LỚP PHẬT PHÁP - BUDDHADHAMMA |
TIN TỨC PHẬT GIÁO |
TRUYỆN NGẮN
Báo hiếu: trả nghĩa cha
Nguyễn Công Hoan
Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương.
Nhưng mưa, gió, rét, có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ôtô "Con cọp"? Bởi vì trong buồng khách, cửa đóng kín mít, hơi lửa lò sưởi xông lên nóng rực. Mà khách đến chơi, ông nào cũng gói mình vào đến trăm thứ áo, lại xù xù ở cổ một chiếc chăn con!
Khách đến dự tiệc toàn là hạng ông nọ ông kia, danh giá, mà ông chủ nói là chỗ thân. Cho nên cố mời cho kỳ được. Vì chính ông cũng là hạng tai mắt trong phố phường. Ông là nhà tư bản vậy!
Vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình, mời mọc cho thực đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn đã được khá, nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn - bởi đạo làm con là phải báo hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ cũng cười cho. Nghề thế, phú quý sinh lễ nghĩa.
Mà phú quý sinh lễ nghĩa thực. Chẳng tin cứ nhìn cách cử chỉ của hai ông bà chủ nhà ra đón tiếp khách thì đủ rõ. Hai ông bà cùng béo tốt, đẹp đẽ. Nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái hộp. Tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với bộ ria sửa khéo như vẽ. Miệng lúc nào cũng chực toé ra một chuỗi cười. Vì ngày hôm nay, bổn phận ông là phải hay cười. Mà đã cười thì cười cực to, ôm bụng mà cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến câu nói không buồn cười. Nghĩa là ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản. Phải, người ta đã chẳng quản mưa, gió, rét mướt, mà quá bộ đến nhà để chiếu cố thì mình phải lấy làm hân hạnh, vui vẻ mới được. Cho nên ai đến, ông cũng chắp tay vái chào cung kính, rồi mời mọc ân cần, quý quý, hóa hóa, ăn nói rõ ra một nhà nền nếp, gia giáo.
Trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải trên một tấm khăn trắng nuột. Cốc to, cốc nhỏ, chai lớn, chai con, bát sứ, đĩa tây, bày la liệt, nhưng có thứ tự, lóng lánh dưới ngọn đèn trăm nến.
Chuông sáu giờ vừa dứt. Khách đến đã đủ. Một tiếng ông chủ mời, thì một trăm bốn tư chiếc chân, vừa chân người vừa chân ghế, lê sền sệt trên nền gạch tây bóng lộn. Hai mươi bốn chiếc cốc đầy rượu đụng nhau, chủ khách bắt đầu cầm đũa.
Xin ngài cho phép chúng tôi vào vô phép bà chủ.
Câu nói vừa dứt, thì đã thấy bà chủ ở trong buồng đi ra, chắp tay, tươi như cái hoa:
- Các quan đã có lòng yêu chúng tôi, mà đến chiếu cố bữa cơm thường nhà chúng tôi, chúng tôi xin đa tạ. Xin rước các quan xơi rượu.
- Chúng tôi chẳng dám tin là bữa cơm thường!Kỵ cụ cố ông mà ông bà làm to thế này, thì chúng tôi tự xét mình lấy làm xấu hổ vì bất hiếu. Thôi nhờ bà nói giúp cho chúng tôi xin vô phép cụ cố bà.
- Thưa các quan, cảm ơn các quan, cụ bà chúngtôi ở trong nhà quê ạ. Nhiều lần chúng tôi mời ra ở đây, nhưng không chịu đi. Cho nên chúng tôi vẫn lấy làm ân hận lắm.
Cái lễ phép tắc trách đã làm xong, chủ khách ăn uống rất êm đềm vui vẻ. Êm đềm vui vẻ thực! Sung sướng thay! Củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng giọt mưa phùn. Chuyện nói to làm lấp các tiếng gió bấc thổi. Hơi rượu nồng nàn, ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.
* * *
Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương.
Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ. Bà dòm hết nhà nọ đến nhà kia, mà lại dòm một cách ngốc dại. Nghĩa là không nghĩ đến rằng lỡ người ta đuổi, hay mắng, cho là định rình ăn cắp, người ta bắt lên Cẩm thì sao? Dòm chán rồi lại hỏi thăm. Mà hỏi chỉ độc nói trống không. Khi chẳng ai hoài hơi mà trả lời, thì bà ta cũng không biết phàn nàn hoặc sửa lại câu hỏi cho nhã nhặn thêm chút ít. ấy thế rồi chịu đứng ngoài đường, như yên trí rằng ở đây cũng như ở nhà quê, không có xe pháo qua lại. Bà lại nhìn quanh quẩn từng nhà một...
Hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt. Rồi nhận thấy một cái nhà có cái mái chĩa ra, bà bèn đứng lại để trú mưa. Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi, trông rõ quê mùa, đần ngốc. Mặt mũi đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt thì toét nhoèn những dử. Cái hàm trên thì chìa ra như mái hiên. Hai tay thì lóng cóng, gí cái nút buộc giải yếm vào tận mắt, lúng túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào mồm, nhai phóm phém. Trông lại càng xấu. Cái áo vải nâu dầy cồm cộp, cái quần một ống - nói nôm ra, là cái váy - lùng thùng như cái bồ, chỗ thì ướt, chỗ thì khô. Có lẽ là bộ cánh quý nhất, nên ra tỉnh, mới dám mặc đến, nay bị ướt thì tiếc, nên cố vắt mãi cho khỏi đẫm nước mưa. Rồi lại cởi cái khăn vuông ra, để hở cái đầu bạc trọc tếch mà gãi, nhăn mặt lại mà gãi. Rồi lấy ngay cái khăn đội đầu ấy mà lau chỗ gấu váy có dính đất. Gớm, sao mà người đâu lại có người không biết thế nào là bẩn cả!
Rét đã run lên chẳng được, lại còn cứ lẩm bẩm nói một mình. Không biết nói những gì? Tính công tính việc hay là than thở, hay là vui thú cái chi chi? Nhưng thế thực rõ là cái lối người từ thuở bé chưa hề được thấy cái gì là hể hả.
Đương ngồi thì bỗng đằng sau lưng có tiếng cửa mở. Người đàn bà nhà quê quay lại, thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố nhố bao nhiêu người, hình như ăn uống. Chỉ trông thoáng có thế thì thấy cửa lại khép lại, và có người đi ra.
- Alê! Chạy! Chốc nữa hãy đến. Người ta vừa mới ăn!
Nói xong người ấy đi. Bà lão nhìn theo, không hiểu họ bảo ai. Nhưng chừng cũng đoán rằng người ấy là bồi biệc ở cái nhà này đây. Cho nên, một lát sau, trông thấy người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. Nhưng chưa nói được gì, đã bị mắng ngay câu nữa:
- Alê! Không đi đi thì ông ấy ra bây giờ!
- Đây có phải nhà ông chủ không?
- Ông chủ nào? Không biết! Alê! Đi!
Thế rồi cửa lại hé ra, rồi áp lại. Người ấy vào trong mất.
Bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính. Vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. Rồi không biết nghĩ sao, bà lấy tay sờ mãi vào cửa để mở. Nhưng không biết cách nào, bèn lay thình thình, như không sợ hãi gì cả.
Một người đứng hầu chạy ra mở cửa. Có lẽ là người ban nãy, cho nên thấy bà lão thì đẩy ra, và nói:
- Đi! Chốc nữa...! Dạ!
Cánh cửa lại đóng đánh thình. Bà lão nhìn theo, thì thấy người hầu ấy khoanh tay đứng nói gì với một người đương ngồi ăn. Mà chính vì đã trông thấy người ngồi ăn ấy, nên bà lão mới dám bạo dạn như thế. Người ngồi ăn ấy tức là ông chủ nhà, chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp".
Ông chủ đứng phắt dậy, phưỡn bụng đi ra mở cửa. Bà lão mừng rỡ, híp mắt, nhăn nhó cái mặt để cười và nói to tướng:
- Thành ra tôi ngồi ngay ở cửa nhà mà không biết!
Ông chủ nhà cau mặt, ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái. Rồi cánh cửa lại đóng ập lại.
Bà lão không hiểu ra sao. Hay là mình trông lầm chăng. ấy thế mà còn ngốc quá, bà cố cạy và đẩy mãi cửa. Nhưng may, không sao đẩy được. Nhìn theo vào, bà thấy cái nhà ông ấy đi tuột vào trong, mà khi ra ngồi vào bàn tiệc, thì lại cười nói như trước.
Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. Bà lão quay lại, thì người ấy nói:
- Tôi đưa bà cụ đi vào cổng đằng này, ông tôi bảo thế.
- Không đi được lối này à?
- Ông tôi đương có khách.Bà lão bước xuống thềm, đi theo. Vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi rộng. Cổng mở, bà bước vào, đi qua một cái sân, thì đến cái nhà con, trong có chiếc ôtô bóng nhoáng. Người ấy bảo:
- Bà cụ ngồi tạm đây.
Bà lão nhìn bốn bên. Đèn tuy sáng, nhưng cũng không hiểu mình ngồi tạm nhà ai. Mà nói rằng ngồi, chứ có cái gì để ngồi đâu. Vả muỗi và hôi thối quá. Nên chỉ mong chóng có người đưa về, để lễ và để nằm nghỉ. Vì đi xe ngót một giờ đồng hồ cũng mệt. Bà lão nóng ruột quá.
Nhưng may sao, một lát sau thấy có người đi đến. Bà lão nhờ nhắn ông chủ xuống cho mình hỏi.
Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên sân gạch. Bà lão cố nhìn xem ai. Mừng quá.
Thật đích là ông chủ. Ông chủ đứng trước mặt bà lão, nét mặt hầm hầm, trợn mắt, khoanh tay vào ngực mà gắt:
- Một suýt nữa thì làm tôi ê cả mặt! Ai bảo bà ra làm gì?
Bà lão chưa kịp trả lời cái câu hỏi không ngờ, thì đã bị mắng luôn mấy câu nữa:
- Tôi đã cấm bà không được ra đến đây kia mà. Đã một lần trước rồi, mà không chừa! Bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà cầm lấy! Bà về đi! Mặc kệ bà! Bà phải về ngay bây giờ! Mới có hơn bảy giờ, còn sớm!
Nói xong, ông ấn vào tay bà lão một cái tròn tròn, rồi quay gót trở lên, và gọi rầm rĩ:
- Thằng bếp đâu rồi! Mày đưa bà ấy ra! Mà mày phải bảo chúng nó rằng tao cấm, không đứa nào được kéo bà ấy cả! Cho mà đi bộ để bận sau mà chừa.
Bà ấy là ai? Bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoại ba mươi năm nay, có một đêm, bà ấy trót dại chiều chồng, mà tình cờ đẻ ra được một đứa con trai. Sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy goá bụa. Nhà nghèo, làm ăn vất vả, kiếm chẳng ăn đủ, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chồng để bước đi bước nữa mà vui thú với cái tuổi xuân đương hơ hớ. Qua mấy năm khó nhọc, khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. Rồi vì nghèo khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. Nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giầu. Từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. Nay giàu đến hàng mươi vạn. Thằng con ấy tức là ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp" vậy.
Bà lão lẩy bẩy, theo người bếp lôi ra cửa ban nãy. Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, thì không biết tâm trí để đâu, bà ta lập cập, vấp một cái, ngã xoài ngay ra rãnh cống. Quần áo mặt mũi lấm bê bết. Cái tròn tròn vẫn nắm trong tay bắn quăng đi. Bà lão cố sờ soạng. Khi tìm thấy, bèn gí vào mắt để xem, thì cái tròn tròn ấy là đồng hào ván...
Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đương khen là hiếu tử.
|
|
Bài học ngày 25 tháng 4, 2010
Giảng sư: Pháp Đăng
KHÔNG PHẢI NỤ CƯỜI NÀO CŨNG BẰNG MƯỜI THANG THUỐC BỔ
"TKhông phải sự ban bố lạc thú nào cũng giống nhau"
I.
Đại lược
II. Puta (S.iv,306)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Talaputa, nhà vũ kịch sư (natagàmani), đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, vũ kịch sư Talaputa bạch Thế Tôn:
-- Con được nghe, bạch Thế Tôn, các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng: "Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cọng trú với chư Thiên hay cười (pahàsadeve)". Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?
-- Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này.
4) Lần thứ hai, vũ kịch sư Talaputa bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng: "Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cọng trú với chư Thiên hay cười". Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?
-- Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này.
5) Lần thứ ba, vũ kịch sư Talaputa bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Ðạo sư, các vị Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng: "Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười". Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?
-- Thật sự, Ta đã không chấp nhận và nói rằng: "Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này". Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông.
