LỚP PHẬT PHÁP - BUDDHADHAMMA |
TIN TỨC PHẬT GIÁO |
TRUYỆN NGẮN
Báo hiếu: trả nghĩa cha
Nguyễn Công Hoan
Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương.
Nhưng mưa, gió, rét, có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ôtô "Con cọp"? Bởi vì trong buồng khách, cửa đóng kín mít, hơi lửa lò sưởi xông lên nóng rực. Mà khách đến chơi, ông nào cũng gói mình vào đến trăm thứ áo, lại xù xù ở cổ một chiếc chăn con!
Khách đến dự tiệc toàn là hạng ông nọ ông kia, danh giá, mà ông chủ nói là chỗ thân. Cho nên cố mời cho kỳ được. Vì chính ông cũng là hạng tai mắt trong phố phường. Ông là nhà tư bản vậy!
Vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình, mời mọc cho thực đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn đã được khá, nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn - bởi đạo làm con là phải báo hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ cũng cười cho. Nghề thế, phú quý sinh lễ nghĩa.
Mà phú quý sinh lễ nghĩa thực. Chẳng tin cứ nhìn cách cử chỉ của hai ông bà chủ nhà ra đón tiếp khách thì đủ rõ. Hai ông bà cùng béo tốt, đẹp đẽ. Nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái hộp. Tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với bộ ria sửa khéo như vẽ. Miệng lúc nào cũng chực toé ra một chuỗi cười. Vì ngày hôm nay, bổn phận ông là phải hay cười. Mà đã cười thì cười cực to, ôm bụng mà cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến câu nói không buồn cười. Nghĩa là ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản. Phải, người ta đã chẳng quản mưa, gió, rét mướt, mà quá bộ đến nhà để chiếu cố thì mình phải lấy làm hân hạnh, vui vẻ mới được. Cho nên ai đến, ông cũng chắp tay vái chào cung kính, rồi mời mọc ân cần, quý quý, hóa hóa, ăn nói rõ ra một nhà nền nếp, gia giáo.
Trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải trên một tấm khăn trắng nuột. Cốc to, cốc nhỏ, chai lớn, chai con, bát sứ, đĩa tây, bày la liệt, nhưng có thứ tự, lóng lánh dưới ngọn đèn trăm nến.
Chuông sáu giờ vừa dứt. Khách đến đã đủ. Một tiếng ông chủ mời, thì một trăm bốn tư chiếc chân, vừa chân người vừa chân ghế, lê sền sệt trên nền gạch tây bóng lộn. Hai mươi bốn chiếc cốc đầy rượu đụng nhau, chủ khách bắt đầu cầm đũa.
Xin ngài cho phép chúng tôi vào vô phép bà chủ.
Câu nói vừa dứt, thì đã thấy bà chủ ở trong buồng đi ra, chắp tay, tươi như cái hoa:
- Các quan đã có lòng yêu chúng tôi, mà đến chiếu cố bữa cơm thường nhà chúng tôi, chúng tôi xin đa tạ. Xin rước các quan xơi rượu.
- Chúng tôi chẳng dám tin là bữa cơm thường!Kỵ cụ cố ông mà ông bà làm to thế này, thì chúng tôi tự xét mình lấy làm xấu hổ vì bất hiếu. Thôi nhờ bà nói giúp cho chúng tôi xin vô phép cụ cố bà.
- Thưa các quan, cảm ơn các quan, cụ bà chúngtôi ở trong nhà quê ạ. Nhiều lần chúng tôi mời ra ở đây, nhưng không chịu đi. Cho nên chúng tôi vẫn lấy làm ân hận lắm.
Cái lễ phép tắc trách đã làm xong, chủ khách ăn uống rất êm đềm vui vẻ. Êm đềm vui vẻ thực! Sung sướng thay! Củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng giọt mưa phùn. Chuyện nói to làm lấp các tiếng gió bấc thổi. Hơi rượu nồng nàn, ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.
* * *
Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương.
Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ. Bà dòm hết nhà nọ đến nhà kia, mà lại dòm một cách ngốc dại. Nghĩa là không nghĩ đến rằng lỡ người ta đuổi, hay mắng, cho là định rình ăn cắp, người ta bắt lên Cẩm thì sao? Dòm chán rồi lại hỏi thăm. Mà hỏi chỉ độc nói trống không. Khi chẳng ai hoài hơi mà trả lời, thì bà ta cũng không biết phàn nàn hoặc sửa lại câu hỏi cho nhã nhặn thêm chút ít. ấy thế rồi chịu đứng ngoài đường, như yên trí rằng ở đây cũng như ở nhà quê, không có xe pháo qua lại. Bà lại nhìn quanh quẩn từng nhà một...
Hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt. Rồi nhận thấy một cái nhà có cái mái chĩa ra, bà bèn đứng lại để trú mưa. Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi, trông rõ quê mùa, đần ngốc. Mặt mũi đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt thì toét nhoèn những dử. Cái hàm trên thì chìa ra như mái hiên. Hai tay thì lóng cóng, gí cái nút buộc giải yếm vào tận mắt, lúng túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào mồm, nhai phóm phém. Trông lại càng xấu. Cái áo vải nâu dầy cồm cộp, cái quần một ống - nói nôm ra, là cái váy - lùng thùng như cái bồ, chỗ thì ướt, chỗ thì khô. Có lẽ là bộ cánh quý nhất, nên ra tỉnh, mới dám mặc đến, nay bị ướt thì tiếc, nên cố vắt mãi cho khỏi đẫm nước mưa. Rồi lại cởi cái khăn vuông ra, để hở cái đầu bạc trọc tếch mà gãi, nhăn mặt lại mà gãi. Rồi lấy ngay cái khăn đội đầu ấy mà lau chỗ gấu váy có dính đất. Gớm, sao mà người đâu lại có người không biết thế nào là bẩn cả!
Rét đã run lên chẳng được, lại còn cứ lẩm bẩm nói một mình. Không biết nói những gì? Tính công tính việc hay là than thở, hay là vui thú cái chi chi? Nhưng thế thực rõ là cái lối người từ thuở bé chưa hề được thấy cái gì là hể hả.
Đương ngồi thì bỗng đằng sau lưng có tiếng cửa mở. Người đàn bà nhà quê quay lại, thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố nhố bao nhiêu người, hình như ăn uống. Chỉ trông thoáng có thế thì thấy cửa lại khép lại, và có người đi ra.
- Alê! Chạy! Chốc nữa hãy đến. Người ta vừa mới ăn!
Nói xong người ấy đi. Bà lão nhìn theo, không hiểu họ bảo ai. Nhưng chừng cũng đoán rằng người ấy là bồi biệc ở cái nhà này đây. Cho nên, một lát sau, trông thấy người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. Nhưng chưa nói được gì, đã bị mắng ngay câu nữa:
- Alê! Không đi đi thì ông ấy ra bây giờ!
- Đây có phải nhà ông chủ không?
- Ông chủ nào? Không biết! Alê! Đi!
Thế rồi cửa lại hé ra, rồi áp lại. Người ấy vào trong mất.
Bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính. Vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. Rồi không biết nghĩ sao, bà lấy tay sờ mãi vào cửa để mở. Nhưng không biết cách nào, bèn lay thình thình, như không sợ hãi gì cả.
Một người đứng hầu chạy ra mở cửa. Có lẽ là người ban nãy, cho nên thấy bà lão thì đẩy ra, và nói:
- Đi! Chốc nữa...! Dạ!
Cánh cửa lại đóng đánh thình. Bà lão nhìn theo, thì thấy người hầu ấy khoanh tay đứng nói gì với một người đương ngồi ăn. Mà chính vì đã trông thấy người ngồi ăn ấy, nên bà lão mới dám bạo dạn như thế. Người ngồi ăn ấy tức là ông chủ nhà, chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp".
Ông chủ đứng phắt dậy, phưỡn bụng đi ra mở cửa. Bà lão mừng rỡ, híp mắt, nhăn nhó cái mặt để cười và nói to tướng:
- Thành ra tôi ngồi ngay ở cửa nhà mà không biết!
Ông chủ nhà cau mặt, ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái. Rồi cánh cửa lại đóng ập lại.
Bà lão không hiểu ra sao. Hay là mình trông lầm chăng. ấy thế mà còn ngốc quá, bà cố cạy và đẩy mãi cửa. Nhưng may, không sao đẩy được. Nhìn theo vào, bà thấy cái nhà ông ấy đi tuột vào trong, mà khi ra ngồi vào bàn tiệc, thì lại cười nói như trước.
Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. Bà lão quay lại, thì người ấy nói:
- Tôi đưa bà cụ đi vào cổng đằng này, ông tôi bảo thế.
- Không đi được lối này à?
- Ông tôi đương có khách.Bà lão bước xuống thềm, đi theo. Vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi rộng. Cổng mở, bà bước vào, đi qua một cái sân, thì đến cái nhà con, trong có chiếc ôtô bóng nhoáng. Người ấy bảo:
- Bà cụ ngồi tạm đây.
Bà lão nhìn bốn bên. Đèn tuy sáng, nhưng cũng không hiểu mình ngồi tạm nhà ai. Mà nói rằng ngồi, chứ có cái gì để ngồi đâu. Vả muỗi và hôi thối quá. Nên chỉ mong chóng có người đưa về, để lễ và để nằm nghỉ. Vì đi xe ngót một giờ đồng hồ cũng mệt. Bà lão nóng ruột quá.
Nhưng may sao, một lát sau thấy có người đi đến. Bà lão nhờ nhắn ông chủ xuống cho mình hỏi.
Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên sân gạch. Bà lão cố nhìn xem ai. Mừng quá.
Thật đích là ông chủ. Ông chủ đứng trước mặt bà lão, nét mặt hầm hầm, trợn mắt, khoanh tay vào ngực mà gắt:
- Một suýt nữa thì làm tôi ê cả mặt! Ai bảo bà ra làm gì?
Bà lão chưa kịp trả lời cái câu hỏi không ngờ, thì đã bị mắng luôn mấy câu nữa:
- Tôi đã cấm bà không được ra đến đây kia mà. Đã một lần trước rồi, mà không chừa! Bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà cầm lấy! Bà về đi! Mặc kệ bà! Bà phải về ngay bây giờ! Mới có hơn bảy giờ, còn sớm!
