dieuphap.com Trang Chính


Pháp Thoại

ĐĐ. Thích Giác Nguyên

Phật lịch 2544, Tl 2000


[01]
Bài Pháp giảng tại Đà Nẳng

 

Kính thưa tất cả các vị Phật tử nam nữ, cách đây khoảng hai giờ đồng hồ có hai vị Phật tử lớn tuổi và rất tiếc là chúng tôi không được biết tên tình cờ tìm lên phòng riêng của chúng tôi.Trước là thăm, sau là các vị có những câu hỏi về Phật Pháp. Tình thật mà nói ngay những giây phút đó bên cạnh  sự xúc động về ân tình mà các Phật tử Đà Nẵng vẫn dành riêng cho chúng tôi, chúng tôi vẫn có một chút gì đo,ù tạm gọi là chạnh lòng nếu không muốn nói là giât mình khi tôiđược biết là hai vị Phật tử đo,ù vốn là những tín nữ kỳ cựu, trong thực tế đã là những bà cụ, và đã từng là những Phật tử quen biết của các Ngài Hoà thượng trưởng lão đời trước như là Ngài Giới Nghiêm, Ngài Hộ Tông , Ngài Hộ Giác v.v.. Ấy thế mà có một số vấn đề tu hành hết sức là cơ bản thì các vị lại mất cơ bản một cách đáng lưu ý, và thái độ tiếp nhận của hai vị tín nữ này trong khi chúng tôi đang giải thích, cho tôi nhận ra một điều các vị thật ra vẫn có khả năng học hỏi, tiếp thu, lưu trữ, tích luỹ tương đối tốt. Nhưng có thể là do nhân duyên không có điều kiện cho nên các vị không có may mắn sỡ hữu được một cách tối thiểu những lời Phật cần thiết cho đời tu của mình và có thể nói rằng đó chính là một điều tác động tâm lý cho bài Pháp đêm nay của chúng tôi.Vẫn như các bài pháp trước chúng tôi chỉ quẩn quanh những điều nhắc nhở các vị Phật tử già trẻ bé lớn, nam phụ lão ấu một điều chung quy là chúng ta đừng bao giờ để cho thời gian của cuộc đời mình trôi qua. Trôi qua đến một lúc nào đó chúng ta phải đau lòng nhắc lại một câu ca dao đãû được nghe từ thưở bé từ lời mẹ ru:

                     Ba đồng một mớ trầu cay

           Sao anh không hỏi những ngày còn không.

Lúc bấy giờ chúng ta sẽ nhớ đến câu ca dao này không bằng những chư những lời những ý nghĩa đó nữa, mà chúng ta sẽ nhớ lại những câu ca dao đó với một ý nghĩa khác với một nổi niềm khác.

Đó là một quãng đời, một lý tưởng hay:

        Sao không tinh tấn những ngày tóc xanh.

     Đó là điều tôi muốn nhắn gửi các vị Phật tử ở đây.Không ít các vị đã từng là thiền sinh, đã từng  là học trò của các Ngài Giới Nghiêm và tôi tin chắc rằng Ngài đã dạy dỗ, hướng dẫn, kềm cặp một cách kỹ lưỡng, một cách chặt chẻ thậm chí là một cách liên tục và tận tình cho các vị về những vấn đề cơ bản như về giữ giới, rồi thiền định vàtừng pháp môn thiền định, từng cách thực hiện các đề mục củathiền chỉ thiền quán có.Như đề mục hơi thở của thiền ch,ỉ đề mục hơi thở cũa thiền quán hay là cách niệm Phật của thiền chỉ hay cách niệm thể trược của lẩn thiền chỉ và  thiền quán v.v..

Nhưng cho đến hôm nay thì sao.Cho đến hôm nay chúng ta cũng vẫn chưa tìm được cho mình câu đáp khả dĩ giải quyết được vấn đề vọng tâm.Vọng tâm ở đây hiểu một cách nôm na là tâm hồn của chúng ta nó không chịu nằm dưới một sự điều động nhất định nào đó, chẳng hạn như tôi đang theo dõi đề mục hơi thở.Chúng tôi nói điều này bằng cả sự khách quan bởi vì tôi nghĩ sau bài pháp này có một số vị Phật tử bằng vào trí nhớ của mình sẽ thuật lại cho người khác nghe. Đó là chưa kể đến trường hợp cuốn băng ghi âm của bài Pháp hôm nay sẽ được giữ lại sau một thời gian tôi nghĩ rằng có thể là đôi ba năm và đối tượng nghe lại đó rất có thể là các bậc tiền bối thạc học thạc đứng hoặc là những người sơ cơ mới bước vào ở ngưỡng cửa Phật học.Cho nên tôi nghĩ rằng bắt buộc ở trong hoàn cảnh này trong tình huống này chúng tôi phải h?t sức là khách quan. Vấn đề phồng xẹp có chỗ kêu là phồng xộp thực ra ở trong kinh điển không có.Các vị nếu không có thể đặt ở chúng tôi niềm tin về vấn đế này, tuyên bố này các vị có thể kiểm tra qua một lần gặp gở nào đó với Ngài Hộ Pháp hoặc là Ngài Kim Triệu hoặc là một vị cao Tăng Việt kiều nào đó mà các vị cảm thấùy có thể tin tưởng được.Bài pháp hôm nay tôi biết rằng rất khô khan nhưng đối với các vị Phật tử lớn tuổi kể cả nhữïng người trẻ tuổi nếu thật sự nhậân mình là một Phật tử, chúng ta cần phải lắng nghe và ghi nhận.Vấn đề phồng xộp hoặc thiền chỉ vốn là một sáng kiến của một vị thiền sư tinh thông tam tạng người Miến Điện , đó là Ngài Mahasi Sayadaw.Vào năm 1954 Giáo hội Phật giáo Miến Điện tổ chức một cuộc kiết tập tam tạng. Theo lịch Phật giáo thì đó là cuộc kiết tập tam tạng lần thứ 6.Vẫn theo thể lệ chung của các kỳ kiết tập, ngoài số Tăng chúng chứng minh, có hai vị trưởng lão bác thông tam tạng. Mỗi vị có vai trò riêng, một vị hỏi một vị đáp.Thí dụ vị hỏi ra câu hỏi:

              _ Bài kinh A, bài kinh B được Đức Phật thuyết tại đâu ? cho ai nghe ? nội                        

dung như thế nào ?  

             _ Điều luật cho tỳ kheo thứ mấy được Đức Phật thuyết tại đâu ?do nhân duyên nào?v.v..

               Đó là vị hỏi còn vị đáp sẽ tuỳ theo câu hỏi mà trả lời.

Ngài Mahasi Sayadaw là một vị tinh thông tam tạng, và Ngài đóng vai trò của vị vấn    sư, tức là vị đặt ra câu hỏi cho một vị thông suốt tam tạng khác đáp.Từ một chức danh chói ngời là một vị vấn sư trong kỳ kiết tập tam tạng lần thứ 6 của lịch sử Phật giáo, Ngài Mahasi từ đó đương nhiên trở thành một danh Tăng không riêng gì của Miến Điện mà của toàn thể Phật giáo đồ của những xứ Phật giáo Nam truyền còn gọi là Phật giáo Nam tông.

