LỚP PHẬT PHÁP - BUDDHADHAMMA |
TIN TỨC PHẬT GIÁO |
TRUYỆN NGẮN
Lòng Mẹ
Hồ Dzếnh
Quê mẹ tôi ở Trung Bộ. Nhà người - tôi không làm thơ đâu ở bên kia một dòng sông nhỏ, êm kín với hai bờ lau xanh. Chính ở nơi này, lúc người mới mười lăm tuổi, thì một tình duyên đẹp đẽ gây nên sự gặp gỡ giữa hai người xa lạ. Mẹ tôi thường thuật lại cho tôi nghe cuộc nhân duyên ngày trước, thuật lại bằng một giọng rất thờ ơ, hình như cho sự kết hôn với ba tôi là một điều không đáng nói. Tôi lọt lòng năm mẹ tôi đã ngót bốn mươi tuổi, thế nghĩa là khi tôi biết tò mò hỏi đến chuyện tâm tình của người, thì người đã già. Câu hỏi luôn luôn của tôi là:
- Hả mẹ, mẹ lấy ba có xe ô tô đi đưa dâu không mẹ? Mẹ tôi cười, một cái cười chua chát cực điểm:
- Có con ạ. Mẹ lấy ba con có những ba mươi chiếc ô tô kia! Tuy nhỏ, tôi hiểu ngay đó là một lời than kín. Thực ra, mẹ tôi lấy chồng trong một hoàn cảnh túng thiếu hết sức. Ba tôi hồi ấy còn nghèo, như phần nhiều những người bạn cùng nước mới sang đây. Ngày nhỏ, tôi yêu mẹ tôi một cách bịn rịn.
Người chiều tôi, có lẽ vì người đoán thấy ở tôi một số phận thiếu êm vui. Tôi đòi gì là người cho. Tôi muốn gì là người chiều ý. Sự nâng niu ấy rõ rệt đến nỗi ba tôi thường phải kêu:
- Cứ chiều nó như thế, thì chưa biết nó hư ngày nào.
Câu nói ghẻ lạnh làm tôi tủi nhục, nhiều lần òa lên khóc. Mẹ tôi sợ tôi bị đòn, vẫn giấu tôi ra một nơi, ôm lấy tôi mà vuốt ve. Cứ thế, mỗi lần sự khắc khổ của người cha làm tôi đau đớn, thì một bàn tay âu yếm lại xoa dịu lòng tôi ngay. Tâm tình của trẻ con rất đơn sơ mà cũng rất phức tạp. Tôi làm nũng mẹ tôi luôn để thấy cái thú làm lành của người sau những cơn thịnh nộ. Tôi chạy nhảy cùng nhà, la hét cốt để mọi người biết tôi có quyền la hét, hay muốn làm gì thì làm.
Năm lên tám, tôi cắp sách vào học tại một trường huyện. Nhà trường gần ngay chợ. Mẹ tôi, mỗi lần dọn hàng về, đều dừng lại trước cổng trường, đưa bánh cho tôi vào những giờ nghỉ. Có một lần mẹ tôi vô ý gọi to lên, giữa khi tôi đang ngồi trong lớp học.
- Con ơi, ra lấy bánh, mau!
Tôi giật mình nhìn ra thì thấy cái bánh giò đặt trên tay mẹ tôi, đưa qua hàng rào. Dưới nắng vàng vọt của buổi chiều hè, tôi nhận thấy mẹ tôi vui mừng một cách đáng thương. Một tay người giữ chiếc nón, còn tay kia thì run run. Người lách mình, cho khỏi bị gai ở hàng rào vướng. Quần áo người tiều tụy nhuộm ánh nắng xế chiều:
- Mau ra lấy bánh cho mẹ về, con! Tôi đưa mắt nhìn thầy giáo rồi lại nhìn mẹ tôi. Sau cùng tôi đánh bạo lên xin phép:
- Thưa thầy, thầy cho con ra để mẹ con hỏi. Thầy giáo tôi đương mải xem quyển sách, gắt:
- Không đi đâu cả, ngồi đấy! Nói xong, thầy bình tĩnh lẩm nhẩm: "c'est parfait! parfait!"