Nói xong, ông ấn vào tay bà lão một cái tròn tròn, rồi quay gót trở lên, và gọi rầm rĩ:
- Thằng bếp đâu rồi! Mày đưa bà ấy ra! Mà mày phải bảo chúng nó rằng tao cấm, không đứa nào được kéo bà ấy cả! Cho mà đi bộ để bận sau mà chừa.
Bà ấy là ai? Bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoại ba mươi năm nay, có một đêm, bà ấy trót dại chiều chồng, mà tình cờ đẻ ra được một đứa con trai. Sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy goá bụa. Nhà nghèo, làm ăn vất vả, kiếm chẳng ăn đủ, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chồng để bước đi bước nữa mà vui thú với cái tuổi xuân đương hơ hớ. Qua mấy năm khó nhọc, khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. Rồi vì nghèo khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. Nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giầu. Từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. Nay giàu đến hàng mươi vạn. Thằng con ấy tức là ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp" vậy.
Bà lão lẩy bẩy, theo người bếp lôi ra cửa ban nãy. Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, thì không biết tâm trí để đâu, bà ta lập cập, vấp một cái, ngã xoài ngay ra rãnh cống. Quần áo mặt mũi lấm bê bết. Cái tròn tròn vẫn nắm trong tay bắn quăng đi. Bà lão cố sờ soạng. Khi tìm thấy, bèn gí vào mắt để xem, thì cái tròn tròn ấy là đồng hào ván...
Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đương khen là hiếu tử.
|
|
Bài học ngày 24 tháng 4, 2010
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tân Đ
TÂM ĐỘNG HAY PHƯỚNG ĐỘNG
"Trong giáo lý duyên khởi không thể qui vào một nguyên nhân cho tất cả vấn đề"
I.
Đại lược
I.I. Kiết Sử (S.iv,281)
1) Một thời, một số đông Tỷ-kheo trưởng lão trú ở Macchikasanda, tại rừng Ambàtaka.
2) Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà tròn, và giữa những vị này, câu chuyện sau đây được khởi lên:
-- Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ, hay đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ?
3) Ở đây, một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời:
-- Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ.
Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời:
-- Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; những pháp này là đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ.
4) Lúc bấy giờ, cư sĩ Citta đi đến Migapathaka để làm một số công việc phải làm.
5) Cư sĩ Citta được nghe có một số đông Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà tròn, và giữa những vị này, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ, hay đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ?" Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời: "Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; những pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ". Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời: "Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; những pháp này là đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ".
6) Rồi cư sĩ Citta đi đến các Tỷ-kheo trưởng lão ấy; sau khi đến, đảnh lễ các Tỷ-kheo trưởng lão rồi ngồi xuống một bên.
7) Ngồi một bên, cư sĩ Citta thưa với các Tỷ-kheo trưởng lão:
-- Bạch chư Thượng tọa, (chúng con) được nghe có một số đông Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà tròn, và giữa các vị này, khởi lên câu chuyện sau đây: "Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ, hay đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ". Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời: "Này chư Hiền, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; những pháp này đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ".
-- Có vậy, này Cư sĩ.
8) -- Bạch chư Thượng tọa, kiết sử hay các pháp bị kiết sử; các pháp này là khác nghĩa và cũng khác ngôn từ. Bạch chư Thượng tọa, con sẽ nói lên một ví dụ cho quý vị. Ở đây, một số người có trí, nhờ ví dụ hiểu được ý nghĩa lời nói.
9) Bạch chư Thượng tọa, ví như một con bò đực đen và con bò đực trắng được dính lại với nhau bởi một sợi dây hay một cái ách. Nếu có người nói: "Con bò đực đen là kiết sử cho con bò đực trắng, và con bò đực trắng là kiết sử cho con bò đực đen". Nói như vậy có phải là nói một cách chơn chánh không?
-- Thưa không, này Cư sĩ. Này Cư sĩ, con bò đực đen không phải là kiết sử của con bò đực trắng. Và con bò đực trắng cũng không phải là kiết sử của con bò đực đen. Do vì chúng bị dính bởi một sợi dây hay bởi một cái ách, ở đây chính cái ấy là kiết sử.
10) -- Cũng vậy, bạch chư Thượng tọa, con mắt không phải là trói buộc của các sắc; các sắc không phải là trói buộc của con mắt. Và ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc. Cái tai không phải là trói buộc của các tiếng... Mũi không phải là trói buộc của các hương... Lưỡi không phải là trói buộc của các vị... Thân không phải là trói buộc của các xúc... Ý không phải là trói buộc của các pháp. Các pháp cũng không phải là trói buộc của ý. Và ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc.
11) -- Lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ! Khéo lợi ích thay cho Ông, này Cư sĩ! Vì rằng tuệ nhãn của Ông tiếp tục (kamati) lời dạy thâm sâu của đức Phật.
