Phật Giáo và dãy Hi Mã Lạp Sơn
Bhante S. Dhammika/www.buddhanet.net .
Nguyễn Văn Hoà chuyển ngữ
Phật tử chùa Pháp Luân chụp chung tại chùa Namo Buddha trên đỉnh một ngọn núi ở dãy Himalaya
Hi Mã Lạp Sơn là dãy núi có những ngọn núi cao nhất thế giới. Tạo thành một cấu trúc khổng lồ dài 2.500 km, giữa 2 cho đến 300 km chiều rộng và nằm tại ranh giới phía bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Kinh Bổn Sinh mô tả dãy Hi Mã Lạp Sơn là một khu vực rộng lớn, cao năm trăm yogana (3500 dặm Anh) và ba ngàn bề rộng' (Ja.V, 415). Đối với người Ấn Độ ngày xưa đó là ‘rặng núi ngàn đỉnh’ hay còn gọi là ‘thước đo của thế gian.’ Các vị giáo sĩ của Ấn Giáo biết chúng là Devabhumi, ‘là nơi trú ngụ của Thần Thánh’ trong khi Ðức Phật gọi là chúng Pabbataràja, ‘Sơn Thần’(S. II, 137).
Ý nghĩa chính xác tên của Himalaya thì không chắc chắn. Nó có thể đã được hình thành từ các chữ hima và mala có nghĩa là 'vòng hoa của tuyết' hoặc từ hima và alaya nghĩa là "nơi ở của tuyết '. Cả hai ý nghĩa thì thích hợp với những dãy núi hùng vĩ này. Quan sát từ xa trong mùa hè hoặc mùa đông chúng tạo ra một phong thái của chuỗi hoa màu trắng tinh khiết và cho dù tiết trời ấm áp phủ xuống các thung lũng trong mùa hè như thế nào nó vẫn luôn luôn có tuyết trên đường chân trời.
Mặc dù được biết đến với Ấn Độ giáo hơn, dãy Hi Mã Lạp Sơn thường được đề cập trong kinh điển Phật giáo và đã thân thuộc với Ðức Phật. Ngài đã có thể nhìn thấy các lớp băng tuyết lớn đó và kết thành lũy đá dài trước khi Ngài từ bỏ thế giới và bắt đầu tìm kiếm chân đế. Thu hút sự chú ý của mọi người ngọn núi Dhaulagir cao 8.167 mét đứng xừng xững ngoạn mục có thể được nhìn thấy rõ ràng từ quê nhà Kapilavatthu. Có lẽ Ngài đã đặc biệt đặt ngọn núi này trong tâm trí khi Ngài so sánh người đạo đức với ánh sáng mặt trời chói trên đỉnh núi tuyết;
Người hiền dù ở xa,
Hiện ra như núi tuyết.
Kẻ ác dù đứng gần,
Như tên bắn trong đêm.
(Dhp.304).
Ngay sau khi Đức Phật giác ngộ được biết là Ngài đã sử dụng thần thông đến thăm Hồ Anotatta mà bây giờ được xác định là hồ Manasarovar ở chân núi Kilash (Vin.I, 27). Vào những năm cuối đời, Ngài thỉnh thoảng ở lại ít lâu trong một túp lều trong rừng ở vùng Hi Mã Lạp Sơn, có thể là khu rừng rậm rạp Kumon hay khu đồi thấp Mahabarata của Nepal (SI, 116). Đức Phật có thể đã đi một lần thật khó có thể biết là bao xa trong núi, nhưng Ngài đã đề cập đến những nơi gồ ghề không đồng đều ở dãy Hi Mã Lạp Sơn, nơi những người thợ săn có thể đến để săn mồi và xa hơn thế nữa Ngài vào những khu vực nơi không có bóng người và thú lai vãng (SV , 148).
Một vài đại đệ tử của Ngài, theo truyền thống tu khổ hạnh, đã đi lên những ngọn núi để tìm sự yên bình và tĩnh mịch. Trong kinh Bổn Sanh, Đức Phật thêm vào bằng cách hỏi các tăng lữ tùy tùng, 'các con có muốn tản bộ trong dãy Himalaya không? " (Gacchissatha Pana Himavanta càrikaü, Ja.V, 415) " Tính năng nổi bật trong dãy Himalaya là khai phá Phật giáo. Ấn Độ đã được biết đến với Phật giáo cổ xưa như Jambudipa và là một trong những thế giới, bốn lục địa tuyệt vời. Biên giới phía bắc của vùng đất này đã được xác định bởi dãy núi Usiraddhaja (Vin.IV, 197) và hơn thế nữa đó là dãy Himalaya, các khu vực được gọi là đôi khi Himava, Himacala hoặc Himavata.
