họ sẽ sanh về cõi trời.

Như vậy giáo lý về các cõi trong nhà Phật không có viễn vông như chúng ta nghĩ. Không phải tự nhiên Đức Phật Ngài buồn quá, Ngài nói về cõi trời dục giới, Ngài vẽ ra 6 cõi trời. Không phải như vậy, mà Ngài nói rõ ràng cho chúng ta biết, tuy rằng cũng làm thiện nhưng mỗi người làm thiện khác nhau, sanh về những cõi đương nhiên khác nhau. Như người làm thiện như là người đầu tư, lên trên đó họ cũng phải đi làm. Đầu tư là gì? đầu tư là làm việc chứ gì? Cho nên sanh lên họ cũng đi làm thôi, họ làm Càn-Thát-Bà, cũng là ở cõi trời nhưng lên đó đánh đàn để Chư thiên khác nghe. Cũng là ông trời, là ông trời con, cũng phải có job để làm. Nhưng có những Chư thiên tự họ, họ hưởng phước lấy. Không phải Chư thiên trên cõi trời giống nhau đâu quý vị. Có những vị ở một mình có những vị phải đi hầu hạ các vị khác. Có nhiều Thiên nữ sanh ra trên đó để hầu hạ vua trời Đế Thích. Lại có những người sanh làm Chư Thiên, cũng không được yên thân, họ đi giữ nhà cho người ta, có những Chư thiên đi giữ gốc cây, có những Chư thiên phải đi đánh đàn cho người khác nghe. Nếu nói cho vui là những Chư thiên đó có công ăn việc làm, nhưng đã sanh lên cõi trời, thất nghiệp tốt hơn là có công ăn việc làm. Nói là thất nghiệp không phải, nhưng thường thường Chư thiên sanh lên đó có đủ phước sung mãn, họ không cần có phận sự. Nhưng nếu vị nào làm phước giống như sự đầu tư ở cõi trần, họ sanh lên đó bắt buộc họ phải làm. Tại vì sao? Tại vì họ làm phước có hậu ý. Thói quen quen làm việc rồi, đã làm phước mà làm giống như đầu tư nữa thì lên trên đó thì quả phải đầu tư thôi. Do đó quý vị Phật tử đừng có ngại, đôi khi quý vị hỏi rằng, “ Mình làm phước mà mình không nguyện được cái này cái kia, mình có phước hay không?” Chúng ta làm phước với động lực gì? Nếu ta làm phước để xoa dịu nổi khổ chúng sanh khác thì có phước sẽ sanh về cõi trời Dạ-Ma làm Chư thiên không biết đau khổ. Nếu chúng ta làm phước vì hiểu Phật Pháp vì thích Phật Pháp mà làm thì có phước, sanh lên cõi trời Đấu Xuất, ở đó Chư thiên hưởng phước, Chư thiên thích nghe Pháp, sống bằng hương vị chánh pháp. Nhân nào quả đó. Cây lành trái ngọt. Chuyện Nhân-Quả mặc dầu nói nghe rất nhiêu khê, nói nghe rất tỉ mỉ rất chi li, Đức Phật nói tới nói lui, Ngài cho chúng ta biết rằng, “ Việc nào thì có quả đó tương xứng”. Mặc dầu người này ta thấy đời này như vậy mà hành động họ rất tệ, tuy nhiên họ hưởng phước qúa khứ của họ, chúng ta không thấy được. Nhưng có những người đời này họ sanh ra rất cực khổ, họ làm phước rất nhiều, nhưng chúng ta đừng nói họ không có phước, tương lai họ sẽ được hưởng. Cái nhìn của chúng ta là cái nhìn trước mắt, cái nhìn ở một thời , một việc, một góc cạnh. Chúng ta không thể nhìn trọn vẹn vấn đề được đâu.

Thường thường những người không tin vào lý nghiệp báo là những người quá kiêu mạn.
Cũng như bây giờ hỏi quý vị,
-“ Quý vị chạy xe, quý vị có biết hết chiếc xe không?”
Người nào trả lời,
- “Biết”, thì người đó đôi khi hơi nói quá.
Tại vì chúng ta biết bẻ lái như thế nào, biết đạp thắng, đạp ga như thế nào, nhưng nhiều khi xe trục trặc chưa chắc chúng ta biết sửa. Chúng ta biết chạy xe chưa chắc chúng ta biết về chiếc xe đâu. Quý vị biết sửa xe chưa chắc quý vị biết các định luật vật lý trên xe đâu. Chúng ta biết sửa xe, biết thay bugi, biết thay dầu như thế nào, nhưng nếu có ai cắc cớ hỏi chúng ta chiếc xe tại sao chạy, chúng ta không biết trả lời ra sao. Cái máy nổ như thế nào, chúng ta không biết trả lời ra sao.