Tương Ưng Bộ. HT Thích Minh Châu dịch
II. Thảo Luận
1. Có gì gọi là không thích đáng khi người cư sĩ giảng pháp cho chư tăng không?
2. Theo bài kinh nầy thì khi kiết sử sanh khởi lỗi thuộc về ai?
3. Hiểu được ý nghĩa bài kinh nầy có lợi ích gì cho người tu học?
4. Phải chăng người tu tập chỉ nên chú ý phần "tâm" chứ không cần quan tâm đến "cảnh"?
VI. Đố Vui
Từ vựng nào dưới dây không đồng nghĩa với những từ còn lại:
a. Kiết sử
b. Thằng thúc
c. Kiết phược
d. Phiền não
Được đăng bởi Pháp Luân vào lúc 07:24
|
Chùa Pháp Luân
13913 S. Post Oak Rd
Houston TX 77045
Phone: (713) 433-4364
Fax: (832) 550-2889
PHÁP THOẠI
Kinh Chuyển Pháp Luân
TT Giác Ðẳng giảng tại bảo tháp Chaukhandi, Sarnath trong chuyến hành huong Ấn Ðộ ngày 20 tháng 3 năm 2010
Đức Phật Ngài dạy về con đường trung đạo, con đường mà Đức Phật đã chứng ngộ con đường đem lại nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ Niết-Bàn. Đó là Bát Chánh Đạo và Tứ Diệu Đế.
Bát Chánh Đạo là con đường có 8 chi phần là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Phần tiếp theo Đức Phật Ngài giảng về Tứ Đế, đầu tiên Ngài giảng về bốn sự thật vi diệu và bốn sự thật quan trọng mà một vị giác ngộ thành tựu tuệ giác không thể không biết đến.
1) Diệu Đế thứ nhất. Là Khổ Diệu Đế tức là sự thật về đau khổ. Ngài dạy rằng tất cả chúng ta trong đời này dù là già hay trẻ, sang hay hèn, dù ở bất cứ giai cấp nào bất cứ cảnh giới nào, dù là tỳ kheo hay tỳ kheo ni thì chúng ta cũng bị sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ và thương phải xa là khổ, ghét phải gần là khổ, muốn không được là khổ, chấp thủ năm uẩn là khổ, ưu sầu não là khổ.
2) Diệu Đế thứ hai. Là Tập Khổ Đế. Nguyên nhân của sự đau khổ. Ngài dạy dựa trên hai sự thật nằm ở trong một nhân tố gọi là tanha hay là khát ái. Khát ái tức là cái mình muốn và không bao giờ thoả mãn. Ví như qúi vị khát nước mà qúi vị uống nước muối thì không bao giờ hết khát thì tâm của chúng ta luôn luôn mong muốn một cái gì đó cho dù chúng ta đã đạt đến nó rồi nhưng chúng ta cũng tìm cái khác nữa. Ví dụ như chúng ta từ Mỹ muốn sang bên đây nhưng mà đến đây rồi thì chúng ta lại nghĩ đến đề mục khác nữa. Hay là chúng ta nghĩ có cái gì đó thì mình vui nhưng mà rồi khi có nó thì chúng ta lại đi tìm một cái gì khác nữa. Thì đó gọi là tanha. Sự trầm kha của chúng ta là không bao giờ thoả mãn với cái mình đang có.
3) Diệu Đế thứ ba gọi là Diệt Khổ Đế. Là sự chấm dứt khổ đau tức là chân hạnh phúc. Thì Đức Phật Ngài định nghĩa hạnh phúc rất đơn giản không còn khổ đau nữa gọi là nirodha, không còn khổ đau nữa là hạnh phúc và muốn không còn khổ đau nữa thì Đức Phật Ngài dạy con đường đi đến sự diệt khổ là Bát Chánh Đạo.
4) Diệu Đế thứ tư là Đạo Đế. Tức là con đường đi đến sự diệt khổ là Bát Chánh Đạo gồm chánh kiến là cái nhìn của chúng ta được chân chánh, lời nói được chân chánh, rồi hành động được chân chánh, sự nuôi mạng được hiền thiện và ba chi sau là chánh tinh tấn, chánh định và chánh niệm.
Sau khi Đức Phật Ngài dạy về bốn Diệu Đế, Ngài nói đến Ba Luân Mười Hai Chuyển.
Ba luân ở đây tức là mỗi một Diệu Đế thì được nhìn trên ba khía cạnh.
Thí dụ như mình nói theo pháp học đây là Khổ,
rồi sự Khổ cần được biết,
và sự Khổ đã được biết.
Đó là phương diện pháp học và pháp hành.
Rồi đây là Tập Đế và Tập Đế cần được diệt và Tập Đế đã được diệt và Tập đế đã được biết.
Đây là Diệt Đế và Diệt Đế cần được chứng ngộ và Diệt Đế đã được chứng ngộ.
Đây là Đạo đế và Đạo Đế cần được tu tập và Đạo Đế đã được tu tập.
Tức là một người mà hiểu biết vấn đề và nhìn thấy ba luân tức là nhìn thấy thế nào là Khổ,
thế nào là Tập,
thế nào là Diệt,
thế nào là Đạo,
và sau đó thì chúng ta biết là nên làm gì với thứ đó.
Thì Khổ Đế là học để biết.
Tập Đế học để Diệt.
Và Diệt Đế học để chứng.
Đạo đế học tu tập và sau này để xác chứng
Và Khổ Đế ta được biết đã được diệt,
Diệt Đế đã được chứng
và Đạo Đế đã được tu tập.