Tôi về chỗ, đưa tay ra hiệu cho mẹ tôi ném bánh xuống đất, vì tôi không ra được. Mẹ tôi không hiểu lại gọi to thêm. Lần này, thày giáo ngoảnh mặt lên, nhìn ra ngoài rồi hỏi mẹ tôi:
- Bà kia muốn gì?
Tôi đứng ngay dậy thưa:
- Thưa thầy... mẹ con...
- Xin cho nghỉ à!
Tôi cuống lên, run run đáp:
- Thưa thầy, không ạ, mẹ con... mẹ con đưa bánh!
Thầy giáo tôi buông dài một tiếng "ôi chao" như hơi gió và bảo tôi:
- Cút ra ăn đi, rồi vào ngay, nghe không? Tôi sung sướng suýt nhảy qua cửa sổ. Ra đến nơi, mẹ tôi hỏi:
- Sao lâu thế?
Tôi phụng phịu:
- Mẹ gọi to làm thầy giáo gắt. Từ rày có thấy con ra chơi mẹ hẵng đưa, còn không thì mẹ đem về cất vào ngăn kéo khóa lại kỹ cho con.
Mẹ tôi mỉm cười nhìn tôi - ôi! Cái mỉm cười của một người mẹ! – Người dặn mấy câu rồi quay đi. Chiếc bánh hôm ấy, tôi ăn một cách không ngon lành và hơi vội. Lúc tôi vừa ném mớ lá xuống đất, thì tiếng trống bắt đầu báo giờ ra chơi.
-Mày ăn cái gì đấy? A, thằng này xỏ, nó ăn mau lắm anh em ạ.
Câu nói sau cùng làm tôi vụt cười, sặc ra ngoài miếng bánh ngậm trong miệng.
Thuở thơ ấu của tôi phần lớn là những ngày buồn bã, cái buồn bã không đâu, đến bây giờ còn theo dõi tôi mãi. Thỉnh thoảng tôi mới vui, nhưng cái vui, ác hại, lại dồn dập như giông tố, bỏ rớt lại một nỗi trống rỗng thiểu não trong lòng tôi sau khi tan đi. Tôi vui đấy mà buồn ngay đấy. Tôi lưu luyến một cái gì xa quá, hư huyền quá, nhưng không phải là thú vui tìm kiếm trong gia đình hay trong đời sống. Bạn bè tôi lại rất hiếm. Vài ba gương mặt phảng phất lắng trong quá khứ thiếu tươi vui, vài tình cảm xưa cũ lẽo đẽo theo tôi trên đường đời. Có thế thôi, và thường thường tôi chỉ sống bằng mộng. Tôi không bằng lòng ai cả, hình như tôi cũng không bằng lòng cả tôi. Tôi phải kiếm cớ luôn luôn cho lòng mình thắc mắc, trong thứ tin tưởng quái gở là mọi người không ai yêu tôi. Đó thực là một cực hình cho kẻ nào, như tôi, chịu ảnh hưởng sự khủng hoảng tinh thần do chính mình gây ra, do chính mình ham thích.
Cách đây mấy năm, có lần tôi đã chép đoạn thơ của Baudelaire dán ở bàn viết, ngay trước mặt:
Il me semble parfois que mon sang coule à flots
Ainsi qu’une fontaine aux rythmiques sanglots,
Je l'entends bien qui coule avec un long murmure,
Mais je me tâte en vain pour trouver la blessure.
(Đôi lúc hình như máu xối nguồn
Tựa như lòng nước tiếng vang thương.
Ta nghe máu chảy sầu rười rượi
Khốn nỗi không tìm thấy vết thương).
Đậu bằng tiểu học xong, tôi lên tỉnh học. Trước khi thi vào ban thành chung và còn những ba tháng nghỉ hè thênh thang trước mặt, tôi theo chúng bạn đến học tư với một thầy giáo tú tài. Tôi trọ ở nhà người chú, mỗi tháng chỉ phải đem gạo ở nhà quê ra thay tiền. Tôi không hỏi ý kiến mẹ tôi, vì tôi cho việc học lúc ấy rất cần. Học được ba ngày thì thầy giáo tôi lễ phép nhắc với học trò bằng tiếng Pháp:
- Tôi mong rằng các anh trả tiền học trong vài hôm sắp tới đây, và tôi xin cảm ơn trước.