6) Này Thôn trưởng, đối với những loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng tham, còn bị lòng tham trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường, tập trung những pháp hấp dẫn, thời khiến lòng tham của họ càng tăng thịnh. Này Thôn trưởng, đối với những loại hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng sân, còn bị lòng sân trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến sân, thời khiến cho lòng sân của họ càng tăng thịnh. Này Thôn trưởng, đối với loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng si, còn bị lòng si trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến si, thời khiến cho lòng si của họ càng tăng thịnh.
7) Người ấy tự mình đắm say, phóng dật, làm người khác đắm say và phóng dật, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong địa ngục Hý tiếu (Pahàso). Nếu người ấy có (tà) kiến như sau: "Người vũ kịch nào, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười". Như vậy là tà kiến. Ai rơi vào tà kiến, này Thôn trưởng, Ta nói rằng người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: một là địa ngục, hai là súc sanh.
8) Khi được nói vậy, vũ kịch sư Talaputa phát khóc và rơi nước mắt.
-- Chính vì vậy, này Thôn trưởng, Ta đã không chấp nhận và nói: "Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này".
-- Bạch Thế Tôn, con khóc không phải vì Thế Tôn đã nói như vậy. Nhưng, bạch Thế Tôn, vì con đã bị các Ðạo sư, các Tổ sư vũ kịch thời trước đã lâu ngày lừa dối con, dối trá con, dắt dẫn lầm lạc con rằng: "Người vũ kịch nào trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên hay cười".
9) Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới!
10) Vũ kịch sư Talaputa được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới.
11) Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Talaputa... trở thành một vị A-la-hán nữa.
Tương Ưng Bộ. HT Thích Minh Châu dịch
II. Thảo Luận
1. Niềm vui nào gọi là sự hoan hỷ không đi với phóng dật?
2. Phải chăng ngay cả trong niềm tin nhân quả vẫn có những sai lầm?
3. Tại sao chánh mạng là một trong nhân tố quan trọng trên đường tu tập?
4. Một người tặng người khác những sách báo giải trí thiếu lành mạnh có quả như thế nào theo nghiệp báo?
VI. Đố Vui
Trong giáo lý nhân quả có câu "nhân nào quả nấy". Câu nào dưới đây được xem là chính xác với điều nầy:
a. Mình cho người cái gì sao nầy được cho lại cái đó
b. Nhân lành cho quả vui
c. Nhân ách cho quả khổ
d. Câu b và c
Được đăng bởi Pháp Luân vào lúc 06:46
|
Chùa Pháp Luân
13913 S. Post Oak Rd
Houston TX 77045
Phone: (713) 433-4364
Fax: (832) 550-2889
PHÁP THOẠI
Kinh Chuyển Pháp Luân
TT Giác Ðẳng giảng tại bảo tháp Chaukhandi, Sarnath trong chuyến hành huong Ấn Ðộ ngày 20 tháng 3 năm 2010
Đức Phật Ngài dạy về con đường trung đạo, con đường mà Đức Phật đã chứng ngộ con đường đem lại nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ Niết-Bàn. Đó là Bát Chánh Đạo và Tứ Diệu Đế.
Bát Chánh Đạo là con đường có 8 chi phần là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Phần tiếp theo Đức Phật Ngài giảng về Tứ Đế, đầu tiên Ngài giảng về bốn sự thật vi diệu và bốn sự thật quan trọng mà một vị giác ngộ thành tựu tuệ giác không thể không biết đến.
1) Diệu Đế thứ nhất. Là Khổ Diệu Đế tức là sự thật về đau khổ. Ngài dạy rằng tất cả chúng ta trong đời này dù là già hay trẻ, sang hay hèn, dù ở bất cứ giai cấp nào bất cứ cảnh giới nào, dù là tỳ kheo hay tỳ kheo ni thì chúng ta cũng bị sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ và thương phải xa là khổ, ghét phải gần là khổ, muốn không được là khổ, chấp thủ năm uẩn là khổ, ưu sầu não là khổ.