Một đứa bé đến hỏi quý vị, “ Tại sao chiếc TV hát được như vậy?”
Quý vị trả lời, “À tại có cái đài nó phát hình thì ở đây nó nhận được”
Nếu bắt giải thích, chúng ta khó giải thích, chứ không phải dễ dàng như vậy. Cái nghiệp Đức Phật Ngài nhìn rất nhiều phương diện, rất nhiều ngôn ngữ để cho chúng ta hiểu. Nhưng thật sự không phải dễ hiểu. Nó khó hiểu vì có quá nhiều chi tiết. Đành rằng chúng ta không hiểu hết.Tuy nhiên nhờ vào Đức Phật, nhờ vào giáo pháp của Ngài, chúng ta cũng có ý niệm, “À, hành có duyên cho thức, thức có duyên cho danh sắc”. Điều này chúng ta biết như vậy thì chúng ta tu dễ hơn, chúng ta không nhìn vấn đề hời hợt.



Phra Viriyang Sirintharo

Chúng tôi thấy một điều, đây là lời tâm sự thành thật. Có nhiều khi chúng ta học Phật Pháp, không phải để chúng ta biết nhiều đâu, mà chúng ta học Phật Pháp để bớt đi cái ngã mạn của mình. Vì khi học Phật Pháp, chúng ta thấy Phật Pháp li chi, chúng ta không tự cho rằng, “À cái gì mình cũng biết hết” và nhờ như vậy chúng ta không xem thường, chứ không phải chúng ta học Phật Pháp để cái gì chúng ta cũng biết. Không phải như vậy. Chúng ta học để chúng ta biết cái u mê, cái vô minh của mình. Như vậy chúng ta nghe Phật Pháp chúng ta mới nghĩ rằng, “À trên đời này có nhiều cái huyền diệu, có những điểm sâu xa như vậy. Sỡ dĩ chúng ta không tin vì chúng ta không biết, chứ không phải không có” Người đời sở dĩ người ta làm ác nhiều vì họ nghĩ họ biết hết. Họ nói rằng,
“ Không có kiếp trước, không có kiếp sau, chỉ có kiếp này thôi. Do đó chúng ta cứ hưởng hết đi.” Họ nghĩ rằng không có kiếp trước bởi vì họ không thấy có kiếp trước. Không có kiếp sau vì có thấy kiếp sau bao giờ đâu. Chúng ta học tập để làm gì, để bớt đi cái kiêu mạn mà sanh ra tà kiến, vì không có tà kiến chúng ta bớt đi làm những việc bất thiện, không phải để răn đe chính mình .

Trong nhà chúng ta lớn lên, cha mẹ có nói như vầy, “Ăn ở có hậu, để đức cho đời sau” Có nhiều khi chúng ta tin, nhiều khi chúng ta không tin. Nhưng nếu chúng ta tin được thì quả thật là tốt lắm. Ít nhất chúng ta sống có đạo đức và đối với Đức Phật Ngài không muốn dạy chúng ta trở thành một người kỹ sư, cũng giống như quý vị không cần phải biết tất cả về xe, quý vị mới lái xe được. Không phải như vậy. Không phải quý vị biết sửa xe quý vị mới có quyền lái xe. Điều đó có nghĩa không phải quý vị học hết về Phật Pháp quý vị mới có thể tu được. Nhưng biết càng nhiều cũng có cái lợi của nó. Nếu lái xe mà đến lúc nó hết dầu hết nhớt mà chúng ta không biết thay thì cũng phiền lắm. Nên Đức Phật khuyến khích chúng ta nên biết. Tuy nhiên bảo rằng muốn lái xe mà phải biết hết tất cả mọi thứ, cái thắng được chế tạo như thế nào, cái máy được chế tạo như thế nào, có khi nó cũng thừa thải lắm, có khi nó không cần thiết. Nhưng chúng ta cũng cần biết đôi chút, như người ta chế cái bố thắng, khi chúng ta chạy qua nước, nếu nước dính vào bố thắng thì chúng ta thắng không ăn nữa. Chúng ta cũng nên biết cái thắng được chế như thế nào để khi chúng ta gặp nước chúng ta chạy chậm một chút. Cái đó là những điều cần thiết nên biết.

Dầu sao đi nữa, ngày hôm nay khi chúng ta nói về thập nhị nhân duyên, chúng tôi cố gắng không đi quá sâu vào chi tiết. Bởi vì đi sâu vào chi tiết rất khô khan. Điều chúng tôi cố gắng muốn làm ở tại đây, là làm sao để quý vị thấy rằng, giáo lý này nó có liên hệ đến đời sống tinh thần của mình. Chứ nó không phải là triết lý, gọi là vũ trụ quan của đạo Phật. Đức Phật không nói điều đó ra để chúng ta nhìn cuộc đời là, “À, mình biết cuộc đời đã được tạo ra như thế nào”. Không phải như vậy. Ngài cho chúng ta thấy rằng, đời sống có quan hệ giữa người này và người khác từ hành động, lời nói hay việc làm của mình.