Học trò ai nấy nhốn nháo lên. Có vài người trong bọn móc ngay tiền túi mang lên trả. Các anh khác xin khất đến mai. Riêng tôi, tôi buồn lắm. Chỉ mãi đến lúc ấy, tội nghiệp, tôi mới nhớ đến mẹ tôi, tôi mới nhớ đến cái vốn liếng ít ỏi của người. Bốn đồng! Tính theo giá tiền ở Trung Bộ vào thời bình là hai mươi quan! Tôi làm một cái tính nhẩm và rùng mình biết rằng đó là một số tiền cắt cổ. Điều cần thiết là tôi phải mượn ở đâu lấy mấy hào về nhà quê trình bày mọi sự với mẹ tôi. Cái tráp tiền của chú tôi đóng lại với con cháu rất chắc. Hầu bao của các bạn cũng không thể mở được vì một cử động nhân từ nào. Tôi đành xin nghỉ một hôm, cuốc bộ về nhà lấy tiền trả cái "nợ học". Thấy tôi về bất thần, mẹ tôi ngừng tay xay lúa, hỏi tôi:
- Sao con lại về? Con không ở ngoài tỉnh mà học à?
Tôi bậm môi lại để nén tiếng khóc. Tôi không đủ can đảm nói cái số tiền học quá lớn kia nữa. Mẹ tôi thì lại ngờ rằng tôi bị hắt hủi nên hỏi nựng:
- Hay là bọn nó làm gì con?
Tôi lắc đầu, khóc: - Thầy giáo... thầy giáo đòi tiền học!
Mẹ tôi cười điềm nhiên:
- Tưởng gì chứ đòi tiền học thì để mẹ đưa. Mấy hào?
Tôi giật mình nhìn mẹ: - Hàng đồng kia!
-Ừ thì bao nhiêu?
- Bốn đồng!
Tôi thấy mẹ tôi lặng người đi, không nói được nữa. Nhưng có lẽ cảm động vì tấm lòng thương mẹ của tôi, người gượng gạo:
- Con cứ lên nhà nằm nghỉ, rồi để mẹ đưa cho.
Mẹ tôi nói dối. Mẹ tôi đuổi tôi lên nhà, để mẹ tôi khóc. Lúc tôi chạy xuống bếp lục cơm ăn, thì thấy đôi mắt mẹ tôi đỏ ngầu, vạt áo ướt đẫm. Tôi ngả vào lòng người, rồi mếu máo:
- Con không đi học nữa mẹ ạ.
Mẹ tôi xoa đầu tôi, cười như thở dài:
- Dại nào! Con học đang giỏi thế kia mà. Để mẹ đưa tiền cho, đừng sợ.
Sáng mai thấy tôi sửa soạn ra tỉnh, người băn khoăn:
-Con cứ ra khất với thầy giáo vài hôm nữa, rồi mẹ mang tiền ra trả sau.
Tôi hiểu ngay là mẹ tôi còn phải chạy tiền nên ngoan ngoãn ra học lại. Cả lớp đã trả tiền hết, trừ tôi. Tuy ngồi ở cuối lớp áp lưng vào tường, tôi vẫn tưởng nghe sau mình những tiếng cười chế giễu. Tôi đâm ngượng, cái ngượng của một người học trò không thuộc bài, nghênh ngang đứng trước mọi con mắt, tay xếp vòng tròn, vê mãi cúc áo của mình.
- Thế nào...? Thầy giáo hỏi tôi.
- Thưa thầy, thầy cho con khất đến hai hôm nữa.
- Nếu hai hôm nữa chưa có tiền học thì anh nghĩ sao?
Tôi đáp rất chắc chắn: - Thưa thầy có ạ. Thế nào cũng có. Mẹ con đã bảo đúng ngày kia đưa tiền ra.