        Theo tôi được biết qua các dữ liệu vê đời tư củõa Ngài thì với một trí nhớ uyên bác sâu rộng về thế học lẫn đạo học của mình, về cuối đời Ngài Mahasi không trở thành một Pháp sư, không chọn con đường giảng sư cũng không chọn con đường Pháp học nào hết.Ngài quyết định trở thành một thiền sư, hướng dẫn thiền định cho tất cả Tăng tín đồ cần thiết. Ngài Giới Nghiêm chính là học trò của Ngài Mahasi, có cái gốc như vậy.Cho nên nếu gọi theo vai vế thì ta có thể gọi Ngài Mahasi là sư nội.Ngài Giới Nghiêm là sư phụ. Bản thân Ngài Giới Nghiêm đã có được những gì về sự nghiệp tu hành của mình về danh vọng, về sự nghiệp vật chất cũng như tinh thần trong giáo hội cũng như trong xã hội và Thầy của Ngài là Ngài Mahasi đã được những gì như chúng tôi đã trình bày.Với những điều đó vô tình nếu chúng ta thiếu đi một chút kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cái gọi là ngộ nhận.

      Vấn đề phồng xộp, khi có các bậc danh Tăng khác đến hỏi Ngài Mahasi: Tại sao Ngài lại dùng phương pháp phồng xộp để hướng dẫn thiền định về hơi thở cho các thiền sinh.Ngài Mahasi giải thích như thế này ( ở đây tôi tạm dùng kiến thức và thuật ngữ củaVi diệu pháp một chút xíu ). Ngài nói đối với tâm của mình rất vi tế tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si, từ bi, trí tuệ, vị thav.v… Tất cả tâm trạng đó hết sức phức tạp rất khó nhận ra, cho nên Đức Phật đã đưa ra bốn thể tài hay là bồn đề mục chính để từ đó những người muốn giác ngộ căn cứ vào đây để phát triển trí tuệ giải thoát.Đó là thân quán niệm xứ, thọ quán niệm xứ, tâm quán niệm xứ, pháp quán niệm xứ. Ở đây tôi chỉ giải thích một cách đơn giản, nếu các vị có nhu cầu, bài pháp sau chúng tôi sẽ đặc biệt giải thích về đề tài bốn niệm xứ này, riêng bài pháp hôm nay chúng tôi chỉ muốn giải quyết những trăn trở , những chạnh lòng của chúng tôi từ chiều tới giờ.

       Ngài Mahasi giải thích như thế này: Tôi vẫn hiểu trong kinh điển Pali từ chánh tạng cho đến các tập phụ sớ không hề nhắc đến vấn đề phồng xẹp, tuy nhiên theo dõi cái tâm là khó bởi vì trí tuệ của chúng sanh thời này không đủ mức độ sắc bén và tinh tế nhạy cảm để ghi nhận đã đành rồi mà cho đến hơi thở ra vào cũng vẫn tiếp tục là một đề mục gần như tôi nhấn mạnh là gần như là trừu tượng .Trừu tượng đến mức chúng ta chỉ theo dõi trong vòng nủa giờ đồng hồ là đã bắt đầu muốn vô nhập định dục giới rồi, đó là buồn ngủ.Cho nên Ngài Mahasi mới dùng phương pháp phồng xộp để cụ thể hoá hơi thở của mình, cái hơi thở ra vào vốn không có hình sắc.Chúng ta học về sinh vật chúng ta cũng hiểu hơi thở chỉ là chất khí mà thôi, nạp vào là oxy, thở ra la øcacbon tức thán khí.Chúng ta cảm nhận được bằng các thí nghiệm hoá học không thể nhìn thấy bằng mắt. Không khác gì những vận động của các nguyên tử, điện tử, quang tử v.v… cũng tương tự như vậy.Cho nên Ngài mới nói“Tôi dùng phương pháp phồng xộp để ai có cơ duyên đối với tâm quán niệm xứ thì trong khi theo dõi cái phồng xộp đó họ sẽ có điều kiện nhìn ngắm một cách kỹ lưỡng và tận tường từng tâm trạng của mình trong mỗi mỗi phút giây” Tôi ví dụ hơi phàm tục một chút xíu, ví dụ này mang tính phản bội chúng tôi. Chúng tôi đang nói về thiền, chúng ta coi phim video, những pha mà họ tung chưởng ra đòn ra chiêu hơi nhanh, mình thấy hấp dẫn mình muốn xem lai thì mình làm như thế nào? Có hai cách:

      1/ Mình quay trả lại đoạn đó

      2/ Nếu máy tốt mình bấm nút pause để thấy được đàn chỉ thần công, thấy được nhất dương chỉ, thấy được kim cang chỉ, thấy được những tuyệt chiêu tuyệt chỉ của cửu âm chân kinh, cửu dương chân kinh v.v… kể cả càn khôn đại nã duy tâm pháp của Trương vô kỵ.

 Theo dõi hơi thở đây là gì ? Theo dõi hơi thở đây chính là chúng ta bấm nút pause đối với nội tâm của chính mình.Bấm nút pause cho nó đứng lại bởi vì nội tâm chúng ta luôn sanh diệt. Bây giờ đưa nó vào màn ảnh của hơi thở thì Ngài nói rằng “Tôi xử dụng phương tiện phồng xộp chẳng qua là với ý nghĩa phương tiện.Để từ đó ai có duyên với tâm quán niệm xứ thì sẽ y cứ vào đây mà nhận ra bản tâm của mình. Đối với ai có cơ duyên với thân quán niệm xứ thì sẽ thông qua hơi thở phồng xộp này mà nhận diện được cái vô thường, vô ngã của thân.Còn ai có cơ duyên với pháp quán niệm xứ thì sẽ thông qua cái phồng xộp này mà nhận ra được năm triền cái thất giác chi, tứ diệu đế, bát chánh đạo trong chính bản thân mình”.Đó là phương tiện của tôi.Đó là ý nghĩa thứ nhất.