Trước khi đi vào phần “danh sắc duyên cho lục nhập”. Chúng ta nên có một chút minh đinh giữa chữ Nhân và chữ Duyên. Thường thường Nhân và Duyên, hai chữ đi chung với nhau. Trong từ ngữ Phật học thì chữ Nhân có khác biệt với chữ Duyên, mặc dầu nhân, nó cũng là một cái duyên nhưng không phải tất cả duyên đều là nhân được hết. Như một hạt giống như một hột xoài được gieo xuống là trồng lên cây xoài, cây xoài có bông có quả. Một khi có quả xoài nó cho ra hột xoài, từ hột xoài này trở thành một cây xoài khác, một trái xoài khác. Một tiến trình trọn vẹn như vậy, chúng ta gọi là duyên. Nói đến nhân thì có quả. Quả là cái gì rất giống nhân, như hột xoài này cho ra trái xoài khác và trái xoài khác cho ra hột xoài. Tuy nhiên cái nhân và duyên không nhất thiết nhân duyên ảnh hưởng giống nhau. Như trường hợp ngày hôm nay có nhiều người không đi chùa được vì có một số đã đi nghỉ lễ ở xa. Cái chuyện đi nghỉ lễ không phải là nhân, và chuyện bớt Phật tử đi chùa không phải là quả, chúng tôi gọi đó là cái duyên. Như vậy cái Duyên là những ảnh hưởng làm cho khác đi, làm cho sự việc đi vào xu hướng này hoặc xu hướng kia. Nhân thì ngược lại, nhân là hạt giống sẽ trổ quả, quả sẽ hoàn tất chu kỳ của nó, chúng tôi gọi là quả.

Qua ví dụ khác, chúng ta đi tu do vậy chúng ta chứng được đắc đạo quả, đó là nhân quả. Nhưng không phải nói vì chúng ta đi tu nên cái quả là chúng ta phải cạo đầu, cạo đầu không phải là quả của đi tu, cạo đầu chỉ là cái duyên, chúng ta đi tu phải cạo đầu mà thôi. Chữ Duyên trong đạo Phật được nói rất là khác biệt, khi chúng ta nói đến nhân và quả thì nhân quả giới hạn trong phạm vi nghiệp báo. Nhân lành cho quả vui nhân ác cho quả khổ. Khi ta nói đến chữ duyên ta nói đến một ý tưởng rộng rãi hơn nhiều, bất cứ cái gì có ảnh hưởng đến người khác, điều đó gọi là duyên hết. Như chúng ta nói vô minh duyên cho hành, vì chỗ không biết không thấy mà chúng ta hành động. Như vậy đó là Duyên, “vô minh Duyên cho hành”, chúng ta thật sự gọi là “vô minh là Duyên cho hành”. Nhưng khi nói đến hành Duyên cho thức thì hành vừa là nhân của thức và hành vừa là Duyên cho thức được. Như vậy sự khác biệt giữa nhân và duyên.

Tiến trình Thập nhị nhân duyên chúng tôi đã đề cập:
-Từ “ vô minh duyên cho hành” tức là từ sự không biết không thấy mà hành động,
- Từ hành động ảnh hưởng đến đời sống tâm thức của mình, tạo ra thức tái sinh. Gọi là “hành duyên cho thức”.
-Từ thức tái sanh đó con người có mặt sanh vào các cảnh giới có thân và có tâm, chúng ta goi là “thức duyên cho danh sắc”.
-Bây giờ đến phần này tương đối hơi khó hiểu, có thể nói là phần khó hiểu nhất của Thập nhị nhân duyên, tức là “ Danh sắc duyên cho lục nhập”

Trên phương diện định nghĩa thì không có gì khó hiểu cả. Danh sắc có nghĩa là thân và tâm, nói nôm na như vậy. Trong danh từ Phật học, danh là cái gì có tên mà không thể sờ mó được, không thể thấy được. Đó là chúng ta đề cập đến tâm của mình. Chữ sắc có nghĩa là thành phần vật chất thuộc về sắc pháp, tức là nói về cơ thể của chúng ta. Nói một cách nôm na, danh sắc đồng nghĩa với tâm và thân. Danh là tâm và sắc là thân của mình.
Nhưng quý vị hỏi rằng, “ Lục nhập là gì?”
Thưa quý vị, “ Lục nhập là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý. Được gọi là lục nhập hay còn gọi là lục xứ”
“Do có danh - sắc duyên cho lục nhập”. Điều này khó hiểu hơn chúng ta định nghĩa danh sắc và lục nhập. Tại vì định nghĩa danh sắc thì rất dễ và định nghĩa lục nhập thì rất dễ bởi vì qúi vị ai cũng hiểu mắt tai, mũi lưỡi thân ý. Nhưng tại sao gọi là danh-sắc duyên cho lục- nhập, trong khi có danh sắc thì tự nhiên phải có lục nhập, chứ tại sao chúng ta lại gọi có danh - sắc lại duyên cho lục nhập sanh khởi. Chúng tôi tạm nói về hai cách giải thích khác nhau của hai truyền thống đạo Phật. Một truyền thống giải theo chú giải và một truyền thống giải theo tiếng Tàu.