Đức Phật Ngài Khẳng định một điều rằng nếu mà Ngài chưa có chứng ngộ Tứ Đế cho ba luân khai triển thì Ngài không có tuyên bố với thế giới này là Ngài đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng ta nói ngắn gọn bài kinh này là như vậy. Bài kinh này về sau Tôn Giả Xá Lợi Phất Ngài đã nhắc lại giáo lý Tứ Đế và Ngài nói rằng là "ở trong tất cả những dấu chân của con vật thì dấu chân con voi là dấu chân lớn và những dấu chân của những con vật khác đều có thể nằm lọt trong Tứ Diệu Đế." Ngài gọi là giáo lý Tứ Đế là giáo lý phẩm quan của Đạo Phật và tất cả giáo lý của Đạo Phật đều nằm trong giáo lý Tứ Đế.
Sau khi Đức Phật Ngài giảng về bài kinh Chuyển Pháp Luân này thì bằng tâm tư của Ngài người đệ tử đầu tiên ở trong giáo pháp tức là Kondanna tức là Ngài Kiều Trần Như đã chứng quả Nhập Lưu tức là niềm tin bất thối, lúc đó Ngài đã nói lên câu "Anna Kondanna, Anna Kondanna" tức là "Kiều Trần Như đã liễu ngộ", chữ liễu ngộ ở đây tức là thấy xuyên suốt, tức là thật sự thấy, thật sự biết, và cái biết cái thấy đó không thay đổi. Về sau chúng ta gọi là A Nhã Kiều Trần Như tức là Ngài Kiều Trần Như đã liễu ngộ.
Sau khi Đức Thế Tôn thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân thì Ngài đưa tay lên nói là "hãy đến đây 5 vị tỳ kheo" thì 5 vị tỳ kheo đầu tiên là các Ngài Kondanna, Ngài Mahanama, Ngài A Xà Chí, Ngài Bhadrica, Ngài Dasadaha-Casyaba đều là những vị thông tuệ và Đức Thế Tôn đã cho 5 vị đó trở thành 5 vị tỳ kheo trong giáo pháp, và chính tại nơi này ra đời của Tam Bảo trong giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ đó về sau chúng ta có câu "Tam Bảo Trụ Thế" tức là sự hoàn tất của Tam Bảo.
.
Thạch động Ajanta và Ellora ở miền Nam nước Ấn
Phật tử chùa Pháp Luân chụp chung tại Ellora hang động số 10 dưới chân tôn tượng Phật
Hai động Ajanta và Ellora ở tỉnh Maharashtra miền nam nước Ấn Độ là hai động thạch khắc nổi tiếng của thế giới. Đến thăm hai động thạch khắc này chúng ta phải đi bằng xe lửa từ Mumbai đến thành phố Aurangabad mất khoảng 4 cho đến 5 tiếng, đây là vùng mà ngày nay có nhiều trung tâm Phật giáo quan trọng và chung quanh có rất nhiều cộng đồng Phật tử người tỉnh Maharashtra họ nguyên là Ấn Giáo trở về với đạo Phật. Ellora cách Augangabad khoảng 30 cây số và Ajanta cách Aurangabad 108 cây số và hai thạch động này được tạc ở trong giòng lịch sử tương đối liên tục. Ajanta bắt đầu từ thế kỷ thứ Nhất trước Tây Lịch cho đến thế kỷ thứ Năm, rồi bị chìm vào quên lãng không biết vì lý do gì đó nó là một bí mật của lịch sử mà ngày nay chúng ta không biết được. Ellora được thực hiện từ thế kỷ thứ Năm cho đến thế kỷ thứ 12 và ở trong suốt thời gian mỗi một động thạch khắc như vậy mất khoảng 700 năm. Ellora thì nổi tiếng về cấu trúc đền miếu còn Ajanta thì nổi tiếng về tranh nhưng cả hai đều nổi tiếng về những công trình đục sâu vào trong đá. Nói về nghệ thuật điêu khắc hội hoạ thì hai động này được liệt vào những nghệ thuật rất cao của thế giới.
Tại Ellora trong hang động thứ 10 được tạc theo tu viện với nhiều phòng ốc. Theo mô hình tương tự mô hình xây dựng hang động số 19 và số 26 của Ajanta. Các cột hành lang có trục lớn vuông chạm khắc hoa văn. Hội trường chính ở gian giữa và lối đi hai bên có 28 cột hình bát giác . Trong phần cuối của hội trường là một bảo tháp trong đó có tạc một tôn tượng Phật ngồi khổng lồ với 3,30 mét chiều cao trong tư thế Ấn Giáo Hóa (vyakhyana Mudra.) Một cây Bồ Đề Lớn được chạm khắc ở mặt sau. Hội trường có một mái vòm. Không khí trong động mát mẻ mặc dù đang là mùa hè với khí hậu oi bức ở bên ngoài
Hang động số 16, còn được gọi là Kailasa hoặc Kailasanatha, là trung tâm nổi tiếng của Ellora. Đây là một thiết kế để nhắc nhở Mount Kailash, nơi ở của Chúa Shiva - tựa như đứng một mình, một ngôi đền phức tạp và đa tầng, nhưng nó đã được chạm khắc từ một tảng đá duy nhất.