Ý nghĩa thứ hai Ngài Mahasi giải thích như thế naỳ: Phồng xộp theo vi diệu pháp. Xét về hiện tượng phồng xộp chính là sự vận động của vùng bụng, vùng bụng ở ngoài là da, kế đến là lớp mỡ sa, đều là sắc pháp. Sắc pháp ở đây nổi bật là đất nước lửa gió, vùng bụng của mình cơ bản trước hết là đất, sở dĩ nhúc nhích được, ra vào được có sự di động là do sự điều động của phong đại là gió.Địa đại bản chất của nó là bất động cứng hoặc mềm, nhưng nó di động là nhờ vào sự tác đọâng của phong đại là gió.Làm thế nào để có được sự kết hợp nhuần nhuyễn, có được một mối tương hổ hết sức chặt chẽ giữa phong đại và địa đại này.Ở đây đòi hỏi sự huy động và sự vận dụng của ý thức.Trong kinh nói dầu chúng ta không hề nhớ đến, hơi thở vẫn ra và vẫn vào, đó chính là sự vô ngã của các pháp.Tôi xin nhắc lại câu nói hôm trước là tất cả sự nghiệp của chúng ta, những ngôi nhà ba bốn tầng , những tài sản trị giá hàng năm bảy trăm cây vàng, những danh vọng, những chức vị của chúng ta trong xã hội đều được đặt cơ sở trên một khối thịt mấy chục kilo này thôi, và mấy chục kilo này nó được quy định thời gian tồn tại bởi hơi thở ra vào.Hơi thở ra mà không có hơi thở vào thì kể như là mất hết. Ngài Mahasi nói” Tôi xử dụng, tôi tạm mượn phương tiện phồng xẹp để các thiền sinh nhờ vào đó mà phát triển nội tâm của mình.Còn ai đó tự đưa đến sự ngộ nhận do bản thân mình hay do họ quá tin tưởng vào cái chức danh cái danh vị của tôi trong cộng đồng Phật giáo đoàn mà họ ngộ nhận rằng đó là chân thật.Thì đó chẳng khác nào trường hợp bên kinh Bắc tông họ nói rằng : Không chịu nhìn mặt trăng mà cứ nhìn ngón tay”.Ở đây Ngài Mahasi muốn nói rằng phương tiện phồng xẹp mà Ngài dùng để hướng dẫn thiền sinh chính là ngón tay để chỉ mặt trăng. Chúng ta thiền định là để thấy được bản chất cả thân tâm tức là để nhìn thấy mặt trăng chứ không phải chúng ta ôm ấp ngón tay phồng xẹp đâu.Ai ôm ấp ngón tay phồng xẹp thì người đó suốt đời không bao giờ thấy được mặt trăng.Tính ra trong số Phật tử của mình đã có được bao nhiêu người thâý được mặt trăng? Đại đa sốø chỉ thấy ngón tay, có người thấy được cả bàn tay chứ chưa thấy được ngón tay.Ai có trình độ kha khá thì thấy được một quầng sáng của mặt trăng sau một đám mây mù dầy kịt.Đại khái là như vậy.

      Như trong cuộc họp mặt ngày hôm qua giữa tôi với một ít Phật tử trẻ, tôi có nhắc đến một vấn đề, đó là thái độ sống của Phật tử chúng ta làsao?Chúng ta đừng bao giờ bị lệ thuộc vào bất cứ vấn đề gì thuộc tâm ly,ù vật ly,ù sinh lý của bản thân mình hoặc của người khác bởi vì một khi như vậy chúng  ta đã tự đánh mất tự do của mình mà một trong những cốt lõi căn bản của lý tưởng tu hành màĐức Phật đưa ra cho chúng ta đó chính là tinh thần tự do.Chúng ta không thể nào bị lệ thuộc vào một ít công phu tu hành của mình như là một tháng tám ngày bát quan, một đêm vài giờ thiền định hay là một tháng hai lần nghe Pháp chúng ta có thể tự mình vừa lòng với chừng đó công phu để rồi dừng lại thì chưa đủ.Như vậy chúng ta chưa thật sự được tự do bởi vì chúng ta còn bị ràng buộc bởi cái gọi là thoả mãn.

    Tôi nhơ:ùCó một lần một vị du sĩ ngoại đạo thời Đức Phật.Ông vốn là cậu ruột của Ngài Sariputta Xa' lợi Phất, Ông tên là Dikhanakha.Trong tiếng phạn Dikha== dài, nakha==móng tay. Dikhanaka dịch là trường cảo nhân sĩ.Móng tay ông dài lắm, Ông rất giỏi.Trong kinh nói rằng trong ngôi làng có một bà trưởng giả rất đẹp, có biệt danh là Sari, Sari có nghĩa là người có vẻ đẹp. Putta có nghĩa là con .Sariputta tàu âm Xá Lợi Phất dịch ra Sariputta có nghĩa là con cũa bà Sari.Bình thường bà là một thucï nữ yểu điệu, đảm đang trung hậu.Tuy nhiên trong thời gian mang thai Ngài XáLợi Phất, tự nhiên bà khôn lanh ứng đối chặt chẽ hầu như đời sống tâm lý của bà có một cuộc hoán chuyển rất lớn.Em bà người cậu ruột của Ngài Xá Lợi Phất  thấy như vậy mới nghĩ “Chị của mình bình thường tánh lờ đờ khờ khạo, mà trong khi mang thai, thay vì người ta hay bị ói mữa tanh cơm tanh cá lo ngủ lo dưỡng sức rồi lo đi nghỉ mát để dưỡng thai v.v.. Còn bà cố này trong thời gian mang thai lại lanh lẹ hơn lúc bình thường”.Với kiến thức của mình ông đoán đứa cháu nằm trong bụng chị mình là bậc đại trí sau này.Trong kinh nói rằng ông rất kiêu ngạo và nghĩ rằng không khéo thì mình thua đứa bé sau này.Theo một số tài liệu ông bỏ ra 16 năm trời để đọc sách và tự dặn lòng là không ra khỏi phòng, không thèm cắt móng tay, riết rồi móng tay ngày càng ra dài và khoanh tròn lại cuối cùng người ta gọi là Dikhanakha là trường cảo du sĩ.Tất cả các môn học trong đương thời ông đều học hết.Trải qua 16 năm Ngài Xá Lợi Phất lớn lên trở thành một thanh niên, Ngài Xá lợi Phất đi truyền đạo và trở thành 1 vị Thánh tăng.Chuyện đó tôi khỏi cần nhắc lại vì các vị ở đây đều tinh thông hết rồi.Dikhanakha đi tìm Ngài Xálợi Phất để hỏi đạo, nhưng trườc khi gặp Ngài Xá Lợi Phất thì Dikhanaka chợt suy nghĩ cháu mình đã nghe vang danh là bậc tướng quân chánh pháp tức là đệ tử trưởng tràng của một vị giáo chủ.Với trí tuệ của cháu mình mà chấp nhận làm đệ tử của một nhân vật nào đó thì hiển nhiên nhân vật này phải ghê gớm đến dường nào.Vậy là ông đến gặp Đức Phật. Không biết là may hay rủi cho ông, xét về một góc độ nào đó thì phải nói rằng ông rủi vì ông gặp một đối thủ không cân sức vì 20 năm trên giang hồ ông chưa tìm thấy đối thủ, ông vẫn tự xưng là độc cô cầu bại.Khi ông gặp Đức Phật ôngû nói như thế nàygần giống như câu của Cacmac: “Thưa sa môn Gotama không có gì thuộc về loài người mà xa lạ đối với tôi, tuy nhiên tôi không hề chấp thủ tất cả những kiến thức đó”.

