LỚP PHẬT PHÁP - BUDDHADHAMMA |
TIN TỨC PHẬT GIÁO |
TRUYỆN NGẮN
Báo hiếu: trả nghĩa cha
Nguyễn Công Hoan
Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương.
Nhưng mưa, gió, rét, có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ôtô "Con cọp"? Bởi vì trong buồng khách, cửa đóng kín mít, hơi lửa lò sưởi xông lên nóng rực. Mà khách đến chơi, ông nào cũng gói mình vào đến trăm thứ áo, lại xù xù ở cổ một chiếc chăn con!
Khách đến dự tiệc toàn là hạng ông nọ ông kia, danh giá, mà ông chủ nói là chỗ thân. Cho nên cố mời cho kỳ được. Vì chính ông cũng là hạng tai mắt trong phố phường. Ông là nhà tư bản vậy!
Vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình, mời mọc cho thực đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn đã được khá, nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn - bởi đạo làm con là phải báo hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ cũng cười cho. Nghề thế, phú quý sinh lễ nghĩa.
Mà phú quý sinh lễ nghĩa thực. Chẳng tin cứ nhìn cách cử chỉ của hai ông bà chủ nhà ra đón tiếp khách thì đủ rõ. Hai ông bà cùng béo tốt, đẹp đẽ. Nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái hộp. Tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với bộ ria sửa khéo như vẽ. Miệng lúc nào cũng chực toé ra một chuỗi cười. Vì ngày hôm nay, bổn phận ông là phải hay cười. Mà đã cười thì cười cực to, ôm bụng mà cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến câu nói không buồn cười. Nghĩa là ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản. Phải, người ta đã chẳng quản mưa, gió, rét mướt, mà quá bộ đến nhà để chiếu cố thì mình phải lấy làm hân hạnh, vui vẻ mới được. Cho nên ai đến, ông cũng chắp tay vái chào cung kính, rồi mời mọc ân cần, quý quý, hóa hóa, ăn nói rõ ra một nhà nền nếp, gia giáo.
Trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải trên một tấm khăn trắng nuột. Cốc to, cốc nhỏ, chai lớn, chai con, bát sứ, đĩa tây, bày la liệt, nhưng có thứ tự, lóng lánh dưới ngọn đèn trăm nến.
Chuông sáu giờ vừa dứt. Khách đến đã đủ. Một tiếng ông chủ mời, thì một trăm bốn tư chiếc chân, vừa chân người vừa chân ghế, lê sền sệt trên nền gạch tây bóng lộn. Hai mươi bốn chiếc cốc đầy rượu đụng nhau, chủ khách bắt đầu cầm đũa.
Xin ngài cho phép chúng tôi vào vô phép bà chủ.
Câu nói vừa dứt, thì đã thấy bà chủ ở trong buồng đi ra, chắp tay, tươi như cái hoa:
- Các quan đã có lòng yêu chúng tôi, mà đến chiếu cố bữa cơm thường nhà chúng tôi, chúng tôi xin đa tạ. Xin rước các quan xơi rượu.
- Chúng tôi chẳng dám tin là bữa cơm thường!Kỵ cụ cố ông mà ông bà làm to thế này, thì chúng tôi tự xét mình lấy làm xấu hổ vì bất hiếu. Thôi nhờ bà nói giúp cho chúng tôi xin vô phép cụ cố bà.
- Thưa các quan, cảm ơn các quan, cụ bà chúngtôi ở trong nhà quê ạ. Nhiều lần chúng tôi mời ra ở đây, nhưng không chịu đi. Cho nên chúng tôi vẫn lấy làm ân hận lắm.
Cái lễ phép tắc trách đã làm xong, chủ khách ăn uống rất êm đềm vui vẻ. Êm đềm vui vẻ thực! Sung sướng thay! Củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng giọt mưa phùn. Chuyện nói to làm lấp các tiếng gió bấc thổi. Hơi rượu nồng nàn, ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.
* * *
Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương.
Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ. Bà dòm hết nhà nọ đến nhà kia, mà lại dòm một cách ngốc dại. Nghĩa là không nghĩ đến rằng lỡ người ta đuổi, hay mắng, cho là định rình ăn cắp, người ta bắt lên Cẩm thì sao? Dòm chán rồi lại hỏi thăm. Mà hỏi chỉ độc nói trống không. Khi chẳng ai hoài hơi mà trả lời, thì bà ta cũng không biết phàn nàn hoặc sửa lại câu hỏi cho nhã nhặn thêm chút ít. ấy thế rồi chịu đứng ngoài đường, như yên trí rằng ở đây cũng như ở nhà quê, không có xe pháo qua lại. Bà lại nhìn quanh quẩn từng nhà một...
Hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt. Rồi nhận thấy một cái nhà có cái mái chĩa ra, bà bèn đứng lại để trú mưa. Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi, trông rõ quê mùa, đần ngốc. Mặt mũi đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt thì toét nhoèn những dử. Cái hàm trên thì chìa ra như mái hiên. Hai tay thì lóng cóng, gí cái nút buộc giải yếm vào tận mắt, lúng túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào mồm, nhai phóm phém. Trông lại càng xấu. Cái áo vải nâu dầy cồm cộp, cái quần một ống - nói nôm ra, là cái váy - lùng thùng như cái bồ, chỗ thì ướt, chỗ thì khô. Có lẽ là bộ cánh quý nhất, nên ra tỉnh, mới dám mặc đến, nay bị ướt thì tiếc, nên cố vắt mãi cho khỏi đẫm nước mưa. Rồi lại cởi cái khăn vuông ra, để hở cái đầu bạc trọc tếch mà gãi, nhăn mặt lại mà gãi. Rồi lấy ngay cái khăn đội đầu ấy mà lau chỗ gấu váy có dính đất. Gớm, sao mà người đâu lại có người không biết thế nào là bẩn cả!
Rét đã run lên chẳng được, lại còn cứ lẩm bẩm nói một mình. Không biết nói những gì? Tính công tính việc hay là than thở, hay là vui thú cái chi chi? Nhưng thế thực rõ là cái lối người từ thuở bé chưa hề được thấy cái gì là hể hả.
Đương ngồi thì bỗng đằng sau lưng có tiếng cửa mở. Người đàn bà nhà quê quay lại, thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố nhố bao nhiêu người, hình như ăn uống. Chỉ trông thoáng có thế thì thấy cửa lại khép lại, và có người đi ra.
- Alê! Chạy! Chốc nữa hãy đến. Người ta vừa mới ăn!
Nói xong người ấy đi. Bà lão nhìn theo, không hiểu họ bảo ai. Nhưng chừng cũng đoán rằng người ấy là bồi biệc ở cái nhà này đây. Cho nên, một lát sau, trông thấy người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. Nhưng chưa nói được gì, đã bị mắng ngay câu nữa:
- Alê! Không đi đi thì ông ấy ra bây giờ!
- Đây có phải nhà ông chủ không?
- Ông chủ nào? Không biết! Alê! Đi!
Thế rồi cửa lại hé ra, rồi áp lại. Người ấy vào trong mất.
Bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính. Vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. Rồi không biết nghĩ sao, bà lấy tay sờ mãi vào cửa để mở. Nhưng không biết cách nào, bèn lay thình thình, như không sợ hãi gì cả.
Một người đứng hầu chạy ra mở cửa. Có lẽ là người ban nãy, cho nên thấy bà lão thì đẩy ra, và nói:
- Đi! Chốc nữa...! Dạ!
Cánh cửa lại đóng đánh thình. Bà lão nhìn theo, thì thấy người hầu ấy khoanh tay đứng nói gì với một người đương ngồi ăn. Mà chính vì đã trông thấy người ngồi ăn ấy, nên bà lão mới dám bạo dạn như thế. Người ngồi ăn ấy tức là ông chủ nhà, chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp".
