Lớp
Giảng A Tỳ Đàm
Bài
18: Diễn Trình Của Tâm Thức (Cittavìthi)
18.1: Vài khái niệm
quan trọng
Định nghĩa thuật ngữ cittavìthi hay diễn trình tâm
Một sát na tâm (cittakhana) hay đơn vị danh pháp
Những trình tự hay chập tư tưởng
Tiềm thức và biến thức
Diễn trình của tâm thức là một khái niệm chỉ được tìm thấy trong A Tỳ Đàm của Tam Tạng Pàlì. Tất cả những bộ luận của Phật giáo Bắc truyền đều không nói đến đề tài vô cùng vi tế nầy. Qua sự trình bày của "diễn trình tâm thức hay cittavìthi" sự hiện hữu của tất cả chúng sinh trong chỉ là dòng tiếp nối sinh diệt của hiện tượng danh và sắc pháp. Giáo lý nầy không có chỗ cho bất cứ những sự có mặt nào của một bản ngã dù sâu kín tế nhị đến đâu. Bởi vì là một đề tài vốn không quen thuộc nên với những dịch giả tiên phong trong đó có Ngài Tịnh Sự và Hoà Thượng Minh Châu - nhất là Ngài Tịnh Sự - đã phải trăn trở nhiều với sự chuyển ngữ các từ vựng chuyên môn. Bài học nầy phần lớn sử dụng danh từ do Ngài Tịnh Sự dịch nhưng cũng có một số đề nghị mới sau nầy.
a. Định nghĩa
thuật ngữ cittavìthi hay diễn trình tâm
Chữ cittavìthi có nghĩa là diễn trình của tâm thức. Trong nhiều trường hợp khác nhau, những sát na tâm sanh diệt nối liền nào trong những trật tự và phần hành riêng biệt. Những diễn trình nầy hết sức tế nhị nhưng tiết lộ rất nhiều về hiện tượng danh pháp theo định luật tự nhiên cittaniyama. Cả Ngài Tịnh Sự và Hoà Thượng Minh Châu đều dịch là "lộ trình tâm" nhưng từ nầy có thể khiến người học nghĩ tới: lộ trình mà tâm thức đi qua. Ở đây chỉ đơn thuần là những hình thái diễn tiến của tâm.
b. Một sát na tâm
(cittakhana) hay đơn vị danh pháp
Sát na hay khana là đơn vị cực vi của danh sắc. Riêng sát na tâm được tính bằng thời gian tồn tại. Trong một tích tắc có triệu, triệu sát na sanh diệt trong tâm. Tâm pháp luôn đi nhanh hơn sắc pháp. Con số của sát nat trong các diễn trình của tâm thức đặc biệt quan trong cho sự nghiên cứu vì nói lên vai trò của các loại tâm.
c. Những trình tự
hay chập tư tưởng
Nhiều sát na sanh diệt trong một chuổi kết nối tạo thành những trình tự tâm. Chính những trình tự nầy nói lên trọn vẹn sự tiếp nhận và xử lý cảnh ở nhiều trường hợp khác nhau. Qua sự trình bày của trình tự tâm thức cho chúng ta biết sự phần hành, yếu tính nhân quả của các loại tâm. Cũng nên nhắc ở đây rằng bốn danh uẩn (thọ, tưởng, hành, thức) kết hợp tạo thành một sát na tâm. Nhiều sát na tâm nối kết thành một trình tự tâm. Nhiều chuổi trình tự tâm hiện khởi trong một thời gian tương đối dài mới đủ rõ cho sự cảm nhận bình thường của chúng ta.
d. Tiềm thức
và biến thức
A Tỳ Đàm đặc biệt nói đến vai trò của tâm hộ kiếp hay hữu phần (bhavanga). Đó là tâm khởi đầu một kiếp sống và tiếp tục sanh diệt cùng trạng thái cho đến khi một kiếp sống kết thúc. Trạng thái nầy không dể nhận thấy nhưng ảnh hưởng lớn đến tâm thái của chúng sanh. Không có một từ vựng nào chính xác để dịch từ nầy. Ở đây tạm gọi là tiềm thức để phân biệt với những thứ tâm sanh khởi do có cảnh mới sanh khởi - tạm gọi là biến thức.