    Các vị nghe kịp chưa?Ổng khoe ổng giỏi nhưng sau đó ông khiêm tốn một cách đáng ghét.Ý ông nói là tôi sở hữu tất cả kiến thức nhưng tôi không thèm chấp hữu những cái đó, đó là đồ rơm rác.Một lần nữa ông muốn tự nâng cao mình nghĩa là ta giỏi nhưng ta không màng gì đến chuyện ông giỏi, Đức Phật Ngài mới hỏi nhỏ một câu:” Nhưng mà Dikhanakha này, ngươi mới vừa nói ngươi không chấp thủ những kiến thức mà ngươi đã sở hữu tuy nhiên ngươi có bao giờ nghĩ đến chuyện rằng mình không chấp thủ những kiến thức đó không.Dikhanikha trả lời “co “ù. Ngài nói: như vậy lại tiếp tục là một chấp thủ.Quý vị có hiểu không.Mình không biết đạo mình coi như đây là ngôi nhà của mình, đó là một cái chấp thủ.Nhưng khi mình đã biết đạo rồi mình thấy rằng ngôi nhà này chỉ là sương khói phù du là vô ngã không phải nhà của tôi cho nên nhà có bị cháy tôi vẫn mĩm cười thoải mái.Đó là một trình độ rất tốt, tuy nhiên sau cái mĩm cười thoải mái đó tôi lại vui vẻ nghĩ rằng tôi có trình độ rất cao nhà cháy mà vẫn cười.Như vậy là tôi vô tình mắc vào một cái sở tri kiến khác, tế nhị và nguy hiểm hơn. Chúng ta tiếp tục từ cái lao tù này qua một lao tù khác.Có gì đâu thay vì bị quản thúc bị giam nhốt ở trong một cái xà lim 2m vuông, chúng ta nhờ học ở Phật Pháp chúng ta ra khỏi xà lim đó bước sang một cái phòng giam khác rộng hơn 20m vuông.Ăn học một thời gian tu thiền một thời gian thì phòng giam của chúng ta được 40m vuông.Ăn học một thời gain, tu học một thời gian, trí tuệ phát triển thêm một mức độ nữa thì chúng ta được thả lỏng ra ngoài nhưng bị giam lỏng nghĩa là đi đâu cũng bị người ta kiểm soát và kiềm chế cả.Đó chính là điều chúng tôi muốn nói trong đêm nay. Tôi không hiểu được lý vô ngã,đó là cái tệ của tôi.Tôi hiểu được lý vô ngã đó là cái hay của tôi, nhưng tôi chấp thủ rằng tôi hiểu được Phật Pháp thì đó là cái tệ của tôi.Tôi vượt qua giai đoạn không chấp thủ những kiến thức Phật pháp, đó là cái hay của tôi.Nhưng tôi lại tiếp tục chấp thủ rằng tôi không chấp thủ cái không không chấp thủ đó chúng tôi lại tiếp tục rơi vào một cái tệ khác.Sau khi nghe bài Pháp xong thì Dikhanakha xin xuất gia tại chỗ, còn Ngài Xá Lợi Phất đắc Alahan ngay tại chỗ.

 Rồi một giai thoại khác Ngài A Nậu Đà La tiếng pali là Anuruddha.Ngài là đệ nhất thiên nhãn.Trong kinh nói ngoài trái đất mình nó chỉ là hạt cát trong vũ trụ bao la này thôi, mỗi một thế giới theo từ trong kinh gồm 31 cõi chia làm bốn tầng: tầng đoạ xứ, tần nhân giới, tầng dục giới,và tầng phạm thiên giới.Tầng Phạm thiên giới lại chia ra làm hai tầng nữa đó làtầng sắc giới và vô sắc giới,  mà 31 cõi như vậy được gọi là một thế giới.Tức là trái đất của mình các nhà khoa học dù có thám hiểm đến mấy đi nữa thi họ chỉ quẩn quanh trong cái không gian thái dương hệ của mình thôi không thể đi xa hơn được nữavà với những phương tiện kính viễn vọng họ chỉ nhìn thấy chứ không đếm được những thiên thể cách xa chúng ta hàng triệu năm ánh sáng.Định vị được nó định được một phần nào đó điều kiện khí hậu hoặc là trong vấn đề hoá học hoặc một vấn đề sinh thái nào trên đóthôi mà vẫn bằng thị giác chứ không thể nào bằng xúc giác hoặc đặt chân trực tiếp lên đó.Như vậy chúng ta đã thấy được sự mênh mông của vũ trụ, của cái gọi là thế giới này rồi. Ấy thế mà trước khi trở thành vị Alahan Ngài A Nậu Đà La lúc đó mới chứng sơ quả là ngũ thông.Ngài có thể nhìn thấy một ngàn thế giới như vậy.Tức là một thế giới gồm 31 cõi và một ngàn thế giới tức là 31x1000. Thì sau một bữa trưa thiền định Ngài trở vào gặp Tôn giả Xá Lợi Phất, Ngài nói rất dễ thương chứ không như các Phật tử Đà Nẵng:

     “Thưa sư huynh Đệ rất nừng khi công phu tu hành của mình có phần nào tiến bộ.Hôm nay Đệ có thể nhìn thấy 1000 thế giới một cách rõ ràng, tinh tường, chính xacù, tinh vi, chi li,rõ rệt, rạch ròi như là người ta nhìn những trái sung trong lòng bàn tay vậy”.

           Các vị biết Ngàiø Xá Lợi Phất trả lời sao không?Nếu gặp mình sẽ có hai thái độ:

         _Một là mình ganh tị, mình nói:” xí cái đó đồ bỏ”

         _ Hai là mình sẽ hoan hỷ mừng khen người Sư đệ : “ Thật là tuyệt vời, tuyệt kỷ công phu, tuyệt chiêu kiếm pháp”

          Nhưng Ngài Xá Lợi Phất thì không, Ngài nghe như vậy Ngài mĩm cười Ngài nói “Cái đó chưa phải là tiến bộ đâu hiền giả, hiền giả nghĩ như vậy là hiền giả đang rơi vào kiêu mạn rồi”

     Có hai cái sánh với nhau “Phật d? Phật tri, Thánh d? Thánh tri

                                                     Thánh hiểu Thanhù, Phật hiểu Phật”

                                                      Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu

         Gặp ông sư huynh như vậy Ngài A Nậu Đầu La cũng chẳng phải là tay vừa.Mình đem khoe công phu tuyệt kỷ với sư huynh mà sư huynh chẳng những không khen không chê mà còn nói rằng đó là kiêu mạn mà sư đệ cần phải khắc phục.Nghe như vật Ngài trở ra tiếp tục lần này không quan tâm đến vấn đề thiên nhãn  nữa mà Ngài quan tâm đến thân thọ tâm pháp để sau đó trở thành một vị Alahán như Ngài Xá Lợi Phất và trở thành một trong 47 vị Đại cao đồ của Đức Phật Thích Ca.Chúng ta có làm được điều đó không?Tiến bộ được chút xíu là chúng ta thoả mãn chúng ta tự đắc chúng ta tự hào.Chúng tôi nhớ La Fontane có viết cho chúng ta một câu chuyện ngụ ngôn, tôi kể nhưng tôi sợ quý vị giận tôi, trong thời gian tôi còn ở Đà Nẵng nhiều khi tôi muốn thêm bạn bớt thù.Ông kể cho mình nghe một câu chuyện như thế này:

             “Có một con ếch tình cờ thấy một con bò bự quá, to quá.Nó nghĩ “Ôi đâu có khó chịu khó mình phình bụng ra thì nó to chứ có gì đâu”.Nhưng nó quên rằng cơ cấu sinh học trong con bò và con ếch đâu có giống nhau.Con ếch ráng hít hơi phồng và kết quả là cuối cùng nó bể cha cái bụng.