Tôi vừa học, vừa sợ. Ngày tháng chạy mau thêm. Hai tờ lịch rơi chóng quá. Nhưng may, mẹ tôi đã ra đứng đợi tôi ngoài cửa nhà học, vì nơi học chính là một cái nhà thật. Mẹ tôi cắp cái thúng trong đựng mười quan tiền. Tôi ái ngại bảo mẹ:
- Trả tiền học bằng tiền, thầy giáo không nhận đâu mẹ ạ. Tôi chưa kịp cản, thì mẹ tôi đã cắp thúng đến trước mặt thầy giáo, và đặt lên bàn mười quan tiền và hai tờ giấy bạc lấy ở nút buộc ruột tượng ra, làm tôi đỏ cả mặt. Mẹ tôi kể lể như khi kể lể với một người bạn thân:
- Cháu nó bảo thầy không tiêu tiền kẽm nên ngăn tôi không cho đem vào. Thầy tính, cháu nó còn nhỏ, tâm tình như con gái, hay sợ vơ sợ vẩn...
Thầy giáo sai người cất tiền đi, và chừng như động lòng trước cảnh nghèo túng của chúng tôi, thầy cầm lấy tay tôi, thành thực:
- Em chịu khó mà học đi. Em học khá đấy. Tháng sau thầy bớt tiền học cho.
Ra ngoài, tôi vui vẻ hỏi mẹ tôi: - Sao mẹ có nhiều tiền thế, mẹ? Mẹ tôi cười, nửa buồn nửa vui:
- Mẹ chỉ có mười quan thôi. Hai đồng bạc ấy là của thím con, mẹ thấy rơi ở đầu giường thím nằm nên mượn tạm! Tôi rụng rời cả mình mẩy. Tôi thấy tất cả cái thành phố quê hương của tôi quay đảo trước mặt, nhà chất lên cây, cây chất lên nhà. Tôi hỏi mẹ:
- Sao mẹ lại lấy như thế, thím ấy nói cho.
Mẹ tôi cười gần như khóc:
- Người ta giàu, mình mượn tạm rồi trả sau cũng không sao. Mà thím ấy có nói thì nói mẹ, việc gì đến con mà con khóc.
Vừa đặt chân vào nhà, tôi nghe tiếng thím tôi réo:
-Tôi có ba đồng ba, để ở đầu giường, đứa nào lấy mất hai rồi?
Tôi toan cất tiếng, thì mẹ tôi vội bấu tay tôi, nói khẽ:
- Mặc nó!
Nhưng tôi không nghe. Tôi bảo thím:
- Cháu lấy đấy, thím ạ. Cháu trót đánh mất rồi.
Thím tôi lườm tôi, nghiến răng lại:
- Cháu giỏi nhỉ? Đồ ăn cắp!
Tôi chưa kịp nói thêm được gì, thì mẹ tôi đã đứng lên:
- Tôi mượn của thím đấy, để vài hôm nữa tôi mang ra trả lại.
Thím tôi bĩu môi, thõng thẹo
: -Ừ, bà mượn thế thì ai chả mượn được!
Câu chuyện trên đây theo dõi tôi như một ám ảnh cực nhục. Mỗi lần nhớ đến mẹ tôi, hay xét mình phạm tội, tôi thường đem nó ra để tự hình phạt. Nhiều năm đã rơi theo nhiều năm, và bây giờ, trong những đêm Hà Nội, cái thành phố hoa lệ chỉ quen tiêu bạc với hào, tôi vẫn rờn rợn nghe thấy âm thanh của mười quan tiền kêu lanh lảnh...
|
|
Bài học ngày 10 tháng 3, 2010
Giảng sư:
THỬ LÀM MỘT SO SÁNH
"Lượng định đúng mức giá trị của đời sống thật sự không đơn giản"."
I.
Đại lược
I. Phẩm Veludvàra
1. I. Vua (S.v,342)
1-2) Sàvatthi. Ở đấy... nói như sau:
3) -- Dầu cho, này các Tỷ-kheo, một vị Chuyển luân vương làm chủ tể và cai trị bốn châu, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, thế giới này, cộng trú với chư Thiên ở cõi Ba mươi ba; tại đấy, vị ấy trú trong rừng Nandana, được chúng Thiên nữ đoanh vây, được đầy đủ, được cung cấp, được bao bọc năm thiên dục công đức, nhưng không được đầy đủ bốn pháp; tuy vậy, vị ấy chưa được giải thoát khỏi địa ngục, chưa được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, chưa giải thoát khỏi ngạ quỷ, và chưa thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ.