2) Diệu Đế thứ hai. Là Tập Khổ Đế. Nguyên nhân của sự đau khổ. Ngài dạy dựa trên hai sự thật nằm ở trong một nhân tố gọi là tanha hay là khát ái. Khát ái tức là cái mình muốn và không bao giờ thoả mãn. Ví như qúi vị khát nước mà qúi vị uống nước muối thì không bao giờ hết khát thì tâm của chúng ta luôn luôn mong muốn một cái gì đó cho dù chúng ta đã đạt đến nó rồi nhưng chúng ta cũng tìm cái khác nữa. Ví dụ như chúng ta từ Mỹ muốn sang bên đây nhưng mà đến đây rồi thì chúng ta lại nghĩ đến đề mục khác nữa. Hay là chúng ta nghĩ có cái gì đó thì mình vui nhưng mà rồi khi có nó thì chúng ta lại đi tìm một cái gì khác nữa. Thì đó gọi là tanha. Sự trầm kha của chúng ta là không bao giờ thoả mãn với cái mình đang có.
3) Diệu Đế thứ ba gọi là Diệt Khổ Đế. Là sự chấm dứt khổ đau tức là chân hạnh phúc. Thì Đức Phật Ngài định nghĩa hạnh phúc rất đơn giản không còn khổ đau nữa gọi là nirodha, không còn khổ đau nữa là hạnh phúc và muốn không còn khổ đau nữa thì Đức Phật Ngài dạy con đường đi đến sự diệt khổ là Bát Chánh Đạo.
4) Diệu Đế thứ tư là Đạo Đế. Tức là con đường đi đến sự diệt khổ là Bát Chánh Đạo gồm chánh kiến là cái nhìn của chúng ta được chân chánh, lời nói được chân chánh, rồi hành động được chân chánh, sự nuôi mạng được hiền thiện và ba chi sau là chánh tinh tấn, chánh định và chánh niệm.
Sau khi Đức Phật Ngài dạy về bốn Diệu Đế, Ngài nói đến Ba Luân Mười Hai Chuyển.
Ba luân ở đây tức là mỗi một Diệu Đế thì được nhìn trên ba khía cạnh.
Thí dụ như mình nói theo pháp học đây là Khổ,
rồi sự Khổ cần được biết,
và sự Khổ đã được biết.
Đó là phương diện pháp học và pháp hành.
Rồi đây là Tập Đế và Tập Đế cần được diệt và Tập Đế đã được diệt và Tập đế đã được biết.
Đây là Diệt Đế và Diệt Đế cần được chứng ngộ và Diệt Đế đã được chứng ngộ.
Đây là Đạo đế và Đạo Đế cần được tu tập và Đạo Đế đã được tu tập.
Tức là một người mà hiểu biết vấn đề và nhìn thấy ba luân tức là nhìn thấy thế nào là Khổ,
thế nào là Tập,
thế nào là Diệt,
thế nào là Đạo,
và sau đó thì chúng ta biết là nên làm gì với thứ đó.
Thì Khổ Đế là học để biết.
Tập Đế học để Diệt.
Và Diệt Đế học để chứng.
Đạo đế học tu tập và sau này để xác chứng
Và Khổ Đế ta được biết đã được diệt,
Diệt Đế đã được chứng
và Đạo Đế đã được tu tập.
Đức Phật Ngài Khẳng định một điều rằng nếu mà Ngài chưa có chứng ngộ Tứ Đế cho ba luân khai triển thì Ngài không có tuyên bố với thế giới này là Ngài đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng ta nói ngắn gọn bài kinh này là như vậy. Bài kinh này về sau Tôn Giả Xá Lợi Phất Ngài đã nhắc lại giáo lý Tứ Đế và Ngài nói rằng là "ở trong tất cả những dấu chân của con vật thì dấu chân con voi là dấu chân lớn và những dấu chân của những con vật khác đều có thể nằm lọt trong Tứ Diệu Đế." Ngài gọi là giáo lý Tứ Đế là giáo lý phẩm quan của Đạo Phật và tất cả giáo lý của Đạo Phật đều nằm trong giáo lý Tứ Đế.
Sau khi Đức Phật Ngài giảng về bài kinh Chuyển Pháp Luân này thì bằng tâm tư của Ngài người đệ tử đầu tiên ở trong giáo pháp tức là Kondanna tức là Ngài Kiều Trần Như đã chứng quả Nhập Lưu tức là niềm tin bất thối, lúc đó Ngài đã nói lên câu "Anna Kondanna, Anna Kondanna" tức là "Kiều Trần Như đã liễu ngộ", chữ liễu ngộ ở đây tức là thấy xuyên suốt, tức là thật sự thấy, thật sự biết, và cái biết cái thấy đó không thay đổi. Về sau chúng ta gọi là A Nhã Kiều Trần Như tức là Ngài Kiều Trần Như đã liễu ngộ.