              Khi nội lực của chúng ta chưa đến mức nào đó, mà cái ngộ nhận nó đi trước nội lực của mình thì coi chừng chúng ta rơi vào hiện tượng mà bên thuật ngữ khoa học người ta gọi là tẩu hoả nhập ma.Nếu may mắn gặp được cao nhân tiền bối người ta điều trị cho còn nếu tẩu hoả nhập ma về tâm lý thì tôi nghĩ rằng bó tay.

            Đêm nay chúng tôi muốn nhắc đến một vấn đề khác.Đó là vấn đề chúng ta ngoài khuynh hướng tự mãn ở bản thân mình giam tù mình, ta còn có một khuynh hướng khác: Đó là tù nhân mà lại muốn đi bảo lãnh một tù nhân khác.Trong một chuyến về thăm quê ở miền tây nam bộ của tôi.Tôi sinh ra ở miền tây, tôi đi tu rất sớm mới tám tuổi thôi.Do đó những ký ức những kỹ niệm về quê những kinh nghiệm sống ở quê tôi hơi kém, trừ ra những kiến thức từ chương và sách vỡ.Chẳng hạn những kinh nghiệm về đi cầu khỉ.Các bạn xem video những băng Mưa bụi 1, Mưa bui2 có những cảnh que,â cảnh đi cầu khỉ đại khái là như vậy.Tôi đi không được, ở dưới mang dép trên mặc y mới mang dèm Thái.Không phải tôi sang trọng gì nhưng ai cho gì thì xài nấy thôi.Đi dưới quê sình lên đến mắc cá, nguyên đoàn có cô Phật tử  cô tỏ ra linh hoạt có nét giống như Phật tử Đà Nẵng mình đó.Bản thân là dân ở tù nhưng thích ký đơn bảo lãnh cho người ta được tại ngoại hậu toà.Cô đứng ở đầu cầu chiều dài hơn 10m mà độ lớn của cây dừa chỉ bằng cườm chân khẳng khiu của  tôi thôi mà tay vịn của nó chắc bằng cườm tay của tôi.Dân chuyên gia đi cầu khỉ có thể chạy trên đó được.Quý vị tưởng tượng cầu bằng thân dừa dài hơm 10m cách mặt nước khoảng 3m mà khẳng khiu như thế đó làm sao mà đi.Bữa đó trời mưa lâm râm rất trơn trợt tôi đứng trên cầu có cảm giác chẳng khác gì bồ tát trong đêm trước khi giác ngộ, phân vân giữa đôi bờ mê và giác dứt khoát là qua mà không biết có qua không đây.Cô gái dân địa phương thao thao bất tuyệt giảng cho tôi nghe về cách qua cầu.Tôi đi trước cổ đi sau.Cổ hướng dẫn tay sư cầm dép chân bám chặt các ngón chứ không phải bám chặt bàn chân vào cầu đi từng bước và nhớ đừng nhìn chung quanh đặc biệt là đừng nhìn xuống nước chóng mặt sẽ rơi xuống ngay.Cô nói vừa dứt câu thì tôi nghe một cái “ Đùng”. Cô gái lọt xuống trước tôi.Cái kinh nghiệm tu hành của chúng ta nằm ở chỗ đó.Chúng ta đang ở tù mà dám ký giấy bảo lãnh cho người ta tại ngoại.Phật pháp học chưa bao nhiêu hết nhưng gặp các Phật tử lạ thao thao bất tuyệt giảng về giới định tuệ v.v…Để rồi chúng ta rớt một cái đùng.Kẻ đến sau họ nhìn chúng ta họ cười.Họ chưa nhận được sự giúp đỡ nào của chúng ta cả, trước mắt họ nhìn chúng ta ngã gục.Tôi chưa một lần giác ngộ chắc các vị tin ma ønhưng tôi có một điều vừa may mắn vừakiêm rủi ro.Đó là ít nhất trong vòng thời gian 14 tháng trở lại đây tôi đã hai lần có mặt tại phòng cấp cứu và tôi đã trực diện với cảm gíac tâm sinh lý của người đứng ngay ngưỡng cửa thần chết.Thở không ra lúc đó bao nhiêu kiến thức về uẩn xứ giới đế, duyên sinh, duyên hệ, vi diệu pháp, tạng kinh, tạng luận, tạng luật, tiếng này tiếng no,ï thấy ghét vô cùng, tôi nhớ không nắmđược cái nào hết.Lúc đó tôi nghĩ rằng tại sao mình không có chỗ nắm, sau đó tôi về tôi viết một trang nhật ký về tâm trạng ngay lúc đó.Tôi lập tức tìm chỗ nắm cho tôi và tôi nghĩ rằng đó là một kinh nghiệm sống gần như phải trả giá bằng sinh mạng để tôi có được cái kinh nghiệm, kinh nghiêm trong giây phút đó, giây phút thở không ra hơi.Đặc biệt là trong kỳ chuyển tôi từ dọc đường chuyển vào bệnh viện.Họ cán tôi lên cầu thang bằng băng ca, mà những người cán lại là Phật tử.Thay vì y tá họ cán nhưng những Phật tử họ thương mình, chính vì tình thương đó lại hại mình.Khi họ cán tôi trên băng ca họ để đầu tôi đi phía dưới còn chân thì đưa phía trên.Thế là tôi không đủ oxy để thở, tôi nói không được, tay thì vịn hờ thành băng ca và tôi cứ ngớp ngớp để lấy từng chút không khí.Cô y tá đi kế bên thấy vậy la lên”Ông thầy bị ngộp, ông thầy bị ngộp”.Lúc đó họ mới nâng đầu lên cho tôi thở.Nếu không có cô y tá thì hôm nay tôi đã ngậm cười nơi chín suối rồi.Ở giây phút đó chúng ta mới trực nhận được cái chết của chính mình, còn bình thường chúng ta chưa để ý tới.Chúng ta hãy nhớ một điều rằng tâm lý chúng ta trừ các bậc thánh thì đại đa phần chúng sanh tình trạng tâm lý của mình luôn được quy định bởi tình trạng của sinh lý.Bình thường nhanh nhẹn, sắc bén, bén nhạy, lanh lợi và có thể làbình tỉnh, can đảm, cang cường nhưng đến lúc có vấn đề trong thể xác này rồi thì những kiến thức những kinh nghiệm về Phật Pháp nếu nói một cách hơi tàn nhẫn là trở nên vô nghĩa.Chúng ta đừng nghĩ rằng tôi đã từng dự những khoá tu thiền với Ngài Kim triệu Ngài Hộ Pháp, Ngài Giới Nghiêm năm ba tháng, tôi đã từng đãnh lễ Ngài Narada, tôi đã từng chiêm bái xá lợi. Mình cứ đơn giản nhớ lại một kinh nghiệm mà dường như tôi đã có nhắc tại ĐàNẵng này.Một vị Thiền sư ngày xưa để kiểm tra nội tâm của mình, Ngài đã để trong thiền thất của mình ba cái tô: một tô đựng đậu đen, một tô đựng đậu trắng và một tô không.Ngài ngồi theo dõi nội tâm, không theo dõi như trong kinh mà Ngài theo dõi trực tiếp. Khi một thiện tâm khởi lên Ngài nhặt một hạt đậu trắng để ra, khi nào một ác tâm khởi lên Ngài nhặt một hạt đậu đen để ra.Như quý vị cũng biết sau một thời gian đầu khoảng một năm kết quả có một tô đậu đen và vài hạt đậu trắng.Khi mình vắt chân lênngồi là bất thiện đã khởi lên, mình nhớ đến ông sư kia hồi nãy gặp mình quên chào, cô Phật tử kia gặp mình mặt không được dễ chịu, chánh điện dơ không ai quét, bình bông héo không ai dẹp.Mỗi vọng tưởng, mỗi suy nghĩ khởi lên như vậy Ngài nhặt ra một hạt đậu đen.Một thời gian sau 2/3 đậu đen,1/3 đậu trắng. Một thời gian sau ½ đậu đen ½ đậu trắng, một thời gian sau 1/3 đậu đen 2/3 đậu trắng, một thời gian sau 3/4 đậu trắng 1/4 đậu đen, một thời gian sau nữa 4/5 đậu trắng 1/5 đậu đen.Cứ như thế cho đến sau cùng thì trong tô của Ngài toàn đậu trắng không thôi.Chúng ta thì sao.Chúng ta chỉ cần mua một muỗng cafe' đậu trắng thôi còn đậu đen mình làm vài thúng.Chỉ có cách đó mình mới xử lý nội tâm của mình thôi.Mình phải trung thực với lòng mình như vậy.Các vị hành thiền như vậy thì nội tiền mua đậu đen thôi cũng không còn tiền ăn tết. Cho nên vấn đề tôi muốn nhắn gửi đến quý vị Phật tư ûlà:

     Chúng ta phải luôn luôn tự biết kiểm tra chính mình bằng tất cả tinh thần tự do của Du sĩ  Trường cảo cậu ruột của Ngài Xá Lợi Phất, tinh thần tự do và tự giác của Ngài Anuruddha một vị đồng phạm hạnh của Ngài Xa' Lợi Phất và tinh thần tự giác của vị thiền sư lựa đậu trắng đậu đen để triển khai công án thiền định của mình.Đôi lúc trong việc tu của mình chúng ta không có thầy, không có bạn, thực ra mà nói năm ba cuốn sách, năm ba cuốn băng chưađủ đâu.Vì cái quan trọng nhất ông thầy tích cực nhất gần gũi nhất cho mình vẫn chính là mình thôi.Và đôi khi chính sự ngộ nhận, chính sự đi tìm nương ở các đối tượng khác lại là cạm bẫy cho chính mình. Các vị nếu có dịp nào đo,ù đọc được tác phẩm nếu tôi nhớ không lầm đó là tác phẩmsớ giải tập A tỳ đàm con cá do ông Thế Hân viết.Ông nói thế này: cái cảm giác của con người mình đối với danh và sắc. Tại sao chúng ta khổ là bởi vì chúng ta không nhìn thấy no.Không nhìn thấy nóù như là no cho nên chúng ta tự mình giam hãm mình. Và trong tác phẩm chú giải đó Ngài dùng ví dụ một người đi đêm không có đèn đạp phải sợi dây và cứ ngỡ đólà một con rắn.Bản chất của đời sống thật ra không ngọt cũng không đắng, đắng hay ngọt là do mình.Tôi xin lỗi khi dùng ví dụ này, cái đống phẩn là cái đáng gớm đối với mình. Thậm chí ăn một tô bún mắm mà mình quên rửa tay mình vẫn có thể là nổi phiền cho người khác chứ đừng nói chi là một đống cụ thể.Nhưng đối với con chó nhà nghèo những con chó hoang thì đống đó là món hạp khẩu của nó.Đó là ví dụ cùng cực.