4) Nhưng này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử, dầu muốn sống bằng các miếng ăn khất thực, đắp với y nhiều tấm (nantakàni); vị ấy đầy đủ bốn pháp. Và vị ấy được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, được giải thoát khỏi cõi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
6) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với Pháp: "Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".
7) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời".
8) Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.
9) Vị ấy thành tựu bốn pháp này.
10) Và này các Tỷ-kheo, có sự lợi đắc của bốn châu và sự lợi đắc của bốn pháp. Sự lợi đắc bốn châu không đáng giá (agahati) một phần mười sáu lợi đắc bốn pháp
Được đăng bởi Pháp Luân vào lúc 22:42
II. Nội dung chính
III.
Người Xưa Chốn Cũ
IV. Chữ và nghĩa
TT Tuệ Siêu biên soạn
Hỏi:
Đáp:
V. Học và hỏi
TK Tuệ Minh biên soạn
Hỏi:
Ðáp:
VI. Đố Vui
TT Tuệ Siêu biên soạn
1/
a.
b.
c.
d.
2/
a.
b.
c.
d.
3/
a.
b.
c.
d.
|
TÓM
LƯỢC
Chùa Pháp Luân tổ chức Khóa Tu Học Mùa Xuân với chương trình hành hương Ấn Độ do TT Giác Đẳng hướng dẫn sẽ chiêm bái các thánh tích liên quan đến Đức Phật là Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, Vườn Lộc Giả, Câu Thi Na, Ba La Nại, Khổ Hạnh Lâm, Vương Xá, Linh Thứu Sơn, Na Lan Đà, Hoa Thị Thành, Tỳ Xá Ly, Xá Vệ và Ca Tỳ La Vệ, phái đoàn sẽ thăm viếng các hang động Ajanta & Ellora miền nam Ấn Độ và thăm viếng Dharamsala Ngài Dalai Lama. Phái đoàn rời Hoa Kỳ ngày 17-03-2010 và trở về ngày 06-04-2010. Ngoài chương trình chiêm bái còn có phần giảng về Cuộc Đời Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên xe buýt trong suốt hành trình.. Mọi chi tiết xin liên lạc email phapluan@yahoo.com hoặc điện thoại TT Giác Đẳng tại 281- 216-3588
Loài hoa Uu Ðàm hiếm qúi của Phật Giáo ít khi được thấy, là loài hoa nở mỗi 3,000 năm một lần, đã được tìm thấy dưới máy giặt tại núi Lushan thuộc tỉnh Giang Tây của Trung Quốc. .
Vị tu sĩ triển lãm những bức tranh của mình
Sikkim (Ấn Độ) - Tu sĩ Vreeland đã triển lãm những bức hình do ông chụp để gây qũi tu sửa tu viện cổ Dratsang Rato tại Mundgod, Karnataka..
Văn Hóa Phật giáo Sikkim phong phú thu hút khách du lịch
MELBOURNE, Úc - Con voi tên Mali chơi với một quả bóng cao su màu đỏ
trong khi ba vị tăng sĩ Phật giáo phẩy nước lên mặt của nó ngày thứ năm
trong buổi lễ ban phước lành cho các con thú mới của Sở thú Melbourne..
Hoa Phật Giáo Hiếm Qúi Được Tìm Thấy
By telegraph.co.uk, March 1, 2010
Loài hoa Uu Ðàm hiếm qúi của Phật Giáo
Loài hoa Uu Ðàm hiếm qúi của Phật Giáo ít khi được thấy, là loài hoa nở mỗi 3,000 năm một lần, đã được tìm thấy dưới máy giặt tại núi Lushan thuộc tỉnh Giang Tây của Trung Quốc..
Hoa Uu Ðàm đã được tìm thấy trong ngôi nhà của một su cô người Trung Hoa tại núi Lushan, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.
Loài hoa hiếm Uu Ðàm, dựa theo truyền thuyết Phật Giáo thì chỉ nở mỗi 3,000 năm một lần, đường kính của hoa chỉ vào khoảng 1mm.
Su cô Miao Wei, trong lúc dọn dẹp dã phát hiện những chùm hoa trắng dưới máy giặt.