Sau khi Đức Thế Tôn thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân thì Ngài đưa tay lên nói là "hãy đến đây 5 vị tỳ kheo" thì 5 vị tỳ kheo đầu tiên là các Ngài Kondanna, Ngài Mahanama, Ngài A Xà Chí, Ngài Bhadrica, Ngài Dasadaha-Casyaba đều là những vị thông tuệ và Đức Thế Tôn đã cho 5 vị đó trở thành 5 vị tỳ kheo trong giáo pháp, và chính tại nơi này ra đời của Tam Bảo trong giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ đó về sau chúng ta có câu "Tam Bảo Trụ Thế" tức là sự hoàn tất của Tam Bảo.
.
Chùa Pháp Luân năm nay tổ chức lễ đại lễ Phật Đản Tam Hợp vào ngày Chủ Nhật 16 tháng 5, 2010
Bản tin do TT Giác Đẳng nói trong room Phật Pháp Buddhadhamma.
Chùa Pháp Luân năm nay tổ chức lễ đại lễ Phật Đản Tam Hợp vào ngày Chủ Nhật 16 tháng 5, 2010. Năm nay trong chủ đề Phật Đản chúng tôi mượn một ý tưởng của Tiến Sĩ Ambedkar người đã viết ra hiến pháp của Ấn Độ hiện đại nói về ý chỉ của Đức Phật là Ngài muốn chúng ta cảm nhận như thế nào về hình ảnh của Ngài trong cuộc sống. Chúng tôi lấy một ví dụ là Đức Phật Ngài từng đề cập đến một thí dụ là Ngài như một người đi vào trong rừng sâu và đã tìm ra một toà lâu đài cổ xưa vốn đã bị quên lãng theo thời gian, và khi khám phá toà lâu đài này thì Ngài trở về hướng dẫn những người khác cùng đi theo con đường đó để đến toà lâu đài đó. Ngài muốn nói rằng chân lý hay diệu pháp mà Ngài đã giác ngộ như là một toà lâu đài cổ và Chư Phật là người khám phá ra chân lý đó và hướng dẫn những người khác tìm lại con đường cổ xưa để tái khám phá ra chân lý, thì chân lý không phải là một sản phẩm của Chư Phật mà vốn là một sự thật tự nhiên và Chư Phật là vị giác ngộ vạn pháp và chỉ điểm cho chúng sanh làm thế nào để dẫn đến chỗ giác ngộ giải thoát. Đó là một thí dụ về năm điểm mà Đức Phật Ngài muốn cho chúng ta cảm nhận như thế nào về Ngài và về giáo pháp, nhưng đặc biệt là về Đức Phật.
Chúng tôi xem đây là một điểm rất quan trọng là bởi vì đa số tất cả chúng ta đều mong muốn để biểu thị sự tôn kính của mình với Đức Phật nhưng mà thường là qua thái độ riêng của chúng ta, chúng ta nghĩ như vậy là hợp tình hợp lý nhưng bây giờ chúng ta tự hỏi rằng Đức Phật Ngài muốn chúng ta nghĩ như thế nào về Ngài, cũng giống như ở trong gia đình chúng ta thường có cách thương cha thương mẹ riêng của mình, nhưng mà lâu lâu chúng ta đặt lại vấn đề là cha mẹ thật sự muốn mình phải cư xử với cha mẹ như thế nào, một câu hỏi ngược lại như vậy sẽ lợi ích cho chúng ta.