Ông chủ đứng phắt dậy, phưỡn bụng đi ra mở cửa. Bà lão mừng rỡ, híp mắt, nhăn nhó cái mặt để cười và nói to tướng:
- Thành ra tôi ngồi ngay ở cửa nhà mà không biết!
Ông chủ nhà cau mặt, ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái. Rồi cánh cửa lại đóng ập lại.
Bà lão không hiểu ra sao. Hay là mình trông lầm chăng. ấy thế mà còn ngốc quá, bà cố cạy và đẩy mãi cửa. Nhưng may, không sao đẩy được. Nhìn theo vào, bà thấy cái nhà ông ấy đi tuột vào trong, mà khi ra ngồi vào bàn tiệc, thì lại cười nói như trước.
Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. Bà lão quay lại, thì người ấy nói:
- Tôi đưa bà cụ đi vào cổng đằng này, ông tôi bảo thế.
- Không đi được lối này à?
- Ông tôi đương có khách.Bà lão bước xuống thềm, đi theo. Vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi rộng. Cổng mở, bà bước vào, đi qua một cái sân, thì đến cái nhà con, trong có chiếc ôtô bóng nhoáng. Người ấy bảo:
- Bà cụ ngồi tạm đây.
Bà lão nhìn bốn bên. Đèn tuy sáng, nhưng cũng không hiểu mình ngồi tạm nhà ai. Mà nói rằng ngồi, chứ có cái gì để ngồi đâu. Vả muỗi và hôi thối quá. Nên chỉ mong chóng có người đưa về, để lễ và để nằm nghỉ. Vì đi xe ngót một giờ đồng hồ cũng mệt. Bà lão nóng ruột quá.
Nhưng may sao, một lát sau thấy có người đi đến. Bà lão nhờ nhắn ông chủ xuống cho mình hỏi.
Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên sân gạch. Bà lão cố nhìn xem ai. Mừng quá.
Thật đích là ông chủ. Ông chủ đứng trước mặt bà lão, nét mặt hầm hầm, trợn mắt, khoanh tay vào ngực mà gắt:
- Một suýt nữa thì làm tôi ê cả mặt! Ai bảo bà ra làm gì?
Bà lão chưa kịp trả lời cái câu hỏi không ngờ, thì đã bị mắng luôn mấy câu nữa:
- Tôi đã cấm bà không được ra đến đây kia mà. Đã một lần trước rồi, mà không chừa! Bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà cầm lấy! Bà về đi! Mặc kệ bà! Bà phải về ngay bây giờ! Mới có hơn bảy giờ, còn sớm!
Nói xong, ông ấn vào tay bà lão một cái tròn tròn, rồi quay gót trở lên, và gọi rầm rĩ:
- Thằng bếp đâu rồi! Mày đưa bà ấy ra! Mà mày phải bảo chúng nó rằng tao cấm, không đứa nào được kéo bà ấy cả! Cho mà đi bộ để bận sau mà chừa.
Bà ấy là ai? Bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoại ba mươi năm nay, có một đêm, bà ấy trót dại chiều chồng, mà tình cờ đẻ ra được một đứa con trai. Sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy goá bụa. Nhà nghèo, làm ăn vất vả, kiếm chẳng ăn đủ, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chồng để bước đi bước nữa mà vui thú với cái tuổi xuân đương hơ hớ. Qua mấy năm khó nhọc, khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. Rồi vì nghèo khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. Nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giầu. Từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. Nay giàu đến hàng mươi vạn. Thằng con ấy tức là ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp" vậy.
Bà lão lẩy bẩy, theo người bếp lôi ra cửa ban nãy. Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, thì không biết tâm trí để đâu, bà ta lập cập, vấp một cái, ngã xoài ngay ra rãnh cống. Quần áo mặt mũi lấm bê bết. Cái tròn tròn vẫn nắm trong tay bắn quăng đi. Bà lão cố sờ soạng. Khi tìm thấy, bèn gí vào mắt để xem, thì cái tròn tròn ấy là đồng hào ván...
Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đương khen là hiếu tử.
|
|
Bài học ngày 15 tháng 4, 2010
Giảng sư: TT Giác Đẳng
HAI HẠNG NGƯỜI KHÓ TÌM KHÁC
"Không bao giờ thỏa mãn, theo Phật Pháp, là căn bệnh trầm kha nhất của tất cả chúng sanh"
I.
Đại lược
3. Có hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai? Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, khó tìm được ở đời.
TĂNG CHI BỘ. HT Thích Minh Châu dịch
II. Thảo Luận
1. Trong kinh Ratthapala sutta (M ii) có nói về "thế gian vốn khiếm khuyết nô lệ cho khát ái", phải chăng đó là lý do chủ quan khiến chúng sanh đau khổ?
2. Chữ " thỏa mãn" ở đây có đồng nghĩa với chữ "tri túc" không?
3. Tại sao sự "dị dưỡng" (dễ nuôi) là một trong những sự thực hành quan trọng của đời sống xuất gia?
4. Làm sao để trở thành người không đòi hỏi nhiều?
VI. Đố Vui
Có nhiều người nói rằng "nếu tôi được chừng đó tôi sẽ không đòi hỏi gì hơn". Theo cái nhìn Phật học thì người đó:
a. Không thật sự hiểu rõ về bản chất của chúng sanh là rất khó thỏa mãn.
b. Giả dối
c. Không cẩn trọng trong lời nói.
d. Câu a và b
Được đăng bởi Pháp Luân vào lúc 02:23
|
Chùa Pháp Luân
13913 S. Post Oak Rd
Houston TX 77045
Phone: (713) 433-4364
Fax: (832) 550-2889
TÓM
LƯỢC
Trong nước Indonesia có rất nhiều tôn giáo khác nhau được người ta theo YOGYAKARTA, Indonesia. Như một sự gợi ý, hai tăng sĩ Phật giáo trong chiếc áo casa màu vàng nghệ đã xuất hiện trong một buổi chiều cuối năm 2009, tưởng chừng như không có nơi nào khác hơn, để hoàn thành bức tranh tôn giáo của Nam Dương trong quá khứ và hiện tại.
.
Loài hoa Uu Ðàm hiếm qúi của Phật Giáo ít khi được thấy, là loài hoa nở mỗi 3,000 năm một lần, đã được tìm thấy dưới máy giặt tại núi Lushan thuộc tỉnh Giang Tây của Trung Quốc. .
Văn Hóa Phật giáo Sikkim phong phú thu hút khách du lịchGangtok,
Sikkim (Ấn Độ) - Tiểu bang Sikkim nằm ở giữa vùng núi Himalaya là một
thiên đường cho khách du lịch. Ngày nay chính phủ tiểu bang đã cố gắng
tu sửa nhiều khu vực Phật giáo và khuyến khích các lễ hội tại những nơi
du khách thường xuyên thăm viếng.
Trong nước Indonesia có rất nhiều tôn giáo khác nhau được người ta theo
By NORIMITSU ONISHI Published: February 17, 2010
Hai vị tăng sĩ Phật giáo đang quan sát ngôi đền Ấn Độ giáo đã được khai quật tại Đại học Hồi giáo của Indonesia ở Yogyakarta
YOGYAKARTA, Indonesia. Như một sự gợi ý, hai tăng sĩ Phật giáo trong chiếc áo casa màu vàng nghệ đã xuất hiện trong một buổi chiều cuối năm 2009, tưởng chừng như không có nơi nào khác hơn, để hoàn thành bức tranh tôn giáo của Nam Dương trong quá khứ và hiện tại.
Các du khách đứng ở bờ rìa của một hàng rào lớn cuối cái hồ , nơi có một đền thờ Ấn Độ giáo (Hindu) của thế kỷ thứ 9 đã được khai quật gần đây ở trong khuôn viên của Đại học Hồi giáo của Nam Dương (Indonesia.) Ở phía bên kia của cái hồ, nơi mái vòm rộng lớn của một nhà thờ Hồi giáo hiện lên bối cảnh này, các giáo sĩ hồi giáo sẽ sớm triệu tập những tín đồ để cầu nguyện cho buổi hoàng hôn.