Hang động số 15 được bắt đầu như là một tu viện Phật giáo. Có một cái sân với hành lang ở giữa và một ngôi đền hai tầng ở phía sau. Việc bố trí của ngôi đền liên quan chặc chẽ đến các hang động 11 và 12. Bức điêu khắc lớn nằm giữa các cột tường tầng trên minh họa một loạt các chủ đề, trong đó bao gồm 10 vị thần bảo hộ Vishnu. Một đồ hình điêu khắc của Dantidurga được tìm thấy trên mặt sau của bức tường hành lang trước. Dựa theo Coomaraswamy, hình ảnh nổi bậc nhất của hang động này là hình ảnh miêu tả cái chết của Hiranyakashipu, nơi mà Vishnu, vị thần bảo hộ trong hình dáng người sư tử (Narasimha), xuất hiện từ một trụ đá đặt một bàn tay tử vong lên vai của Hiranyakashipu
Ajanta thì nổi tiếng là vì ở đấy giữ lại rất nhiều những bức bích hoạ, mặc dầu có một số đã bị hỏng theo thời gian. Từ thế kỷ thứ 5 Tây Lịch thì người ta không còn nhắc tới Ajanta nữa, cho đến năm 1819 thì có một viên sĩ quan người Anh làm việc trong Madras Army tên là John Smith trong một chuyến đi săn cọp ông đã tình cờ khám phá ra lối vào hang động số 9 lúc đó nó được che phủ bởi cây cối và trong lúc đó thì ông đã viết tên của ông bằng viết chì lên hang động mà ngày nay chúng ta đến vẫn còn thấy nét mờ, cái ngày mà ông tìm ra nó là ngày 28 tháng Tư năm 1819. từ thế kỷ thứ 5 tức là 5 năm sau Tây Lịch cho đến năm 1819 kể ra là 1300 năm Ajanta bị chìm vào quên lãng, thế nhưng cây rừng, độ ẩm và sự quên lãng theo thời gian đã không xóa đi những gì mà chúng ta đặc biệt qúi giá cho đến ngày hôm nay. Ajanta trong thạch động số 1 hình của Đức Bồ Tát nhìn cuộc đời thì người ta nói rằng ánh mắt đầy bi mẫn của Ngài có thể cho chúng ta thấy rằng bức tranh đó là một bức tranh nghệ thuật đó là thời cực thịnh của Phật Giáo.
Ajanta trong thạch động số 1 hình của Đức Bồ Tát nhìn cuộc đời thì người ta nói rằng ánh mắt đầy bi mẫn của Ngài có thể cho chúng ta thấy rằng bức tranh đó là một bức tranh nghệ thuật đó là thời cực thịnh của Phật Giáo. Có những cảnh khắc từ cuộc đời của Đức Phật cũng như một số họa tiết trang trí. Một hai cột trụ, được nhìn thấy trong bức ảnh thế kỷ 19 đã bị hư hỏng. Hầu hết các khu vực của hàng hiên đã từng che phủ bằng tranh hoành tráng, trong đó rất nhiều mảnh vỡ còn lại. Có ba các cửa: một cửa trung tâm và hai bên các cửa. Hai cửa sổ vuông được chạm khắc giữa các cửa để làm sáng nội thất. Mỗi bức tường của phòng dài 40 feet (12 m) và 20 feet (6,1 m) cao. Mười hai trụ cột tạo ra một dãy cột vuông bên trong hỗ trợ cho trần nhà, và tạo ra lối đi rộng rãi. Có một ngôi đền được chạm khắc trên tường hình của Đức Bồ Tát nhìn cuộc đời thì người ta nói rằng ánh mắt đầy bi mẫn của Ngài, tay đang trong tư thế Chuyển Pháp Luân (Mudra dharmachakrapravartana.) Các bức tường được khắc những bức tranh điêu khắc rất công phu . Những cảnh được miêu tả chủ yếu là để học, thành tâm, và cảnh. Các chủ đề có từ những câu chuyện Bổn Sanh kinh (những câu chuyện của kiếp trước của Đức Phật như Bồ Tát Ðạo), cuộc đời của Đức Phật Gautama, và những người sùng kính của Ngài.
Hang thứ 2 có một hàng lang khác với hang số 1. Ngay cả những hình khắc trên mặt tiền dường như khác nhau. Các hang động được hỗ trợ bởi trụ cột mạnh mẽ, trang trí với thiết kế. Kích cỡ và kế hoạch mặt bằng có nhiều điểm chung với các hang động đầu tiên. Các bức tranh trên trần và tường của hang này đã được trải rộng. Mô tả những câu chuyện Bổn Sanh các câu chuyện của về cuộc đời của Đức Phật trong kiếp trước đây là Bồ Tát.
