Phật Giáo Tại Sri Lanka
Sri
Lanka là một nước Phật giáo liên tục
lâu đời nhất, Phật giáo Nguyên Thủy
là tôn giáo lớn tại đất nước này
kể từ khi được giới thiệu chính
thức vào thế kỷ thứ 2 trước công
nguyên bởi Ngài Mahinda, con trai vua A Dục của
nước Ấn Độ đă đến Sri
Lanka trong thời cai trị của vua Devanampiya-Tissa.
Sau đó, vị tỳ kheo ni Sanghamitta, con gái của
vua A Dục, được cho là đă mang một
nhánh của cây bồ đề được
chiết từ cây gốc, để trồng tại
Anuradhapura. Từ ngày đó đến nay, các
Phật tử ở Sri Lanka đă hết sức
tôn kính nhánh cây bồ đề này là một phần
của cây Bồ Đề chính tại Bồ
Đề Đạo Tràng mà Đức Thế Tôn
đă ngồi dưới bóng mát của nó để
thiền định và đạt được
giác ngộ.
Các nhà sư từ Tích Lan đă
giữ một vai tṛ quan trọng trong việc
truyền bá Phật giáo Nguyên Thủy và Đại
Thừa trong vùng Đông Nam Á. Tại Sri
Lanka, trong thế kỷ thứ 1 AD trong
thời cai trị của vua Vatta Gamini các nhà sư
Phật giáo đă họp mặt tại tịnh xá
Aloka và thảo ra Đại Tạng Kinh, ba
tạng của giáo lư, được gọi
là kinh điển Pali lần đầu tiên.
Những vị tỳ kheo ni đă giới
thiệu Tăng đoàn tỳ kheo ni vào Trung
Quốc vào năm 433 AD. Trong thế kỷ 16 người
Bồ Đào Nha đánh chiếm Sri Lanka và đă
dă man đàn áp Phật giáo cũng như tiếp
theo đó người Hà Lan cũng đă đàn
áp Phật Giáo.
Vào đầu của thế kỷ
thứ 19 khi người Anh chiếm được
quyền kiểm soát th́ Phật Giáo cũng đă
bị suy giảm rất nhiều, t́nh huống như
vậy đă khuyến khích các nhà truyền giáo
người Anh tràn ngập đến hải
đảo này. Nhưng ngược lại với
tất cả sự ước đoán, các tu sĩ
và cộng đồng Phật tử đă mang
đến sự hồi sinh quan trọng cho
Phật Gíao từ khoảng 1860 trở đi,
một phong trào Phật giáo đă bộc phát song
song với sự phát triển của phong trào
quốc gia.
Kể từ đó Phật giáo đă
phát triển và các vị tu sĩ người Sri
Lanka cùng với các người
cư sĩ đă tận
t́nh trong việc truyền bá Phật giáo Nguyên
Thủy tại châu Á, phương Tây và ngay cả
ở châu Phi.
Một số các đài kỷ niệm
hùng vỉ nhất của thế giới Phật
Giáo nằm ở Sri Lanka, và nghệ thuật
điêu khắc của Sri Lanka liên hệ mật
thiết với nền nghệ thuật xưa kia
của vùng thung lũng Krishma và của thời vua
Chola và Pallava về sau, do mối tương quan gần
gủi giữa nam Ấn Độ và Sri Lanka. [H́nh
trên: Tượng Phật đứng cao bảy
thước trong tư thế khoanh tay hiếm thấy
đặt tại Gal Vihara.]
Sri
Pada: ngọn núi linh thiêng nhất của Phật
giáo
Theo như niên sử của Sri Lanka, tờ Mahawamsa, một trong những người con của vua A Dục, là tu sĩ Mahinda, đă trông coi việc xây cất các ṭa tu viện gần
Anuradhapura.
Đồng thời, Ông đă gởi người tới Ấn Độ để t́m những di tích của Đức Phật. Những vật này, theo như sử sách, gồm có b́nh bát của Đức Phật và xương cổ bên phải của Ngài. Sau đó c̣n có tóc của Ngài, và vào thế kỷ thứ tư, răng của Ngài cũng đă được đưa tới Sri Lanka. Xá lợi răng này vẫn được giữ ǵn cẩn thận tại Kandy nơi mà vào thế kỷ thứ 16 các nghi thức hàng ngày được cử hành để tôn kính xá lợi răng của Ngài tại đền Xá Lợi Răng, ở Kandy.
.
Để cất giử xá lợi Phật,
các bảo tháp đă được
xây dựng. “Đại Bảo Tháp” Ruwanweliseya,
đứng cao đến 300 bộ, được
coi là một trong những bảo
tháp quan trọng nhất tại Anuradhapura thuộc
vùng trung bắc Sri Lanka. Sau nhiều lần phục
hồi, mái ṿm cầu vỉ đại,
được bao quanh với những cột
đá lúc xưa vẫn c̣n được
tồn tại ở Anuradhapura, hiện giờ là
một công viên to lớn. Trong những lễ hội
lớn, nơi này tràn ngập với hàng trăm
ngàn Phật tử, từng nhóm gia đ́nh đă
vui vẽ tham dự picnic trong vùng đền
đài đổ nát và
đă cử hành những
nghi lễ dưới tàng cây Bồ Đề. Gần
đó tại Mihintale c̣n có những di tích quan trọng
khác, Mihintale là nơi mà Ngài Mahinda đă thuyết
giảng bài pháp đầu tiên
cho vua Devanampiya-Tissa. Những đền đài
di tích của thủ đô Polonnaruwa sau này
[từ thế kỷ thứ 9 trở đi]
cho thấy ảnh hưởng văn hóa của
Ấn giáo và Phật giáo Đại
Thừa vẫn c̣n nhiều
phức tạp hơn.
Các bảo tháp ở Sri Lanka được
kiến trúc gồm một mái
ṿm cầu trên có một nền h́nh vuông với
nhiều ô vuông và trên cùng có chóp h́nh nón, như
là tháp Ruwanweliseya, (phía trên bên phải) được
xây dựng tại
Anuradhapura (thế kỷ thứ 3 trước
Công nguyên) là một ví dụ.
|
|