Nhưng trước khi đi vào “danh-sắc duyên cho lục-nhập” chúng tôi muốn đi sâu một chút vào chữ lục-nhập tức là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Có nhiều cách Đức Phật nói về con người.
-Ngài nói con người có năm uẩn, đem con người chia ra có năm uẩn như chúng ta vẫn thường nói thân là sắc uẩn, tâm thì có thọ- tưởng- hành- thức, như chúng ta đã định nghĩa nhiều lần.
-Có khi Đức Phật Ngài nói con người có ba phần là thân , khẩu, ý. Cái gì thuộc về thân là hành động. Cái gì thuộc về lời nói là khẩu. Cái gì thuôc về ý nghĩ là ý. Chúng ta thấy thân khẩu ý trọn vẹn sở hành của con người.
-Khi Đức Phật Ngài nói con người có sáu thức hay lục nhập mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, thì điều đó có nghĩa là một cách nói về con người, mà nói một cách trọn vẹn.
Nếu quý vị bỏ trừ con mắt ra, bỏ trừ những gì mình thấy ra,
Bỏ tai ra bỏ trừ những gì mình nghe ra,
Bỏ mũi, bỏ trừ những gì mình ngửi ra
Bỏ lưỡi, bỏ những gì mình nếm ra
Bỏ thân ra bỏ những gì chúng ta cảm xúc
Bỏ ý ra, bỏ những gì chúng ta suy nghĩ.
Thì chúng ta không còn gì gọi là con người hết.
Như vậy con người được Đức Phật Ngài dùng nhiều hình thức khác nhau để Ngài phân tích.

Ví dụ bây giờ chúng ta ngồi đây trong hội chúng này, chúng ta có nhiều cách để nói:
-Tất cả mọi người ở đây có hai thành phần: một là xuất gia, hai là tại gia. Chúng tôi là xuất gia, quý vị là tại gia, như vậy chúng ta đủ hết.
-Chúng ta cũng chia một cách khác, tất cả chúng ta ngồi tại đây có hai thành phần là nam và nữ. Như vậy chúng ta cũng đủ hết.
- Chúng ta cũng chia một cách khác, ở đây có ba thành phần là lão niên, trung niên và thiếu niên. Như vậy chúng ta nói cũng đủ. Tuỳ vào phương diện mà nói.

Khi Đức Phật nói đến lục nhập, Ngài phân tích con người theo cái thức, chứ Ngài không nói về phần vô tri của con người. Ngài cho con người là một sinh vật rất sinh động, Thí dụ Ngài nói con người có năm uẩn là sắc thọ tưởng hành thức, thì phần sắc là phần vô tri hoàn toàn.
Tuy nhiên khi nói đến lục nhập, cả sáu thành phần đó của con người đều là phần tri thức, phần cảm nhận hết. Vì con người được trình bày ở đây là một sinh vật rất là hiện hữu sinh động, chứ không phải có một phần nào là vô tri giác. Nếu quý vị nói về phần vật chất của chúng ta thì chúng ta có mắt tai mũi lưỡi và thân, mắt, tai , mũi, lưỡi và thân ở đây được xem như là nền tảng cho thân thức sanh khởi, qua vật chất. Có nghĩa là để thấy, để nghe, để ngửi, để nếm, để đụng. Có nghĩa là chúng ta nói về thị giác, về thính giác, về khứu giác, về vị giác, về xúc giác. Nhưng cái thấy nghe ngửi nếm đụng đó là cái mà chúng ta gọi là thân ở đây, thân là cái nền tảng là cái căn cứ, từ chỗ đó tâm thức sanh khởi. Nếu nó sanh khởi ở mắt, Đức Phật gọi là nhãn thức, sanh khởi ở lỗ tai Đức Phật Ngài gọi là nhĩ thức, sanh khởi ở lỗ mũi Đức Phật Ngài gọi là tỷ thức, sanh khởi ở lưỡi Đức Phật Ngài gọi là thiệt thức, sanh khởi ở thân Đức Phật Ngài gọi là thân thức, và sanh khởi ở ý Đức Phật Ngài gọi là ý thức.