Ðầu tiên khi nhìn thấy cô nghĩ đây là một loại trứng của côn trùng, tuy nhiên ngày hôm sau, cô thấy các thân cây tăng cao và có 18 hoa trắng nhỏ trên đỉnh của thân cây và tỏa mùi thơm ngát.
Ngôi chùa tại địa phuong tin tuởng rằng loài hoa nhỏ bé là mẫu vật của Youtan thần kỳ hoa Poluo - gọi là "Uu Ðàm" hoặc "Udambara" trong tiếng Phạn, nghĩa là "được coi là loài hoa để đạt được sự thịnh vượng đến từ Thiên Đường. "
Vị tu sĩ triển lãm những bức tranh của mình
Bản tin trích từ Indian Express, Jan 14, 2010
Một bức hình của tu sĩ Vreeland tại phòng triễn lãm
Mumbai, Ấn Độ - Hai mươi lăm năm trước, Nicholas Vreeland, cháu trai của biên tập Diana Vreeland của tờ thời trang huyền thoại, rời New York đi đến tu viện cổ Dratsang Rato tại Mundgod, Karnataka, để trở thành một nhà sư Phật giáo. Khi ông trở về nhà, một người em trai ông có năng khiếu máy ảnh Nikon.
Vreeland có một niềm đam mê nhiếp ảnh ở tuổi 15, khi ông ta trợ giúp ghi chú cho nhiếp ảnh gia Irving Penn và trải qua một mùa hè làm việc với một nhiếp ảnh gia, Richard Avedon. Tại tu viện Rato Dratsang, Vreeland hiếm khi sử dụng máy ảnh, ngoại trừ việc chụp ảnh phong cảnh xung quanh mình. Tu sĩ Vreeland với tuổi 55 đã nói rằng "Tôi không muốn là một nhà sư mà đi khắp nơi để chụp ảnh," ông đã chọn 20 hình ảnh đã chụp tại tu viện Dratsang cho một cuộc triển lãm tại Delhi, Ấn Độ của Trung tâm Quốc tế.
Những bức hình ông chụp đã cung cấp một cái nhìn vào cuộc sống hàng ngày trong một tu viện. Trong một bức hình một tăng sinh trong một chiếc áo casa đang hăng say trò chuyện với thầy của mình; một bức hình khác, một nhà sư đang lần chuỗi hạt tại Hubli. Bộ sưu tập tới nơi Delhi sau khi đi qua các thành phố Paris, Geneva, Rome, Chicago và Milan; và số tiền huy động từ việc bán hàng sẽ được sử dụng cho việc tái thiết tu viện Rato.
Được thành lập năm 1983 bởi các vị tu sĩ những người đã trốn sang được Ấn Độ sau khi cuộc đàn áp của Trung Quốc về Tây Tạng năm 1959, số người tại tu viện tăng dần từ 12 người trong năm 1985 đến hơn 100 người hiện nay. Chi phí xây dựng được ước tính khoảng $500.000 trong 15 năm nhưng hiện nay bị trở ngại kể từ khi kinh tế toàn cầu suy thoái năm 2009. Trong một chuyến đi đến châu Âu, Martine Franck, vợ của Henri Cartier-Bresson đã đề nghị vị tu sĩ Vreeland triển lãm những bức hình của mình để thu thập kinh phí cho tu viện, và đã giới thiệu ông cho nhiếp ảnh gia Pháp-curator Robert Delpir.
Văn Hóa Phật giáo Sikkim phong phú thu hút khách du lịch
Bản tin trích từ Buddhistchannel news, ANI, January 4, 2010
Phong cảnh thanh bình với núi non rừng xanh của Sikkim
Gangtok,
Sikkim (Ấn Độ) - Tiểu bang Sikkim nằm ở giữa vùng núi Himalaya là một
thiên đường cho khách du lịch. Ngày nay chính phủ tiểu bang đã cố gắng
tu sửa nhiều khu vực Phật giáo và khuyến khích các lễ hội tại những nơi
du khách thường xuyên thăm viếng.
Kagyad Chaam là một vũ điệu trong bốn vũ điệu múa mang mặt nạ của tiểu bang
Cử hành bởi các vị Lama của tu viện Phật giáo vào mỗi ngày 28 và 29 của
lịch Tây Tạng, các điệu múa biểu diễn tượng trưng cho sự xua đuổi linh
hồn của ma quỷ của năm trước và chào đón tinh thần tốt lúc bình minh
của năm mới.