Việc phát hiện ra các ngôi đền Ấn Độ giáo gần như nguyên vẹn là một lời nhắc nhở của quỹ đạo tôn giáo lâu dài của đất nước mà bây giờ dân số Hồi Giáo đã là lớn nhất thế giới. Là một nơi nằm trên trái đất mà có ba tôn giáo lớn tựu chung với nhau ở cường độ lớn như vậy trên đảo Java của Nam Dương. Nếu đền thờ Hồi Giáo của vương quốc Yogyakarta nằm ở trung tâm của thành phố, thì trung tâm quyền lực tinh thần của đảo Java có di tích Phật giáo lớn nhất thế giới đó là ngôi đền Borobudur, và một trong những ngôi đền Ấn Độ giáolớn nhất là Prambanan, thì ở ngoại ô.
Khoảng 90 phần trăm người dân Nam Dương theo Hồi giáo, và chỉ phần nhỏ còn lại là theo Phật giáo và Ấn Độ giáo. Tuy nhiên Ấn Độ giáo và Phật giáo, đã trong một thời gian dài chiếm ưu thế ở đảo Java , đã thấm qua xã hội và đóng góp vào hình thức Hồi giáo chung dung ở Nam Dương
Trong hơn một thập niên qua, những người ủng hộ của một phiên bản khác của Hồi giáo chính thống đã lấn chiếm Nam Dương. Nhiều phụ nữ mang khăn che mặt và nhiều người Nam Dương đã theo cách nghi lễ tôn giáo Ả Rập trong khi những người thủ cựu đòi hỏi phải loại bỏ những giá trị và nghi lễ khác với Hồi giáo. Tuy nhiên, truyền thống Hồi giáo Nam Dương thì quy định ngược lại.
" Ông Suwarsono Muhammad, một viên chức tại Đại học Hồi giáo nói rằng: Đây là xứ sở Nam Dương. Trong lịch sử lâu dài của Nam Dương, chúng tôi đã chứng minh rằng các tôn giáo khác nhau có thể sống một cách hòa bình."
Trong tinh thần đó, ông Muhammad cho biết, trường đại học có kế hoạch để giới thiệu ngôi đền Ấn Giáo đáng chú ý ở phía trước, một thư viện sẽ được xây xung quanh nó, trong hình dạng của một nửa vòng tròn.
Tất cả bắt đầu hồi cuối tháng tám vừa qua khi trường đại học tư nhân quyết định xây dựng thư viện ", biểu tượng của kiến thức về tôn giáo của chúng tôi," bên cạnh những nhà thờ Hồi giáo, ông Muhammad nói. Trong hai thập niên qua trường đại học đã chiếm chọn 79-acre ở bên ngoài khuôn viên trường Yogyakarta, do vậy ngôi đền đã không bao giờ được tìm thấy. Tuy nhiên, cơ hội đã cao mà họ đã có được xung quanh. Hầu hết các làng gần đó mang cùng một tên tự trong tên làng: Candi, có nghĩa là ngôi đền.
Vào ngày 11 tháng 12, một nhóm thợ đã đào sới sâu 7 feet đất. Nhưng đất đã không ổn định, và nhóm đã quyết định phải đào sâu hơn 20 inch. Sau đó một xe xúc đất đã đánh trúng một cái gì đó cứng bất thường.
Cái đánh trúng của xe xúc đất lên phía trái của bức tường ngôi đền đã để lại dấu tích trên tường của ngôi đền, các chuyên gia nói rằng tốt nhất là bảo tồn di tích cổ được tìm thấy trong Java.