Khi Đức Phật Ngài diễn tả con người như sáu ý thức này thì Ngài muốn tạo cho chúng ta một hình ảnh, chúng ta là một loài hữu tình. Ở đây có quý vị nào nghe “vật hữu tình” không? Trong kinh điển nếu quý vị đọc, quý vị sẽ nghe rất nhiều. Chữ hữu tình và chữ chúng sanh giống nhau. Chữ Sattā dịch là chúng sanh, chúng sanh là loài có sự sống hay sinh vật. Loài có sự sống tức là là loài có tri thức có cảm giác. Loài hữu tình, chữ tình có nghĩa là tình cảm, nói như chúng ta nói một cách thông thường. Chữ tình ở đây còn có nghĩa là tri thức nữa. Do vậy chúng ta gọi là loài chúng sanh hay loài hữu tình, tức là những sinh vật sống và có nhận thức, có cảm giác. Cái nhận thức và cảm giác này rất là quan trọng. Bởi vì từ đó nó sanh ra đủ thứ chuyện hết.
Đức Phật Ngài nói,
-“ Mắt, ở đó như là vết thương. Mắt, ở đó như là hầm lửa vì từ chỗ đó, từ ở mắt, có nhiều phiền não từ đó mà sanh khởi”.
Như vậy chúng ta đã có một ý nghĩ thế nào là danh sắc và thế nào là lục nhập.

Kinh tạng bình thường có thể đặt vấn đề là như vậy lục nhập cũng có nghĩa là danh sắc và danh sắc cũng có nghĩa là lục nhập. Quý vị có đồng ý không? Tại vì khi nói đến danh sắc thì chúng ta nói đến thân tâm, khi chúng ta nói về lục nhập chúng ta cũng nói về thân tâm. Vậy thì tại sao nói “ danh sắc duyên cho lục nhập” và ở đây danh sắc phải đựơc hiểu như thế nào, lục nhập phải đươc hiểu như thế nào? Với câu hỏi này, ngày xưa người ta có câu trả lời và câu trả lời đó mới nghe rất có lý, mà ngày nay các kinh điển Bắc Tông thường hay giải thích nhưng quý vị nên lưu ý điều này vì cách giải thích không chính xác.

Giải thích nói rằng danh sắc ở đây, danh là thức tái sanh đầu đời, là thức đi vào trong lòng mẹ. Sắc là bào thai trong thời kỳ phôi thai trứng nước. Đó là danh sắc. Khi bào thai được hình thành, rồi đến lúc nào đó có tay có chân có mắt có tai mũi thì đó gọi là danh sắc duyên cho lục nhập. Lối giải thích này mới nghe rất ổn. Tại vì sao vậy? Tại vì từ bào thai mỏng manh chúng ta gọi là danh sắc, sau đó hình thành mắt tai mũi lưỡi, như vậy danh sắc đã duyên cho lục nhập rồi.
Nhưng thật sự không phải như vậy. Bởi vì hai lý do.

-Lý do thứ nhất là mặc dầu trong thời kỳ phôi thai trứng nước như vậy, chưa có mắt tai mũi lưỡi nhưng đã có thân xúc tức là đã có xúc giác. Các bào thai trong thời kỳ phôi thai nhỏ chưa hình thành có hình thành tay chân mũi miệng đó, nó đã biết phản ứng với cái nóng và cái lạnh, cái đó gọi là xúc giác. Như vậy là đã có thân xúc chứ không phải là không có thân xúc.
- Lý do thứ hai, nếu danh sắc được định nghĩa như vậy, có nghĩa trước khi có mắt, tai , mũi, lưỡi, thân được hình thành trong lòng mẹ. Trước đó chúng ta gọi là danh sắc, sau đó chúng ta gọi là lục nhập, như vậy là không phải. Vì chữ danh sắc Đức Phật Ngài dạy rằng từ lúc chúng ta trong bào thai bà mẹ cho đến lúc chết chúng ta đều có thân và có tâm, do đó chúng ta gọi là có danh và có sắc nữa.

Vậy thì tại sao gọi “danh sắc duyên cho lục nhập”. Chúng tôi không phải hỏi cắc cớ quý vị Phật tử đâu nhưng đây là từ ngữ được nói lên trong kinh điển. Kinh điển nói rằng,
“danh sắc duyên cho lục nhập”. Chữ Danh và Sắc tại đây, cũng có ý nghĩa tương tự là Thân và Tâm. Nhưng Thân và Tâm đó, trong chữ Danh và Sắc đó tiêu biểu cho chủng loại của chúng sanh. Quý vị đã nghe nói “Thức duyên cho danh sắc”, phải không? Như vậy thức đó là gì, thức đó là thức tái sanh.

Băng giảng đến đây là hết./.