18.2 Tâm phân theo cảm
thọ (Vedanà)
Cảm thọ và tâm thức
Các loại cảm thọ
5 thọ trong 121 tâm
a. Cảm thọ
và tâm thức
Cảm thọ là một đề tài lớn trong cả ba tạng Kinh, Luật và A Tỳ Đàm. Riêng trong tạng A Tỳ Đàm thì cảm thọ đóng vai trò quan trọng trong sự xác định nhiều tính năng của tâm thức. Cảm thọ ảnh hưởng đến tác năng tạo quả như trong trường hợp tâm tham và các tâm thiện dục giới. Cảm thọ nói lên sự thuần thục trong các tầng thiền (jhàna) như trong tâm sắc giới. Cảm thọ nói lên sự khác biệt phàm thánh như trường hợp thọ ưu chỉ có trong tâm sân trong lúc thọ khổ thì phàm thánh đều có. Trong trường hợp các cặp nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức dù quả thiện hay bất thiện đều thọ xã là một ý nghĩa lớn. Vai trò của thọ trong các tâm vô nhân khác cũng hết sức quan trọng. Riêng đối với diễn trình của tâm thức thì cảm thọ mang tính quyết định trong những trình tự tâm thức mà chi tiết sẽ được đào sâu ở đoạn sau.
b. Các loại cảm thọ
Cảm thọ đôi khi được phân làm 3: khổ, lạc, xả nhưng để nói một cách chính xác khi đề cập đến các thứ tâm thì phải nói đến 5 thọ: khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Những từ vựng Phạm ngữ dùng ở đây phải hiểu mang là trường hợp cá biệt. Những từ dukkha, sukha, upekkha phải được hiểu rõ để không lẫn lộn trong nhiều trường hợp khác. Thọ khổ (dukkha) chỉ riêng khổ thọ của thân thí dụ sự đau đớn của thể xác. Thọ lạc (sukha) chỉ sự thoải mái, dể chịu của thân như sự xúc chạm êm ái. Thọ ưu (domanassa) chỉ sự bực bội, khó chịu của tâm, ở đây chữ "ưu" không chỉ nói riêng về sự lo lắng mà là tất cả sự khó chịu của tâm. Thọ hỷ (somanassa) được hiểu là cảm vui của tâm đối lại với thọ ưu; A Tỳ Đàm đặc biệt phân biệt thọ hỷ trong thuộc tánh thọ khác với thuộc tánh hỷ trong nhóm thuộc tánh biệt cảnh. Thọ xả (upekkha) ở đây là một thứ cảm thọ không khổ, không lạc không ưu, không hỷ; chữ upekkha ở đây không mang nghĩa "quân bình" như thuộc tánh hành xả trong nhóm thuộc tánh tịnh hảo.
c. 5 thọ trong
121 tâm
Không có một thứ tâm nào trong A Tỳ Đàm chỉ có chức năng chuyên biệt là để cảm thọ mà tất cả tâm đều có cảm thọ. Cảm thọ là một thành tố của tâm. Không có tâm nào mà không có một trong năm cảm thọ. Nói một cách khác 4 danh uẩn: thọ, tưởng hành, thức luôn luôn là thành tố trong bất cứ sát na danh pháp nào. Từ ngữ "sampayuttà" hay tương ưng, đi cùng, có mặt với được dùng để chỉ sự có mặt của thọ trong mỗi thứ tâm.
Thọ khổ chỉ có trong tâm thân thức quả bất thiện
Thọ lạc chỉ có mặt trong tâm thân thức quả thiện
Thọ ưu có mặt trong hai tâm sân
Thọ hỷ có mặt trong 62 tâm là 4 Tâm Tham Thọ Hỷ, Tâm Quan Sát thọ hỷ, Tâm Ưng Cúng Vi Tiếu, 22 tâm Dục Giới thọ hỷ và 44 Tâm Thiền thọ hỷ.
Thọ xả có mặt trong có 55 Tâm là 4 Tâm Tham Thọ Xả, 2 Tâm Si, 12 Tâm Dục Giới Tịnh Hảo thọ xả, 23 tâm Ngũ Thiền và 14 Tâm Vô Nhân thọ xả (trừ Thân Thức, Tâm Quan sát thọ Hỷ và Tâm Ưng Cúng Vi Tiếu).