           Đời sống này bản chất của nó là cay đắng hay ngọt ngào tuỳ thuộc vào cái nhìn của chúng ta mà thôi, mà cái quan trọng nhất làchúng ta không thể thay đổi được cuộc đời nhưng ta có thể thay đổi được cách nhìn về cuộc đời.Có một tích truyện trong bài Pháp tôi thuyết trong nam nhưng nếu tôi nhớ không lầm thì bài pháp đó cũng được ghi âm tại Đà Nẵng và trong bài pháp này tôi vẫn nhắc lại. Ngày xưa bên Tàu có một chàng thanh niên rất đẹp trai, các vị nghiên cứu về văn học Trung hoa chắc các vị cũng biết.Nghe tên cũng thấy đẹp rồi, tên là Nhã Tuấn,  rất là đẹp trai, môi trái tim, mũi dọc dừa, chiều cao vừa phải, kilo cân đối v.v...Vào một ngày kia khi có công việc phải đi sang một xứ khacù.Xứ này gọi là xứ La Sát, nghe tiếng La sát là các vị cũng đã biết rồi.La sát hiểu nôm na là tiếng quỷ.Xứ này không phải là quỷ nhưng người ở xứ này xấu lắm.Giống  như hôm nay chúng ta qua những xứ Etiopi, Uganda hay mộtsố xứ sống man khai bên châu phi, dân bản địa râtù xấu.Xứ mà nếu tôi lọt qua bên ấy tôi sẽ được xem là người mẫu như thường theo con mắt nhìn của chúng ta.Nhả Tuấn vốn tự mản với sắc đẹp của mình cho nên đi đâu cũng vênh váo, khinh khi người, nghĩ rằng mình đẹp .Đi dưới đất mà cái mặt hách lên trời, và cái tự mãn này kéo dài cho đến khi chàng ta đến xứ La Sát.Có một điều làm cho Nhã Tuấn rất ngạc nhiên là người dân xứ này con mắt nằm đàng sau, lỗ tai nằm trước trán.Những chỗ cao sang quyền quý, những chỗsang trọng, dạ hội, tiệc tùng, hội họp, những người quý phái ăn mặc sang trọng thì càng dị hình dị tướng. Nhất là những cô gái càng được các chàng trai theo đuoiå một cách say mê thì sắc diện càng xấu càng kinh khủng.Nói riêng về Nhã Tuấn đi đến đâu thì con nít đang khóc thì nín khóc, nó đang cười thì nó bật khóc, người lớn đóng cửa lại, người già thì xỉu, những người yếu tim thì bị tai biến mạch máu não hay bị lên tăng-xông v.v… Lúc bay giờ Nhã Tuấn nhận thấy rằng mình là hiệng tượng kinh hoàng cho xứ La Sát.Đi mấy ngày trời ai gặp mình đều đóng cửa, phải uống nước suối, phải ăn trái cây rừng, ăn lá ăn củ ăn rễ chứ không được ăn cơm.Sau cùng có một cụ giàtrong xứ La Sát, hình thù của ông cũng rùng rợn lắm chắc cũng là người mẫu của xứ đó.Do lòng nhân từ ông mới nói nhỏ cho Nhã Tuấn nghe: Ông biết xứ sở của tôi vốn hiếu khách lắm, nhưng tại sao người ta sợ cậu không ? Bởi vì hình thù của cậu khác hẳn với mỹ cảm của xứ này, con người của cậu không hợp với xứ này cho nên chúng tôi không chấp nhận được cậu.Thay vì chúng tôiï xem cậu bằng ánh mắt là bạn thì cậu lại trở thành thù vì cậu và chúng tôi không giống nhau được, không cùng tần số, và vẻ mặt của cậu không đáp ứng được với mỹ cảm của chúng tôi.Vậy cậu nên tranh thủ tìm cách trở về quê hương của mình đi cậu hãy nhớ lấy điều đo.ùLúc đó Nhã Tuấn nhận ra một điều thì ra cái đẹp cái xấu trên cuộc đời này chẳng qua chỉ là một khái niệm tương đối và nó được quy định bởi một không gian và thời gian nhất định nào đó thôi.Chẳng hạn đối với người Mỹ, người Pháp nói chung là người Tây phương họ đòi hỏi một người con gái dễ thương phải là một người con gái linh hoạt, có nhiều kiến thức, hoạt bác, năng động trong những buổi họp mặt.Nhưng đối với nền đạo đức học cũng như nhân cách học của Đông phương người con gái được xem là lý tưởng phải là thuỳ mị, đoan trang,  ít nói,  lễ phép,  nhẹ nhàng, ôn nhu, hiền hoà.Chứ con gái mà hút thuốc, uống rượu cụng ly với con trai, bắt tay gặp người lạ hoắc ôm hôn tỉnh bơ như  đối với chồng mình.Người con gái với tính cách như vậy ở đạo đức Tây phương chấp nhận được và được xem là mẫu người lý tưởng biết sống có khả năng xã giao đối ngoại.Trong khi đó đối với nền đạo đức Đông phương thì đó là đứa con gái hư,  cần phải được giáo dục,  cần phải được “tuýt” lại, cần phải được đại tu,cần phải được tân trang lại, chứ không thể nào để nguyên như vậy mà xài.Chúng ta trở lại vấn đề, cuộc sống này nó ra sao thì ra, chúng ta không thể nào sửa đổi được nó nhưng chúng ta có thể thay đổi được cách nhìn của mình về nó.Đó là những ngộ nhận.Và tiếp sau đây chúng tôi xin nhắc cho các vị một vấn đề nữa, một giai thoại nữa cũng về vấn đề tu học của mình.Các vị hiểu sao thì hiểu,  nhưng tôi hy vọng rằng sau bài pháp này các vị sẽ luôn có rất nhiều thắc mắc là tại sao tôi luôn luôn kể những giai thoại kỳ cục này trong bài pháp đêm nay.Ngày xưa có một đoàn hát, ngày nay tạm gọi là đoàn hát bội hát các tích xưa.Người đóng vai Tào Tháo người đóng vai Lưu Bị, Triệu tử Long, người đóng vai ma, quỷ trong thập điện u-minh- vương v.v… vào một ngày đoàn hát diễn ở một vùng quê, sau khi diễn xong tuồng có nội dung đại khái là một người đẹp bị một tên ác quỷ bắt cóc.Thế rồi có một vị anh hùng thình lình xuất hiện, đến tận hang ổ sào huyệt của con quỷ dữ giải thoát cho người đẹp.Sau đó giữa đôi tâm hồn trẻ nảy nở mối tình tuyệt đẹp.Sau khi diễn xong, trời rất khuya, các diễn viên quá mệt mỏi.Khán giả đã về hết để lại các diễn viên cô đơn với chiếc bóng của mình.Các diễn viên mỏi mệt không thèm tẩy trang, húp qua loa tô cháo gàvà vội tìm giấc ngủ giữa chốn đồng hoang bên đống lửa bập bùng.Giữa khuya một người đóng vai La sát  trong đoàn thức giấc giải quyết bức bách của mình với khuôn mặt vẫn giữ nguyên nét hoá trang mặt quỷ.Cánh đồng này trước kia nổi tiếng trong thời chiến có rất nhiều người chết. Cùng lúc ấy lại có một bạn diễn cũng thức giấc và nhìn thấy dưới ánh lửa bập bùng một hình bóng quỷvới nanh vuốt mắt tai mũi lưỡi không có trật tự hệ thống gì cả.Với phản xạ tự nhiên anh ta hét lên “QUỶ” và vùng chạy. Anh bạn đang giải quyết bức bách nghe la, cũng với phản xạ tự nhiên lập tức khoá vòi lại chạy theo người bạn của mình đang chạy trước.Bạn bè thấy anh chạy theo thì càng chạy nhanh hơn vì cứ tưởng là quỷ hiện hình.Anh thấy người bạn chạy càng nhanh thì anh chạy càng lẹ.Cái nhanh cái lẹ này kéo dài tới sáng.Khi bình minh lố dạng họ mới biết là phe ta rượt phe ta.

      Chúng ta trở lại vấn đề, cuộc tu hành của chúng ta là như vậy đó.Chúng ta luôn luôn có những ngộ nhận về chính mình về những người chung quanh.Chúng ta không hề có sự cảm thông nào hết.Có gì đâu một sự lỡ lời nào đó thôi, nếu cảm thông cho nhau thì mọi việc sẽ qua.Không, đằng này chúng ta đặt cho họ một vấn đề ghê gớm gây cấn nào đó, để rồi chúng ta thù chúng ta oán họ.Đêm nay có một nhân vật vắng mặt cho nên chúng tôi mạnh miệng chúng tôi nói.Đó là cô Bảy em của cô Thi.Hôm đó trong dịp lễ tân gia, cô Bảy nói với tôi:” Nghe sư ra con tính lên thăm mà thấy sư nghỉ, con về “ Quý vị biết không trong năm tôi bị hai ba lần như vậy nên tôi giận.Tôi đi vượt biên bị nhốt cả tháng trời, người ghẻ không, có hai, ba người lên thăm tôi thôi.Tới lúc tôi về được rồi mình mẩy tôi đen như Pôn-Pốt, tóc tôi dài như Phun-rô.Phật tử bu lại, người cho thuốc bổ, người cho tiền, người cho này cho nọ.