Sau đây là 5 câu trả lời của TT Giác Đẳng được thâu âm trong băng giảng 5, vì nhận thấy câu hỏi liên quan đến bài giảng số 4, do đó chúng tôi chuyển phần trả lời này qua bài giảng 4. Vì câu hỏi âm thanh quá nhỏ nên không thể ghi chép lại được. (Minh Hạnh chuyển biên băng 5)

1) Cũng danh và cũng sắc, nhưng danh sắc của cõi trời khác với danh sắc của con người, và danh sắc của con người khác với danh sắc của những chúng sanh sống trong địa ngục, và chính những danh sắc này nó là một ướt định về lục nhập, tức là chủng loại chúng sanh đó quyết định về giác quan của chúng sanh, đó là câu nói khi chúng ta nói về "Danh sắc duyên cho lục nhập". Một người ở trong cõi dục giới như chúng ta đang sống tại đây, chúng ta sống bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý có khác với một vị Phạm Thiên sống ở cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc giới, vị Phạm Thiên sống ở cõi trời sắc giới thì chỉ sống với 3 giác quan thôi, đó là mắt và tai và ý - thấy, nghe và suy tư - nhưng vị đó không có khứu giác tức là không có vị giác, không có xúc giác, cơ thể các vị đó rất là vi tế. Nhưng nói đến cõi trời vô sắc thì các vị đó chỉ có ý thức không có thân, không có phần sắc chúng ta gọi đó là Vô Sắc. Đây là những ý tưởng rất là xa vời mà qúi vị Phật tử rất khó hiểu, tuy nhiên nói theo kinh Phật thì sở dĩ chúng ta có mắt là tại vì chúng ta có đam mê sắc, sở dĩ chúng ta có tai tại vì chúng ta có đam mê tiếng, chúng ta có tai tức là có lòng ái dục, hễ ái dục đặt ở đâu ở đó có lục nhập. Điều đó cũng như là qúi vị ở trong nhà qúi vị làm vườn, qúi vị có cuốc có xẻn, qúi vị làm thư ký thì qúi vị có máy móc, qúi vị làm thợ may thì qúi vị có vải có máy may v.v..... thì tất cả những giác quan mà chúng ta có ở trong cuộc đời này thì những giác quan đó nó kết tụ từ phiền não của chúng ta mà ra, đó là theo kinh Phật. Rồi Chư Thiên nào ở cõi trời sắc giới khi các Ngài tu tập thiền định bằng kasina, nghĩa là các Ngài tu tập đến mức độ chỉ tập trung vào đề mục kasina hay là nghe âm thanh, nghe tiếng thì các vị đó không còn tha thiết với chuyện ăn uống, không tha thiết với những chuyện của đời sống, và dựa trên chỗ đó tâm của các vị được biến mãn, tâm các vị được sanh khởi đầy đủ, do đó được sanh về cõi trời Phạm Thiên không cần xử dụng đến những giác quan khác. Như vậy trong tất cả giác quan chúng ta có thì có 3 giác quan tương đối gọi là vi tế, có một giác quan vừa vi tế vừa thô thiển và có hai giác quan được xem là thô. Thế nào là 3 giác quan vi tế, 3 giác quan vi tế là mắt và tai và ý. Như một người tu tập thiền định họ có thể niệm được thiền định qua mắt, nghĩa là dùng con mắt để nhìn vào một kasina. Ngày hôm nay chúng ta ít thấy ai tu như vậy. Tuy nhiên nếu qúi vị đọc trong Thanh Tịnh Đạo thì qúi vị sẽ thấy rằng có phương pháp tu bằng mắt, như trường hợp một vị họ dùng kasina bằng đất sét để họ tu tập thiền định.