18.3 Tâm phân theo "nhân-hetu"
Định nghĩa thuật ngữ "nhân-hetu"
Khái niệm về "nhân" trong A Tỳ Đàm
Những tâm vô nhân, nhất nhân, nhị nhân và tam nhân
a. Định nghĩa
thuật ngữ "nhân-hetu"
Nhân ở đây được hiểu là nguyên nhân, cội rễ. Theo tập sớ Atthasàlini thì gọi là "nguyên nhân của những nguyên nhân (hetu hetu). Sáu thuộc tánh tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si được hiểu là nguồn cội của những pháp bất thiện và pháp thiện. Có hai điểm cần lưu ý ở đây là mặc dù gọi là nhân thiện và bất thiện nhưng chữ thiện ở đây hàm nghĩa như là "tịnh hảo" chức không có nghĩa là "có khả năng tạo quả vui". Hơn nữa những chữ vô tham, vô sân, vô si tuy là phủ định từ nhưng phải hiểu theo nghĩa tích cực. Như vô si không có nghĩa là sự vắng mặt của si mê mà phải hiểu là trí tuệ.
b. Khái niệm về
"nhân" trong A Tỳ Đàm
Sự ảnh hưởng của 6 nhân trong các danh pháp đồng sanh là một tính quyết định được nhấn mạnh trong A Tỳ Đàm. Những pháp không có nhân bất thiện không hẳn là thiện nếu không có nhân thiện như trường hợp tâm vô nhân. Nhân si có thể đi một mình và trong tất cả tâm bất thiện đều có mặt của thuộc tánh si trong lúc nhân vô si hay trí tuệ thì trái lại không thể đi một mình mà luôn luôn có vô tham và vô sân; một số các tâm tịnh hảo chỉ có vô tham và vô sân chứ không có vô si. Các nhân thiện có mặt trong các tâm tịnh hảo và chữ thiện ở đây được hiểu là tốt. A Tỳ Đàm đặt biệt nêu rõ sở hành của vị thánh tứ quả vô sanh tuy là vượt ngoài thiện ác nhưng trạng thái thì có những nhân thiện như tâm thiện. 3 nhân thiện có thể cùng có mặt trong một thứ tâm nhưng 3 nhân bất thiện thì không.
c. Những tâm vô
nhân, nhất nhân, nhị nhân và tam nhân
Có 18 tâm vô nhân là 15 tâm quả vô nhân và 3 duy tác vô nhân. Có 2 tâm nhất nhân là 2 tâm si là (chỉ có nhân si). Có 22 tâm nhị nhân là 8 tâm tham, 2 tâm sân và 12 tâm tịnh hảo dục giới ly trí. Có có 47 hoặc 79 tâm tam nhân: 12 Tâm Dục Giới Tịnh Hảo hợp trí, 27 Tâm Ðáo Ðại và 8 hoặc 40 Tâm Siêu Thế.
18.4 Tâm
phân theo
chức năng (kicca)
Những vai trò khác biệt của tâm thức
Chức năng của tâm thức và diễn trình tâm thức
14 chức năng của tâm
a. Những
vai trò khác
biệt của tâm thức
Khi tâm thức được phân theo thọ, tánh, giới vức thì phần lớn cho biết về trạng thái của tâm. Nhưng khi tâm phân theo chức năng thì cho thấy một thế giới cực kỳ sinh động, đa dạng của tâm thức. Chính ở đây cho thấy tại sao không thể có một thứ linh hồn đơn thuần mà là cả một giòng chuyển biến phức tạp. Với sự phân định về chức năng của tâm thức, A Tỳ Đàm đưa ra một định nghĩa hết sức đặc biệt về sự sống. Thí dụ như sự đồng nhất của ba thứ tâm tục sinh, hộ kiếp và tử nói lên rất nhiều về sự chi phối của thứ tâm khởi đầu kiếp sống. Chức năng hộ kiếp lại tiết lộ nhiều bí ẩn về đời sống hằng ngày của mỗi chúng sinh. Những vai trò mang tính máy móc cũng là một điều khiến người ta ngạc nhiên về sự mô tả vi tế nầy. Năm giác quan thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm quả thật muội lược hơn người ta thường tưởng tượng.
b. Chức năng của tâm thức và diễn trình
tâm thức
Với sự trình bày về 14 chức năng của tâm, A Tỳ Đàm trong Tam Tạng Pali đặc biệt nhấn mạnh những chi tiết của diễn trình tâm thức. Sự trình bày nầy không tìm thấy ở những bộ luận của Phật giáo Bắc Truyền. Hơn thế nữa, những chi tiết về chức năng tâm thức cho thấy đây là một ghi nhận các hiện tượng tự nhiên chứ không phải là một sản phẩm của suy diễn. 14 chức năng của tâm còn giúp qui định rõ từng giai đọan trong một diễn trình của tâm thức, nhờ vậy người học sẽ nắm dể dàng đào sâu vào các diễn trình tâm được giảng giải sau nầy
c. 14 chức năng của tâm
14 chức năng của tâm là:
1)Tục Sinh.