Người nói: < Con mà hay sư kẹt ở trỏng, con tuần nào cũng lên thăm >

Người nói :< Con mà biết con bảo lãnh cho sư, 24 giờ đồng hồ là sư ra ngoài liền>

Người nói: < Sư khỏi lao động, chỉ đắp y không cần mặc đồ thế >

Ai cũng hứa hẹn với tôi những điều thần tiên tuyệt vời.Tôi mới cay đắng biết rằng họ nói sạo.Tôi bị shock nên khi nghe dì Bảy nói vậy tôi chực nhớ đến chuyện kia.Thật tình tôi không nghĩ dì bảy nói sạo nhưng do trí nhớ tai hại của tôi về chuyện kia và do phản ứng lúc đó cái miệng đi trước cái ý nên tôi nói: <Có hay không thì nói nha, không có thì đừng có nói, mắc công tôi mang ơn một cách vô ích uổng lắm >.

      Thế là dì Bảy phiền tôi.Tôi nghĩ :< không biết lỗi ở ai, có lẽ ở tôi một nữa ở dì Bảy một nữa> .Ở tôi một nữa vì tôi phát biểu không có tổ chức, còn dì Bảy giận tôi vì không có hệ thống.Bởi lý do đơn giản là vì dì Bảy không chịu nhìn nhận tôi là một diễn viên trong đoàn mà nhìn tôi bằng ánh mắt là một con La Sát.Thế là cả tháng nay dì Bảy đâu có lên gặp tôi.Một cuộc rượt đuổi nhau trong cái ân tình dâu biển.Sống không bao lâu mà cứ lo hiểu lầm nhau như vậy.Chúng ta được cái gì không? Không được gì hết cho nên mình có dịp cảm thông nhau, chuyện nhỏ đừng xé ra to, dàn xếp được chuyện nào thì dàn xếp chuyên ấy.Đời vốn đã ngộ nhận rồi, một nhạc sĩ nào đó đã từng nhắc nhở chúng ta: Hãy cuối mặt đi để nghe đời lầm lỡ.

        Hãy luôn luôn phát hiện ra những lầm lỡ của mình.Chúng ta có lắm điều sai trái mà mình không mấy khi chịu trực diện nhìn ra nó.Điều này chúng tôi đã nhiều lần nhắc ở trong nam cũng như  nhắc ở ngoaì trung.Phật tử miền Nam miền Trung nói riêng và Phật tử Việt Nam nói chung có một điểm ưu việt mà chúng tôi thường hay tán dương đó là trí nhớ hơi kém cho nên những vấn đề nào mà chúng tôi nhắc cho các vị trong bài pháp trước kỳ sau chúng tôi nhắc lại các vị vẫn hoan hỷ.Các vị quên hết trơn hết trọi cho nên tôi không cần học hỏi nghiên cứu gì thêm cứ việc nhắc đi nhắc lại hoài như nhai kẹo chewing gum vậy.Tôi vẫn được tán dương là một người bác học. Chúng ta thường tự dối gạt mình, tự cho phép mình đam mê một cái gì đó, giận hờn một ai đó, ngộ nhận hoặc có thành kiến hoặc có ác cảm với một ai đó.Tự cho phép rằng đó là sự hợp lý, đó là điều phải có, điều thích đáng mà thực ra thì chúng ta thiếu khách quan thiếu, thiếu trung thực, thiếu sáng suốt, chúng ta không phải là người đứng ngoài cuộc nhìn vào mà chúng ta là người đứng trong cuộc nhìn ra.Chính vì đó chúng ta bị rơi vào cái cảm giác vào tình trạng mà chúng tôi gọi là ngộ nhận .

        Trường hợp mà Ngài A Nậu Đà La chấp thủ vào khả năng ghi nhận của mình.Trường hợp du sĩ Trường cảo chấp thủ vào kiến thức của mình.Đó chính là bài học cho chúng ta.Chúng ta hôm nay có những điều mà chúng tôi nói theo ngôn ngữ của cụ Nguyễn Du thời xưa hơn 200 năm về trước:

        “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”

Tức là phiền não giữ trong bụng nhưng luôn luôn dùng biện pháp hình thức lịch sự nào đó mà một người có học bắt buộc phải giữ.Phải giữ cho mình một thái độ xử xự tốt nhưng thật ra trong bụng chúng ta không phải như vậy.Muốn chửi người ta lắm nhưng không dám chửi vẫn giữ ấm ức trong lòng mình.Hiểu sai nhưng không dám hỏi sợ rằng hỏi như vậy là nhục, muốn gặp người ta để xin lỗi nhưng sợ người ta nghĩ rằng mình yếu cơ hơn .Tại sao như vậy? Hãy khách quan với chính mình hãy nhìn ngắm chính mình.Lúc nãy mình là La sát, người ta là La sát.La sát trong vở kịch cuộc đời mà thôi, chứ không hề là gì khác đâu.Đừng bao giờ để rơi vào tình cảnh ngoài tình cảnh thứ nhất mà tôi nói là:

        “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”.

Còn đối tham ái là:

              Đưa tay mà ngắt ngọn ngò

        Thương em đứt ruột giả đò làm lơ

Các trường hợp này không nên.Bài Pháp đến đây đã gần trọn băng và chúng tôi cũng đoán chừng là các vị cũng mệt mỏi và những gì chúng tôi sẽ nhận được từ bài pháp này cũng vừa.Chúng tôi xin chấm dứt ở đây.Người ta nói “no mất ngon giận mất khôn”,“nói nhiều mất hay”.Tôi sợ nhất là trường hợp nói dài nói dở nói dai.Chúng tôi xin kết thúc bài phap ở đây ùt lời chúng tôi xin thành tâm hồi hướng những công đức này đến các vị Phật tử trước hết vạn sự như ý sau thành tựu tất cả những trí tuệ vừa đủ để hiểu được thấu suốt, để hội nhập được những gì chúng tôi vừa trình bày như là một chút san sẻ chân tình của chúng tôi đối với sự tu tập của quý vị.Mong rằng trong thời gian chúng tôi còn ở trong nam chúng ta có thể gặp nhau trong những sự trao đổi, những thắc mắc, những giải đáp nếu quý vịcảm thấy cần.Phần phước báu của pháp thí thanh cao này chúng tôi cũng không quên hồi hướng đến tất cả các Chư thiên nhất là Đúc trời Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, tất cả Chư thiên hộ trì Phật giáo, cũng như những vị Chư thiên vẫn luôn hộ trì chúng ta trong từng năm từng tháng trong cuộc đời tu tập cũng như trong đòi sống xã hội, xin cho tất cả luôn luôn được vạn sự như ý .Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật./.

 

       

Chánh Hạnh chuyển biên ngày 25 tháng 12 năm 2005

 

 


| | trở về đầu trang | Trang Chính |

© 2006 dieuphap.com. All Rights Reserved. Kỹ thuật trình bày nội dung: Minh Hạnh & Chánh Hạnh |