2) Được ghi nhận là có phiền não, giống như người làm ăn đi đâu cũng thấy tiền, họ không nghĩ chuyện chính trị văn hoá, cái này làm ra tiền cái kia làm ra tiền, thì khi đề mục nào đến đầu óc mình nhiều mà nó làm một cái khuynh hướng thì mình chỉ thấy nó mà không thấy điều khác, thì có thể là đạo hữu nhận ra được một tư tưởng liên quan đến cá tính của mình ở trong quá khứ, một tư tưởng liên quan đến kiến thức của mình hay liên quan đến gì đó và những gì đó chỉ được ghi nhận và không nghĩ chuyện gì khác, tại vì tâm quán niệm xứ đến mức độ nào đó chỉ thấy tâm mà không thấy những gì khác, điều này có vẻ hơi khó cảm nhận với một người mới tu thiền, vì một người mới tu thiền có rất nhiều chuyện để quan sát. Như qúi vị phật tử nghe về hành thiền, mình đang ngồi như vầy, hơi thở đang thở ra thở vào, thân thì ngồi với cảm thọ nhức, trong bụng thì có cảm giác như là buồn, như vậy ba, bốn thứ xảy ra một lượt thì lúc đó chúng ta đang gặp tình trạng là phân tâm, bởi vì chúng ta chưa có bắt nhịp được với đề mục nào hết, khi nào mình bắt nhịp được với đề mục nào thì những cái khác sẽ không cần thiết, chỉ cần theo dõi một cái thôi, tại vì chính ra điểm đó cũng không quan trọng, chúng ta theo dõi thân, cái thân không quan trọng mà dùng cái thân để nuôi dưỡng chánh niệm, khi chúng ta theo dõi tâm hay theo dõi cảm thọ thì cảm thọ cũng không quan trọng mà chúng ta chỉ dùng nó như một đối tượng để nuôi dưỡng chánh niệm, và khi chánh niệm đã được nuôi dưỡng rồi thì không cần thiết để nhìn vào những thứ khác, tất cả chỉ là phương tiện. Thật ra thân thọ tâm pháp bốn cái đó nó chỉ là đề mục để niệm, không phải bắt buột mình phải niệm hết, không bắt buột một người phải niệm hết đủ những gì được dạy trong kinh Niệm Xứ, nhưng sở dĩ Đức Phật nói Ngài nói rằng: "Đó là những gì mà mình có thể nhìn vào để niệm chứ không phải là niệm hết." và khi cái nào đã làm cho chánh niệm chúng ta mạnh rồi thì chúng ta không cần nữa. Như con cái đi học thì mục đích là để nên người, do đó học môn nào mà học chí thú, học tiến bộ là được rồi, không nhất thiết là học hết tất cả mọi môn, nên việc nhìn vào tâm mà cảm thấy có một cái niệm nổi bật hay một khía cạnh duy nhất nào đó thì chúng ta nghĩ đến, chúng ta biết đến, chúng ta ghi nhận, thì chuyện đó rất bình thường trong sự tu tập Tứ Niệm Xứ.

3) Có bốn đề mục của thiền Minh Sát là thân, thọ, tâm, và pháp:
Thân được xem như là cái gì mà những hiện tượng của sự di động, những biến động của thân xác này, thọ là những cảm thọ vui buồn, tâm là sự suy nghĩ, Pháp là quan hệ nhân quả. Thí dụ như qúi vị cho chúng tôi một ly nước ngọt trong lúc chúng tôi đang hành thiền, thì người niệm thân họ sẽ niệm rằng "Mình đang muốn cầm ly nước ngọt", khi đụng vào ly nước ngọt họ biết họ đụng ly nước ngọt và họ đưa lên uống họ biết họ đưa lên uống và họ uống vào họ thấy hết khát thì đó là điều của người niệm thân mà gọi là niệm tiểu oai nghi, tức là niệm những oai nghi nhỏ.
Khi một người niệm thọ thì họ sẽ ghi nhận được cảm giác họ đang khát nước có người cho họ ly nước, họ uống ly nước đó, họ đang uống ly nước và họ biết họ đang vui, và khi họ uống vào họ cảm thấy họ thích, thì biết rằng người đó thọ quán niệm xứ.
Khi họ đang hành thiền họ thấy có ly nước cam cho họ uống và khi họ uống vào thì họ nghĩ rằng mình làm sao nhờ ai chạy ra ngoài mua cho mình ly nước cam để ngày mai uống nữa thì họ biết tâm như vậy là tâm tham, cũng trường hợp đó là tâm quán niệm xứ.
Bây giờ một người niệm pháp quán niệm xứ thì họ sẽ ghi nhận được rằng có sự ham muốn và sự ham muốn đó nó có ngăn ngại những pháp khác và họ biết và họ gọi đó là tham triền cái, tại ham muốn có làm ngăn ngại các pháp và khi mà họ muốn mà không biết cách nào để nhờ ai đi mua nước cam đó thì họ cảm thấy hơi khổ tâm thì họ biết rằng là ái sanh ra khổ, muốn mà không được thì khổ, thì họ ghi nhận đó là khổ đế. Nghĩa là cũng trạng thái đó nhưng ghi nhận theo khuôn khổ của chánh pháp, khuôn khổ Phật pháp được Đức Phật giảng về Tứ Đế về Bát Chánh Đạo, Thất Giác Chi, những điều đó cho mình biết liên quan như thế nào. Nói một cách khác khi nào mình gặp một người nào đó mà mình biết đó là anh A anh B là tại vì người đó làm công việc đó, đó là cách tốt nhất, chúng ta biết người đó anh A anh B tại vì tướng mạo đó là cách tốt nhất, chúng ta biết anh A anh B vì anh đó là tổng giám đốc quan hệ trong cơ sở như thế nào, thì quan hệ đó giống như pháp quán niệm xứ, cũng cùng một đối tượng khi mình biết sự liên hệ giữa nó và các pháp khác như thế nào thì đó là pháp quán niệm xứ.
Trở lại câu hỏi mà khi chúng ta niệm tu thiền Minh Sát chúng ta có phải niệm pháp hay không? thì chuyện đó là tùy, dầu sao đi nữa thì cuối cùng đó là con đường đều phải đi qua hết, nhưng trong giai đoạn huấn luyện thì có nhiều vị thiền sư chỉ huấn luyện cho mình một cái để làm căn bản, các vị dạy nhìn vào hơi thở phồng xẹp không để ý thứ khác, vì nghĩ tới chuyện khác làm cho mình phóng tâm không tập luyện được, khi mình niệm cái đó thuần thục rồi, khi niệm hơi thở ra vào thuần thục rồi thì các vị khuyên là khi niệm như vậy thì để ý rằng lúc nào mình muốn đi, lúc nào mình muốn đứng, lúc nào muốn làm cái gì đó, thay vì từ trước giờ mình chỉ bước dở đạp đi thôi, bây giờ để ý cái ý muốn đó, muốn quay lại thì ghi nhận ý muốn đó, rồi để ý muốn đó một thời gian thì mình cũng để ý rằng mình muốn làm cái gì, mà sau khi mình muốn cái đó có cảm giác như thế nào, và khi được cái đó rồi thì cảm giác thế nào, thì lúc đó các vị thiền sư sẽ hướng dẫn xa hơn. Đúng ra thì hầu hết các vị đều dạy thiền Minh Sát giống nhau, tuy nhiên về kinh nghiệm cá nhân các đoạn đầu giới thiệu có phần hơi khác một chút giữa người này và người kia. Do đó pháp quán Tứ Niệm Xứ không nhất quyết là hành thiền Minh Sát ta phải có nó lúc ban đầu, không phải nhất thiết là phải nhìn nó chính như là tham triền cái hay là khổ đế hay là thấy nó như là niệm tuy nhiên về lâu về dài thì người hành thiền Minh Sát phải hiểu tại vì khi mình đụng đầu với nó là mình sẽ biết liền.