Tranh được tạc trên tất cả các hang động trừ dưới sàn. Tại nhiều nơi khác nhau các tác phẩm nghệ thuật đã bị xói mòn do ảnh hưởng của thời tiết và sự can thiệp của con người. Vì vậy, nhiều khu vực của các bức tường sơn, trần nhà, và trụ cột rời rạc. Các bức họa tường thuật những câu chuyện Bổn Sanh không chỉ được vẽ trên các bức tường, mà đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của các tín đồ học và truyền bá đến cộng đồng Phật tử về những lời dạy của Đức Phật. Ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc về một quần thể thạch khắc mà qua đó cho chúng ta biết rất nhiều về hội hoạ về điêu khắc và về cuộc sống của Tăng Già thời đó, nhìn những thạch động này thì chúng ta có thể suy diễn rằng đàn tín ủng hộ, nếu không có đàn tín ủng hộ thì những công trình như vậy không thực hiện được, nó cực thịnh là về phương diện văn học nghệ thuật và nhất là kinh Bổn Sanh những bức bích hoạ nói về đời sống các vị Bồ Tát được vẽ trên tường rất nhiều
Trong nước Indonesia có rất nhiều tôn giáo khác nhau được người ta theo
By NORIMITSU ONISHI Published: February 17, 2010
Hai vị tăng sĩ Phật giáo đang quan sát ngôi đền Ấn Độ giáo đã được khai quật tại Đại học Hồi giáo của Indonesia ở Yogyakarta
YOGYAKARTA, Indonesia. Như một sự gợi ý, hai tăng sĩ Phật giáo trong chiếc áo casa màu vàng nghệ đã xuất hiện trong một buổi chiều cuối năm 2009, tưởng chừng như không có nơi nào khác hơn, để hoàn thành bức tranh tôn giáo của Nam Dương trong quá khứ và hiện tại.
Các du khách đứng ở bờ rìa của một hàng rào lớn cuối cái hồ , nơi có một đền thờ Ấn Độ giáo (Hindu) của thế kỷ thứ 9 đã được khai quật gần đây ở trong khuôn viên của Đại học Hồi giáo của Nam Dương (Indonesia.) Ở phía bên kia của cái hồ, nơi mái vòm rộng lớn của một nhà thờ Hồi giáo hiện lên bối cảnh này, các giáo sĩ hồi giáo sẽ sớm triệu tập những tín đồ để cầu nguyện cho buổi hoàng hôn.
Việc phát hiện ra các ngôi đền Ấn Độ giáo gần như nguyên vẹn là một lời nhắc nhở của quỹ đạo tôn giáo lâu dài của đất nước mà bây giờ dân số Hồi Giáo đã là lớn nhất thế giới. Là một nơi nằm trên trái đất mà có ba tôn giáo lớn tựu chung với nhau ở cường độ lớn như vậy trên đảo Java của Nam Dương. Nếu đền thờ Hồi Giáo của vương quốc Yogyakarta nằm ở trung tâm của thành phố, thì trung tâm quyền lực tinh thần của đảo Java có di tích Phật giáo lớn nhất thế giới đó là ngôi đền Borobudur, và một trong những ngôi đền Ấn Độ giáolớn nhất là Prambanan, thì ở ngoại ô.
Khoảng 90 phần trăm người dân Nam Dương theo Hồi giáo, và chỉ phần nhỏ còn lại là theo Phật giáo và Ấn Độ giáo. Tuy nhiên Ấn Độ giáo và Phật giáo, đã trong một thời gian dài chiếm ưu thế ở đảo Java , đã thấm qua xã hội và đóng góp vào hình thức Hồi giáo chung dung ở Nam Dương
Trong hơn một thập niên qua, những người ủng hộ của một phiên bản khác của Hồi giáo chính thống đã lấn chiếm Nam Dương. Nhiều phụ nữ mang khăn che mặt và nhiều người Nam Dương đã theo cách nghi lễ tôn giáo Ả Rập trong khi những người thủ cựu đòi hỏi phải loại bỏ những giá trị và nghi lễ khác với Hồi giáo. Tuy nhiên, truyền thống Hồi giáo Nam Dương thì quy định ngược lại.
" Ông Suwarsono Muhammad, một viên chức tại Đại học Hồi giáo nói rằng: Đây là xứ sở Nam Dương. Trong lịch sử lâu dài của Nam Dương, chúng tôi đã chứng minh rằng các tôn giáo khác nhau có thể sống một cách hòa bình."
Trong tinh thần đó, ông Muhammad cho biết, trường đại học có kế hoạch để giới thiệu ngôi đền Ấn Giáo đáng chú ý ở phía trước, một thư viện sẽ được xây xung quanh nó, trong hình dạng của một nửa vòng tròn.
Tất cả bắt đầu hồi cuối tháng tám vừa qua khi trường đại học tư nhân quyết định xây dựng thư viện ", biểu tượng của kiến thức về tôn giáo của chúng tôi," bên cạnh những nhà thờ Hồi giáo, ông Muhammad nói. Trong hai thập niên qua trường đại học đã chiếm chọn 79-acre ở bên ngoài khuôn viên trường Yogyakarta, do vậy ngôi đền đã không bao giờ được tìm thấy. Tuy nhiên, cơ hội đã cao mà họ đã có được xung quanh. Hầu hết các làng gần đó mang cùng một tên tự trong tên làng: Candi, có nghĩa là ngôi đền.
Vào ngày 11 tháng 12, một nhóm thợ đã đào sới sâu 7 feet đất. Nhưng đất đã không ổn định, và nhóm đã quyết định phải đào sâu hơn 20 inch. Sau đó một xe xúc đất đã đánh trúng một cái gì đó cứng bất thường.