Các nhà nghiên cứu khảo cổ của chính phủ tại Yogyakarta vào khuôn viên trường ngày hôm sau, đã cho khai quật tiếp tục trong 35 ngày, cuối cùng đã khai quật hai ngôi đền nhỏ có số tuổi là 1,100 năm. Trong đền thờ chính, kích thước là 20 feet x 20 feet, tìm thấy một bức tượng của vị thần Ganesha còn nguyên, vị thần đầu voi, ngồi cạnh một biểu tượng Linga, là một biểu tượng của thờ thần Ấn Độ Giáo Shiva, và một biểu tượng yoni, là biểu tượng của nữ thần thờ phượng cho các Shakti.
Trong đền kế bên, kích thước khoảng 20 feet x 13 feet, các nhà nghiên cứu khai quật được một Linga và yoni, cũng như hai bàn thờ và một bức tượng của Nandi, là tượng con bò thiêng liêng của Ấn Độ Giáo Shiva.
Những ngôi đền không quá lớn, nhưng chúng có các tính năng mà chúng tôi đã không tìm thấy ở Nam Dương trước kia," Herni Pramastuti, người điều hành của Văn phòng khảo cổ, cho biết, và chỉ vào ngôi đền hình chữ nhật, cho thấy sự tồn tại của hai biểu tượng Linga và yoni, và sự hiện diện của hai bàn thờ.
Các nhà nghiên cứu phỏng đoán rằng ngôi đền được bảo quản trong điều kiện nguyên sơ, vì chúng đã bị chôn vùi trong một lần núi lửa phun trào vào một thế kỷ sau khi ngôi đền được xây dựng. Các dung nham từ núi Merapi, khoảng 7,5 dặm về phía bắc, được biết là đã lấp đầy một con sông gần đó trước khi chảy qua các ngôi đền, đã giảm thiểu sự thiệt hại.
Indung Panca Putra, một nhà nghiên cứu tại Văn phòng khảo cổ, cho biết, "bức tường ngôi đền và pho tượng chứa đựng các chi tiết tinh tế không tìm thấy trong nhiều ngôi đền nhỏ của Ấn Độ giáo và Phật giáo phát hiện tại khu vực này.
Chính phủ đã dời vật có giá trị nhất, đó là bức tượng của Ganesha, về Văn phòng khảo cổ. Để bảo vệ chống lại kẻ trộm, công nhân đã làm một hàng rào trong khuôn viên trường, có các vệ sĩ canh gác bên trong.
Hai vi tu sĩ Phật giáo, dù không có phận sự gì bên trong ngôi đền. Họ đã đi du lịch từ tu viện của họ, khoảng một giờ đi bằng xe hơi, để đến thăm.
"Đây là những tổ tiên của chúng tôi, vì vậy chúng tôi có một cảm giác thân thuộc", vị tu sĩ Dhammiko nói.
Các sử gia tin rằng Ấn Độ giáo lan rộng trong đảo Java vào thế kỷ thứ năm, tiếp theo là Phật giáo vào ba thế kỷ sau đó. Vương quốc chia ra sự nở rộ cho cả Ấn Độ giáo và Phật giáo trong đảo Java trước khi bị lu mờ bởi Hồi giáo trong thế kỷ 15.
Nhưng Hồi giáo tự kết hợp chặc chẽ niềm tin và nghi lễ từ hai tôn giáo kia. Cũng như một số khai quật ngôi đền ở phía Đông Java có một phân nửa là của đạo Hindu và một nửa của Phật giáo, một số ngôi đền với mái đền có hình dạng mái của đền thờ Ấn Độ giáo, ông Timbul Haryono là vị giáo sư khảo cổ học tại Đại học Gadjah Mada và cũng là một chuyên gia về Ấn Độ giáo ở Đông Nam Á đã nói như vậy. Mặt tiền của nhà thờ Hồi giáo không phải đối mặt về hướng Mecca là thành phố thánh địa của Hồi Giáo, nhưng phía tây hoặc phía đông thì kiến trúc theo cách của đền thờ đạo Hindu (Ấn Độ Giáo).