4) Điều đó liên quan đến pháp quán niệm xứ, bài kinh đó là một bài kinh là phần liên quan đến pháp quán niệm xứ, thọ quán niệm xứ, tâm quán niệm xứ và pháp quán niệm xứ.
Thí dụ như vầy là cũng thời hơi thở nhưng hơi thở ra dài ta biết hơi thở ra dài, hơi thở ra ngắn thì biết hơi thở ra ngắn và hơi thở biết rõ hơi thở cả ba đoạn, đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, tôi thở vô chẳng hạn thì đó gọi là thân quán niệm xứ.
Nhưng cảm thọ thân hành hay cảm thọ tâm hành tôi sẽ thở vô, cảm thọ thân hành hay cảm thọ tâm hành tôi sẽ thở ra.
Thí dụ như lúc mình đang lo sợ thì hơi thở mình có khác, lúc mình đang ham muốn cái gì đó thì hơi thở mình khác, lúc mình đang giận dữ thì hơi thở có khác và mình ghi nhận điều đó bằng thở ra thì đó là thọ quán niệm xứ.
Còn khi nào tâm an tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra đó là tâm quán niệm xứ.
Nhưng khi mình nhìn hơi thở đó là vô thường thì nó liên quan đến thọ quán niệm xứ.

5) Bài kinh mà đề cập đến như vậy thì bài kinh đó không lấy thân thọ tâm pháp làm chuẩn mà lấy hơi thở làm chuẩn, lấy hơi thở làm rường cột để phát triển quán niệm, như trường hợp một người họ niệm tử thi, về thể trược, niệm về hài cốt thì những người đó không lấy hơi thở để làm chuẩn mà họ dùng con mắt của họ, dùng ký ức của họ để quán niệm, hay là họ niệm về sự chết, tuy nhiên trong bài kinh "Nhập Tức Sổ Quán" thì bài kinh đó hơi thở là quán niệm xứ. Khi thân quán niệm xứ khi niệm đến mức độ thuần thục nào đó thì họ có thể ghi nhận đến mức tế nhị để phối hợp với thọ với tâm và với pháp nhưng không nên chia chuyện đó ra quá chi ly như vậy, ở trong 16 điều liên quan đến quán hơi thở thì chúng ta có thể cảm nhận được, khi một người hành thiền, họ không thể đi theo thứ lớp, không thể đi theo trật tự đó và họ cũng sẽ không có, họ không phải muốn cái đó mà có được, có đôi khi họ quán được và có đôi khi họ không quán được. Một vị thiền sư nói rằng hành thiền thì các Ngài cho rằng quán vô thường không cần mà quan trọng là phát triển chánh niệm, khi có khả năng chánh niệm rồi thì người đó có thể quán vô thường đi với chánh niệm. Như trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng " Thiền định thì huệ sanh mà không thiền thì huệ diệt" Huệ đó là thấy vô thường, khổ não, vô ngã, và có thiền định thì trí huệ do đó mà sanh, nếu chúng ta không có chánh niệm thì nó chỉ là sự suy tư mà thôi nhưng không duy trì được, không duy trì được cảm nhận lâu dài./.



>next page
dieuphap.com