2) Hộ Kiếp.
3) Thấy.
4) Nghe.
5)Ngửi.
6)Nếm.
7) Xúc chạm.
8) Khai Môn.
9) Tiếp Thâu.
10) Quan Sát.
11)Phân Ðoán.
12) Đổng lực
13) Dư hưởng
14) Tử.
C.1 Tục Sinh
Phạn ngữ patisandhi có nghĩa là nối kết. Hán tạng thường dịch là kiết sanh. Ngài Tịnh Sự dịch là tục sinh. Thật ra để chỉ cho một thứ tâm bắt đầu kiếp sống mới ngay sau sát na tâm tử của kiếp sống truớc. Mặc dù có nghĩa là nối kết nhưng không có nghĩa là một thứ tâm giũa hai kiếp sống. Sau sát na tâm đầu tiên của kiếp sống được gọi là tâm tục sinh thì những sát sat tâm cùng loại tiếp tục đời sống được gọi là hộ kiếp.
a) Tâm: có 19 tâm làm việc Tục Sinh là 2 tâm Quan Sát thọ xả, 8 Tâm Quả Dục Giới hữu nhân và 9 Tâm Quả Ðáo Ðại.
b) thuộc tánh: có 35 thuộc tánh cùng phối hợp là 13 thuộc tánh Tợ tha và 22 thuộc tánh Tịnh Hảo (trừ Giới Phần).
Tục Sinh ác thú là tâm làm việc Tục Sinh trong 4 cảnh khổ: Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, A Tu La, và Bàng Sanh. Tâm Tục Sinh trong 4 cảnh khổ là Tâm Quan Sát Quả Bất Thiện. Tâm nầy có 10 thuộc tánh cùng phối hợp là 10 thuộc tánh Tợ tha (trừ Cần, Hỷ, Dục)
Tục sinh nhơn loại là việc tục Sinh của loài người. Tâm làm việc Tục sinh cho loài người có 9:
Nếu tục Sinh bằng Tâm Quan Sát Quả Bất Thiện Vô Nhân thọ xả thì làm người có tật bệnh từ trong bụng mẹ như đui, điếc, câm v.v...
Nếu tục Sinh bằng 1 trong 4 tâm Quả Dục Giới hợp trí thì sanh làm người thiếu trí, hạng người này không thể đắc Thiền hay Ðạo Quả được.
Nếu tục Sinh bằng 1 trong 4 Tâm Quả Dục Giới hợp trí thì sinh làm người khôn ngoan sáng suốt có thể đắc đạo...
Có 9 tâm làm việc tục sinh vào các cõi trời dục giới tương tự như tâm tục sinh vào cõi người
9 tâm quả đáo đại thì làm việc tục sinh vào các cõi thiền sắc và vô sắc.
C. 3 Hộ Kiếp
Hộ kiếp là từ ngữ
Ngài Tịnh Sự dịch theo phần hành
của tâm chứ không phải từ nguyên ngữ "bhavanga".
Hộ kiếp có thể được hiểu theo nghĩa
"trì nghiệp" với ý nghĩa là gìn giữ sự hiện
hữu của kiếp sống, trong một giải thích khác
thì bhavanga có khả năng gìn giữ những cá tánh nhất
định nào đó của kiếp sống..
Bản chữ Hán qua bản dịch của HT Minh Châu là "hữu
phần" là cách dịch sát của chữ bhava >hữu
hay sự sống + anga = thành tố, thành phần. Đây là thứ tâm thức tiềm tàng trong đời
sống khi không có các "biến thức" xuất hiện.
Tuy muội lược nhưng lại có những
chi phối nhất định đối với đời
sống của chúng sanh. Tâm hộ kiếp
có cùng trạng thái với tâm tục sinh và tâm tử. Nói
một cách khác sanh bằng tâm nào thì hộ kiếp và tử
cũng bằng tâm đó
Những tâm
làm việc hộ kiếp giống như tâm tục sinh.
ooOoo