"Sự việc đã không có sư đổi thay tất cả một cách đột ngột", ông Haryono nói. "Hồi giáo đã được thông qua một quá trình của sự tiếp nhận và biến đổi văn hóa."
Ông nói tiếp "Trong nghệ thuật của Indonesia, trong việc giữ Ấn Độ giáo và Phật Giáo Truyền Thống, giống như nghệ thuật bóng rối cái mà kịch hóa Ấn Độ Giáo có tính chất sử thi, hoặc trong cuộc sống riêng tư của người dân, những dấu vết của các tôn giáo tồn tại trước đó, ông nói. Như trong thực phẩm, hoa và hương vẫn còn đi kèm trong nhiều đám tang của người Hồi giáo."
"Ấn Độ giáo là tôn giáo chính của Indonesia trong 1,000 năm," ông nói, "do đó ảnh hưởng của nó vẫn còn mạnh."
Hoa Phật Giáo Hiếm Qúi Được Tìm Thấy
By telegraph.co.uk, March 1, 2010
Loài hoa Uu Ðàm hiếm qúi của Phật Giáo
Loài hoa Uu Ðàm hiếm qúi của Phật Giáo ít khi được thấy, là loài hoa nở mỗi 3,000 năm một lần, đã được tìm thấy dưới máy giặt tại núi Lushan thuộc tỉnh Giang Tây của Trung Quốc..
Hoa Uu Ðàm đã được tìm thấy trong ngôi nhà của một su cô người Trung Hoa tại núi Lushan, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.
Loài hoa hiếm Uu Ðàm, dựa theo truyền thuyết Phật Giáo thì chỉ nở mỗi 3,000 năm một lần, đường kính của hoa chỉ vào khoảng 1mm.
Su cô Miao Wei, trong lúc dọn dẹp dã phát hiện những chùm hoa trắng dưới máy giặt.
Ðầu tiên khi nhìn thấy cô nghĩ đây là một loại trứng của côn trùng, tuy nhiên ngày hôm sau, cô thấy các thân cây tăng cao và có 18 hoa trắng nhỏ trên đỉnh của thân cây và tỏa mùi thơm ngát.
Ngôi chùa tại địa phuong tin tuởng rằng loài hoa nhỏ bé là mẫu vật của Youtan thần kỳ hoa Poluo - gọi là "Uu Ðàm" hoặc "Udambara" trong tiếng Phạn, nghĩa là "được coi là loài hoa để đạt được sự thịnh vượng đến từ Thiên Đường. "
Vị tu sĩ triển lãm những bức tranh của mình
Bản tin trích từ Indian Express, Jan 14, 2010
Một bức hình của tu sĩ Vreeland tại phòng triễn lãm
Mumbai, Ấn Độ - Hai mươi lăm năm trước, Nicholas Vreeland, cháu trai của biên tập Diana Vreeland của tờ thời trang huyền thoại, rời New York đi đến tu viện cổ Dratsang Rato tại Mundgod, Karnataka, để trở thành một nhà sư Phật giáo. Khi ông trở về nhà, một người em trai ông có năng khiếu máy ảnh Nikon.
Vreeland có một niềm đam mê nhiếp ảnh ở tuổi 15, khi ông ta trợ giúp ghi chú cho nhiếp ảnh gia Irving Penn và trải qua một mùa hè làm việc với một nhiếp ảnh gia, Richard Avedon. Tại tu viện Rato Dratsang, Vreeland hiếm khi sử dụng máy ảnh, ngoại trừ việc chụp ảnh phong cảnh xung quanh mình. Tu sĩ Vreeland với tuổi 55 đã nói rằng "Tôi không muốn là một nhà sư mà đi khắp nơi để chụp ảnh," ông đã chọn 20 hình ảnh đã chụp tại tu viện Dratsang cho một cuộc triển lãm tại Delhi, Ấn Độ của Trung tâm Quốc tế.