Đó là chủ đề của đại lễ Phật Đản tức là đại lễ Tam Hợp Vesakha Puja tại chùa Pháp Luân vào ngày Chủ Nhật 16 tháng 5 năm 2010 này. Và trong buổi lễ này thì chúng tôi đặt biệt có một chương trình qua chương trình đó chúng tôi sẽ giới thiệu với qúi Phật tử về lịch trình mới trong năm nay mà tôi nghĩ rằng đây là một lịch trình hy vọng mang lại nhiều lợi ích cho quí Phật tử trên phương diện tu học mà chúng tôi sẽ công bố trong đại lễ Phật Đản này
Thạch động Ajanta và Ellora ở miền Nam nước Ấn
Phật tử chùa Pháp Luân chụp chung tại Ellora hang động số 10 dưới chân tôn tượng Phật
Hai động Ajanta và Ellora ở tỉnh Maharashtra miền nam nước Ấn Độ là hai động thạch khắc nổi tiếng của thế giới. Đến thăm hai động thạch khắc này chúng ta phải đi bằng xe lửa từ Mumbai đến thành phố Aurangabad mất khoảng 4 cho đến 5 tiếng, đây là vùng mà ngày nay có nhiều trung tâm Phật giáo quan trọng và chung quanh có rất nhiều cộng đồng Phật tử người tỉnh Maharashtra họ nguyên là Ấn Giáo trở về với đạo Phật. Ellora cách Augangabad khoảng 30 cây số và Ajanta cách Aurangabad 108 cây số và hai thạch động này được tạc ở trong giòng lịch sử tương đối liên tục. Ajanta bắt đầu từ thế kỷ thứ Nhất trước Tây Lịch cho đến thế kỷ thứ Năm, rồi bị chìm vào quên lãng không biết vì lý do gì đó nó là một bí mật của lịch sử mà ngày nay chúng ta không biết được. Ellora được thực hiện từ thế kỷ thứ Năm cho đến thế kỷ thứ 12 và ở trong suốt thời gian mỗi một động thạch khắc như vậy mất khoảng 700 năm. Ellora thì nổi tiếng về cấu trúc đền miếu còn Ajanta thì nổi tiếng về tranh nhưng cả hai đều nổi tiếng về những công trình đục sâu vào trong đá. Nói về nghệ thuật điêu khắc hội hoạ thì hai động này được liệt vào những nghệ thuật rất cao của thế giới.
Tại Ellora trong hang động thứ 10 được tạc theo tu viện với nhiều phòng ốc. Theo mô hình tương tự mô hình xây dựng hang động số 19 và số 26 của Ajanta. Các cột hành lang có trục lớn vuông chạm khắc hoa văn. Hội trường chính ở gian giữa và lối đi hai bên có 28 cột hình bát giác . Trong phần cuối của hội trường là một bảo tháp trong đó có tạc một tôn tượng Phật ngồi khổng lồ với 3,30 mét chiều cao trong tư thế Ấn Giáo Hóa (vyakhyana Mudra.) Một cây Bồ Đề Lớn được chạm khắc ở mặt sau. Hội trường có một mái vòm. Không khí trong động mát mẻ mặc dù đang là mùa hè với khí hậu oi bức ở bên ngoài
Hang động số 16, còn được gọi là Kailasa hoặc Kailasanatha, là trung tâm nổi tiếng của Ellora. Đây là một thiết kế để nhắc nhở Mount Kailash, nơi ở của Chúa Shiva - tựa như đứng một mình, một ngôi đền phức tạp và đa tầng, nhưng nó đã được chạm khắc từ một tảng đá duy nhất.
Hang động số 15 được bắt đầu như là một tu viện Phật giáo. Có một cái sân với hành lang ở giữa và một ngôi đền hai tầng ở phía sau. Việc bố trí của ngôi đền liên quan chặc chẽ đến các hang động 11 và 12. Bức điêu khắc lớn nằm giữa các cột tường tầng trên minh họa một loạt các chủ đề, trong đó bao gồm 10 vị thần bảo hộ Vishnu. Một đồ hình điêu khắc của Dantidurga được tìm thấy trên mặt sau của bức tường hành lang trước. Dựa theo Coomaraswamy, hình ảnh nổi bậc nhất của hang động này là hình ảnh miêu tả cái chết của Hiranyakashipu, nơi mà Vishnu, vị thần bảo hộ trong hình dáng người sư tử (Narasimha), xuất hiện từ một trụ đá đặt một bàn tay tử vong lên vai của Hiranyakashipu
Ajanta thì nổi tiếng là vì ở đấy giữ lại rất nhiều những bức bích hoạ, mặc dầu có một số đã bị hỏng theo thời gian. Từ thế kỷ thứ 5 Tây Lịch thì người ta không còn nhắc tới Ajanta nữa, cho đến năm 1819 thì có một viên sĩ quan người Anh làm việc trong Madras Army tên là John Smith trong một chuyến đi săn cọp ông đã tình cờ khám phá ra lối vào hang động số 9 lúc đó nó được che phủ bởi cây cối và trong lúc đó thì ông đã viết tên của ông bằng viết chì lên hang động mà ngày nay chúng ta đến vẫn còn thấy nét mờ, cái ngày mà ông tìm ra nó là ngày 28 tháng Tư năm 1819. từ thế kỷ thứ 5 tức là 5 năm sau Tây Lịch cho đến năm 1819 kể ra là 1300 năm Ajanta bị chìm vào quên lãng, thế nhưng cây rừng, độ ẩm và sự quên lãng theo thời gian đã không xóa đi những gì mà chúng ta đặc biệt qúi giá cho đến ngày hôm nay. Ajanta trong thạch động số 1 hình của Đức Bồ Tát nhìn cuộc đời thì người ta nói rằng ánh mắt đầy bi mẫn của Ngài có thể cho chúng ta thấy rằng bức tranh đó là một bức tranh nghệ thuật đó là thời cực thịnh của Phật Giáo.