Cái đánh trúng của xe xúc đất lên phía trái của bức tường ngôi đền đã để lại dấu tích trên tường của ngôi đền, các chuyên gia nói rằng tốt nhất là bảo tồn di tích cổ được tìm thấy trong Java.
Các nhà nghiên cứu khảo cổ của chính phủ tại Yogyakarta vào khuôn viên trường ngày hôm sau, đã cho khai quật tiếp tục trong 35 ngày, cuối cùng đã khai quật hai ngôi đền nhỏ có số tuổi là 1,100 năm. Trong đền thờ chính, kích thước là 20 feet x 20 feet, tìm thấy một bức tượng của vị thần Ganesha còn nguyên, vị thần đầu voi, ngồi cạnh một biểu tượng Linga, là một biểu tượng của thờ thần Ấn Độ Giáo Shiva, và một biểu tượng yoni, là biểu tượng của nữ thần thờ phượng cho các Shakti.
Trong đền kế bên, kích thước khoảng 20 feet x 13 feet, các nhà nghiên cứu khai quật được một Linga và yoni, cũng như hai bàn thờ và một bức tượng của Nandi, là tượng con bò thiêng liêng của Ấn Độ Giáo Shiva.
Những ngôi đền không quá lớn, nhưng chúng có các tính năng mà chúng tôi đã không tìm thấy ở Nam Dương trước kia," Herni Pramastuti, người điều hành của Văn phòng khảo cổ, cho biết, và chỉ vào ngôi đền hình chữ nhật, cho thấy sự tồn tại của hai biểu tượng Linga và yoni, và sự hiện diện của hai bàn thờ.
Các nhà nghiên cứu phỏng đoán rằng ngôi đền được bảo quản trong điều kiện nguyên sơ, vì chúng đã bị chôn vùi trong một lần núi lửa phun trào vào một thế kỷ sau khi ngôi đền được xây dựng. Các dung nham từ núi Merapi, khoảng 7,5 dặm về phía bắc, được biết là đã lấp đầy một con sông gần đó trước khi chảy qua các ngôi đền, đã giảm thiểu sự thiệt hại.
Indung Panca Putra, một nhà nghiên cứu tại Văn phòng khảo cổ, cho biết, "bức tường ngôi đền và pho tượng chứa đựng các chi tiết tinh tế không tìm thấy trong nhiều ngôi đền nhỏ của Ấn Độ giáo và Phật giáo phát hiện tại khu vực này.
Chính phủ đã dời vật có giá trị nhất, đó là bức tượng của Ganesha, về Văn phòng khảo cổ. Để bảo vệ chống lại kẻ trộm, công nhân đã làm một hàng rào trong khuôn viên trường, có các vệ sĩ canh gác bên trong.
Hai vi tu sĩ Phật giáo, dù không có phận sự gì bên trong ngôi đền. Họ đã đi du lịch từ tu viện của họ, khoảng một giờ đi bằng xe hơi, để đến thăm.
"Đây là những tổ tiên của chúng tôi, vì vậy chúng tôi có một cảm giác thân thuộc", vị tu sĩ Dhammiko nói.
Các sử gia tin rằng Ấn Độ giáo lan rộng trong đảo Java vào thế kỷ thứ năm, tiếp theo là Phật giáo vào ba thế kỷ sau đó. Vương quốc chia ra sự nở rộ cho cả Ấn Độ giáo và Phật giáo trong đảo Java trước khi bị lu mờ bởi Hồi giáo trong thế kỷ 15.
Nhưng Hồi giáo tự kết hợp chặc chẽ niềm tin và nghi lễ từ hai tôn giáo kia. Cũng như một số khai quật ngôi đền ở phía Đông Java có một phân nửa là của đạo Hindu và một nửa của Phật giáo, một số ngôi đền với mái đền có hình dạng mái của đền thờ Ấn Độ giáo, ông Timbul Haryono là vị giáo sư khảo cổ học tại Đại học Gadjah Mada và cũng là một chuyên gia về Ấn Độ giáo ở Đông Nam Á đã nói như vậy. Mặt tiền của nhà thờ Hồi giáo không phải đối mặt về hướng Mecca là thành phố thánh địa của Hồi Giáo, nhưng phía tây hoặc phía đông thì kiến trúc theo cách của đền thờ đạo Hindu (Ấn Độ Giáo).
"Sự việc đã không có sư đổi thay tất cả một cách đột ngột", ông Haryono nói. "Hồi giáo đã được thông qua một quá trình của sự tiếp nhận và biến đổi văn hóa."
Ông nói tiếp "Trong nghệ thuật của Indonesia, trong việc giữ Ấn Độ giáo và Phật Giáo Truyền Thống, giống như nghệ thuật bóng rối cái mà kịch hóa Ấn Độ Giáo có tính chất sử thi, hoặc trong cuộc sống riêng tư của người dân, những dấu vết của các tôn giáo tồn tại trước đó, ông nói. Như trong thực phẩm, hoa và hương vẫn còn đi kèm trong nhiều đám tang của người Hồi giáo."
"Ấn Độ giáo là tôn giáo chính của Indonesia trong 1,000 năm," ông nói, "do đó ảnh hưởng của nó vẫn còn mạnh."
|
|