Những bức hình ông chụp đã cung cấp một cái nhìn vào cuộc sống hàng ngày trong một tu viện. Trong một bức hình một tăng sinh trong một chiếc áo casa đang hăng say trò chuyện với thầy của mình; một bức hình khác, một nhà sư đang lần chuỗi hạt tại Hubli. Bộ sưu tập tới nơi Delhi sau khi đi qua các thành phố Paris, Geneva, Rome, Chicago và Milan; và số tiền huy động từ việc bán hàng sẽ được sử dụng cho việc tái thiết tu viện Rato.
Được thành lập năm 1983 bởi các vị tu sĩ những người đã trốn sang được Ấn Độ sau khi cuộc đàn áp của Trung Quốc về Tây Tạng năm 1959, số người tại tu viện tăng dần từ 12 người trong năm 1985 đến hơn 100 người hiện nay. Chi phí xây dựng được ước tính khoảng $500.000 trong 15 năm nhưng hiện nay bị trở ngại kể từ khi kinh tế toàn cầu suy thoái năm 2009. Trong một chuyến đi đến châu Âu, Martine Franck, vợ của Henri Cartier-Bresson đã đề nghị vị tu sĩ Vreeland triển lãm những bức hình của mình để thu thập kinh phí cho tu viện, và đã giới thiệu ông cho nhiếp ảnh gia Pháp-curator Robert Delpir.
Văn Hóa Phật giáo Sikkim phong phú thu hút khách du lịch
Bản tin trích từ Buddhistchannel news, ANI, January 4, 2010
Phong cảnh thanh bình với núi non rừng xanh của Sikkim
Gangtok,
Sikkim (Ấn Độ) - Tiểu bang Sikkim nằm ở giữa vùng núi Himalaya là một
thiên đường cho khách du lịch. Ngày nay chính phủ tiểu bang đã cố gắng
tu sửa nhiều khu vực Phật giáo và khuyến khích các lễ hội tại những nơi
du khách thường xuyên thăm viếng.
Kagyad Chaam là một vũ điệu trong bốn vũ điệu múa mang mặt nạ của tiểu bang
Cử hành bởi các vị Lama của tu viện Phật giáo vào mỗi ngày 28 và 29 của
lịch Tây Tạng, các điệu múa biểu diễn tượng trưng cho sự xua đuổi linh
hồn của ma quỷ của năm trước và chào đón tinh thần tốt lúc bình minh
của năm mới.
Trong lúc vũ các Lama được trang phục với mặt nạ sơn màu tươi sáng tay
cầm thanh kiếm lễ và nhún nhảy quay cuồng theo nhịp trống vang rền.
Điệu vũ nhún nhảy sôi động không chỉ làm mê hoặc người dân địa phương, mà cũng làm những khách du lịch nước ngoài thích thú.
Điệu vũ Kagyad diễn nhiều chủ đề khác nhau từ các thần thoại Phật giáo
và lên đến cực điểm với việc đốt các hình nộm làm bằng bột mì, gỗ và
giấy.
Một giáo đoàn của những người theo Phật giáo tại địa phương và khách du
lịch tập hợp một năm một lần để chứng kiến buổi khiêu vũ lạ thường này.
Các lễ hội Phật giáo, phản ảnh truyền thống Phật giáo của nhiều thế kỷ
trong nước cũng góp phần vào sự phát triển của ngành du lịch.
Theo vị tổng thư ký Lukendra Rasily của Sikkim Đại lý Du lịch nói rằng
"Khách du lịch thấy rất thú vị, rất khác biệt khi họ đến Sikkim và khi
họ trở về với rất nhiều kỷ niệm mà không có được một cách dễ dàng ở bất
cứ nơi nào trên thế giới."
Sikkim đã có rất nhiều phong cảnh thích thú cung cấp cho du khách, như
núi tuyết phủ dày, những khu rừng cây lá xanh tươi và thêm vào đó là có
nhiều tu viện Phật giáo.
Sự yên ổn và thanh bình đã đem nhiều du khách đến cho tiểu bang. Hơn 300.000 du khách viếng thăm Sikkim trong năm nay.
|
|