Ajanta trong thạch động số 1 hình của Đức Bồ Tát nhìn cuộc đời thì người ta nói rằng ánh mắt đầy bi mẫn của Ngài có thể cho chúng ta thấy rằng bức tranh đó là một bức tranh nghệ thuật đó là thời cực thịnh của Phật Giáo. Có những cảnh khắc từ cuộc đời của Đức Phật cũng như một số họa tiết trang trí. Một hai cột trụ, được nhìn thấy trong bức ảnh thế kỷ 19 đã bị hư hỏng. Hầu hết các khu vực của hàng hiên đã từng che phủ bằng tranh hoành tráng, trong đó rất nhiều mảnh vỡ còn lại. Có ba các cửa: một cửa trung tâm và hai bên các cửa. Hai cửa sổ vuông được chạm khắc giữa các cửa để làm sáng nội thất. Mỗi bức tường của phòng dài 40 feet (12 m) và 20 feet (6,1 m) cao. Mười hai trụ cột tạo ra một dãy cột vuông bên trong hỗ trợ cho trần nhà, và tạo ra lối đi rộng rãi. Có một ngôi đền được chạm khắc trên tường hình của Đức Bồ Tát nhìn cuộc đời thì người ta nói rằng ánh mắt đầy bi mẫn của Ngài, tay đang trong tư thế Chuyển Pháp Luân (Mudra dharmachakrapravartana.) Các bức tường được khắc những bức tranh điêu khắc rất công phu . Những cảnh được miêu tả chủ yếu là để học, thành tâm, và cảnh. Các chủ đề có từ những câu chuyện Bổn Sanh kinh (những câu chuyện của kiếp trước của Đức Phật như Bồ Tát Ðạo), cuộc đời của Đức Phật Gautama, và những người sùng kính của Ngài.
Hang thứ 2 có một hàng lang khác với hang số 1. Ngay cả những hình khắc trên mặt tiền dường như khác nhau. Các hang động được hỗ trợ bởi trụ cột mạnh mẽ, trang trí với thiết kế. Kích cỡ và kế hoạch mặt bằng có nhiều điểm chung với các hang động đầu tiên. Các bức tranh trên trần và tường của hang này đã được trải rộng. Mô tả những câu chuyện Bổn Sanh các câu chuyện của về cuộc đời của Đức Phật trong kiếp trước đây là Bồ Tát.
Tranh được tạc trên tất cả các hang động trừ dưới sàn. Tại nhiều nơi khác nhau các tác phẩm nghệ thuật đã bị xói mòn do ảnh hưởng của thời tiết và sự can thiệp của con người. Vì vậy, nhiều khu vực của các bức tường sơn, trần nhà, và trụ cột rời rạc. Các bức họa tường thuật những câu chuyện Bổn Sanh không chỉ được vẽ trên các bức tường, mà đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của các tín đồ học và truyền bá đến cộng đồng Phật tử về những lời dạy của Đức Phật. Ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc về một quần thể thạch khắc mà qua đó cho chúng ta biết rất nhiều về hội hoạ về điêu khắc và về cuộc sống của Tăng Già thời đó, nhìn những thạch động này thì chúng ta có thể suy diễn rằng đàn tín ủng hộ, nếu không có đàn tín ủng hộ thì những công trình như vậy không thực hiện được, nó cực thịnh là về phương diện văn học nghệ thuật và nhất là kinh Bổn Sanh những bức bích hoạ nói về đời sống các vị Bồ Tát được vẽ trên tường rất nhiều
|
|