Trong lúc vũ các Lama được trang phục với mặt nạ sơn màu tươi sáng tay
cầm thanh kiếm lễ và nhún nhảy quay cuồng theo nhịp trống vang rền.
Điệu vũ nhún nhảy sôi động không chỉ làm mê hoặc người dân địa phương, mà cũng làm những khách du lịch nước ngoài thích thú.
Điệu vũ Kagyad diễn nhiều chủ đề khác nhau từ các thần thoại Phật giáo
và lên đến cực điểm với việc đốt các hình nộm làm bằng bột mì, gỗ và
giấy.
Một giáo đoàn của những người theo Phật giáo tại địa phương và khách du
lịch tập hợp một năm một lần để chứng kiến buổi khiêu vũ lạ thường này.
Các lễ hội Phật giáo, phản ảnh truyền thống Phật giáo của nhiều thế kỷ
trong nước cũng góp phần vào sự phát triển của ngành du lịch.
Theo vị tổng thư ký Lukendra Rasily của Sikkim Đại lý Du lịch nói rằng
"Khách du lịch thấy rất thú vị, rất khác biệt khi họ đến Sikkim và khi
họ trở về với rất nhiều kỷ niệm mà không có được một cách dễ dàng ở bất
cứ nơi nào trên thế giới."
Sikkim đã có rất nhiều phong cảnh thích thú cung cấp cho du khách, như
núi tuyết phủ dày, những khu rừng cây lá xanh tươi và thêm vào đó là có
nhiều tu viện Phật giáo.
Sự yên ổn và thanh bình đã đem nhiều du khách đến cho tiểu bang. Hơn 300.000 du khách viếng thăm Sikkim trong năm nay.
Voi con được ban phước lành bởi ba vị tu sĩ Phật Giáo tại Úc
Bản tin trích từ Buddhistchannel news, AP, Feb 26, 2010
Con voi con Mali được 6 tuần tuổi đang chơi đùa với voi mẹ tại sở thú Melbourne
Guangzhou: MELBOURNE,
Úc - Con voi tên Mali chơi với một quả bóng cao su màu đỏ trong khi ba
vị tăng sĩ Phật giáo phẩy nước lên mặt của nó ngày thứ năm trong buổi
lễ ban phước lành cho các con thú mới của Sở thú Melbourne.
Con voi con chỉ mới dưới sáu tuần tuổi, là con voi thứ hai sinh ra tại
Úc và đã trở thành điểm thu hút chính tại các sở thú kể từ ngày 10
tháng 2, 2010
Các nhà sư Phật giáo Thái tụng kinh trong khi Mali chơi với trái bóng
và chạy vòng tròn quanh voi mẹ là Dokkoon, được đưa đến từ Thái Lan
trong tháng 11 năm 2006 như là một phần của một chương trình tạo điều
kiện của chính phủ Thái Lan.
Tên của Mali đã được lựa chọn trong tuần trước do 23.000 cử tri của
bang Victoria từ một danh sách được đề xuất bởi các lãnh sự quán Thái
Lan. Ý nghĩa Mali là hoa nhài trong ngôn ngữ Thái.
Voi là một biểu tượng quốc gia tại Thái Lan, là sự liên kết lâu dài với sự may mắn.
"Đó là một tên đẹp cho một con voi con xinh đẹp", ông Dan Maloney người
coi sóc sở thú nói. "Nó rất mau lớn, sự hiểu biết hơn trong mỗi ngày và
chắc chắn nó khám phá thế giới của mình và tìm hiểu môi trường xung
quanh nó."
Mali cân nặng 330 (150 kg) và sức nặng của nó tăng trưởng 2 pound một kg) / ngày.
Được chăm sóc bởi con voi, nó đang dần làm quen với các con voi cái
khác trong đàn này. Vị coi sóc sở thú cho biết ông hy vọng nó sẽ thích
hợp với bốn con voi khác trong vài tháng tới.
Con voi đầu tiên sinh tại Úc đã là một con bê đực tại Vườn thú Taronga của Sydney vào tháng Bảy.
|
|