Kinh Bổn sanh ghi rõ nhiều hang động, cao nguyên, thung lũng, nơi ẩn dật và các con sông ở dãy Hi Mã Lạp Sơn, nhưng hầu như không còn nơi nào trong số này có thể được xác định ngày hôm nay. Hang động nổi tiếng nhất là ở chân núi Nanda và vì thế đã được biết đến như là hang Nandamula. Vị Phật Độc Giác (Pacceka) được đề cập như là đã sống trong hang động này và bay từ đó đến Benares hoặc ở nơi khác ở Ấn Độ, và ngược lại (Ja.III, 157.190.230.259). Ở một nơi mô tả là một trong những thánh thiện bí ẩn như thế này; Ngài mặc áo càsa đỏ như cánh kiến, tối đen như một đám mây mưa, giây lưng của Ngài màu vàng giống như ánh sáng của sét và cái bát bằng đất sét treo qua vai của Ngài màu nâu của con ong thợ. Ngài bay vào trong hư không và sau khi thuyết một bài Pháp, Ngài bay tới hang động Nandamula ở phía bắc dãy Hi Ma Lạp Sơn (J. IV, 114).
Bảy của các hồ lớn nhất là Kannamundaka, Rathakara, Sihapapata, Chaddanta, Tiyaggala, Anotatta và Kunala và một số các đỉnh núi nổi bật là Manipabbata, Hingulapabbata, Ajanapabbata, Sanupabbata và Phalikapabbata (Ja.V, 415). Hai đỉnh núi có thể được xác định là Kelasa, bây giờ được gọi là Kilash (Ja.VI, 490) và dĩ nhiên Nandadevi cao 7.817 m, là đỉnh cao thứ hai tại Ấn Độ (Ja.IV, 216.230.233). Trong số các dãy núi đầu tiên của dãy Hi Mã Lạp Sơn hoặc có lẽ chúng nằm ngoài (địa lý cổ xưa đôi khi không rõ ràng hoặc là mâu thuẫn) là Uttarakuru, Bắc Kuru, mà từ đó các quận hiện đại của Kulu là nguồn gốc tên gọi của nó. Uttarakuru được xem là vườn địa đàng, một thiên đường của nắng và tình yêu vĩnh cửu, nơi thảo dược chữa bệnh và hoa thơm đã tăng trưởng trong sự phong phú và tất cả các loại sinh vật sống tuyệt vời mà không cần chăm sóc hoặc làm việc cực nhọc.
Dựa theo kinh Atanatiya thì lúa gạo tự mọc ở Uttarakuru không cần người gieo, có mùi thơm và không có trấu, những khách du lịch ngồi trên lưng của ngựa con duyên dáng, những cây trái luôn luôn nặng trĩu với trái cây và những con công ca hát, những con diệc gọi nhau và chim cu nhẹ nhàng gáy (D. III, 199). Ở một nơi tại Uttarakuru Kuver, ông vua của phía bắc và thần may mắn đã có cung ngà điện ngọc tại đó. (D. III, 201). Nếu ngày nay những du khách du lịch ngang qua Garhwal hoặc Kumaon, ít nhất là trong thời gian mùa xuân, họ có thể dễ dàng hiểu làm thế nào mà truyền thuyết được loan truyền. Những khu vực này đã cho người du khách toàn cảnh đẹp nhất để được nhìn thấy bất cứ nơi nào trên trái đất.
Phía bên kia dãy Hi Mã Lạp Sơn là ngọn núi lớn tên là Kelasa, Seneru, Neru hoặc Meru được cho là trục của thế giới, là điểm mà tại đó trong bốn lục địa lớn đã gặp nhau (S. II, 139, Ja.I, 25, III, 247). Meru tương ứng với núi Kilash gần rìa phía nam của cao nguyên Tây Tạng. Mặc dù không có nghĩa là núi loftiest tại khu vực tất cả các đỉnh núi chung quanh núi Kilash thì thật thấp hơn nhiều so với nó, cho nó ấn tượng về chiều cao bao la và hùng vĩ. Đỉnh núi tuyết Kilash hình kim tự tháp hiện rõ ở chân trời với những đường đen đậm nét tạo cho nó một hình dạng thu hút đặc biệt. Mặc dù có những phần rất huyền ảo và những phần khác hoàn toàn trái ngược, nhưng nhận thức của Phật giáo cổ xưa về Ấn Ðộ và vùng phía bắc Ấn tương đối khá chính xác.
Himalaya là bối cảnh cho nhiều câu chuyện của kinh Bổn sanh. Trong nhiều kiếp sống trong quá khứ của Đức Phật Ngài đã từ bỏ thế giới bên ngoài và đã đi để sống như một tu sĩ ẩn dật tại vùng núi hoặc đã an dưỡng vào cuối cuộc sống của mình (ví dụ như Ja.I, 140.362.371.406.440). Đức Phật và các nhà tu khổ hạnh khác sống trong rừng và dùng trái cây và ngũ cốc làm thực phẩm và thường làm bạn với các động vật hoang dã. Khi mùa đông đến gần họ sẽ đi xuống vùng đồng bằng để tránh cái lạnh, và để thu thập muối, dấm và các nguồn cung cấp khác sau bốn tháng mùa đông thì Ngài trở về sống tại Himalaya. Kinh Bổn sanh giải thích, 'Bây giờ tại Himalayas, trong mùa mưa, khi những cơn mưa tầm tả kéo dài không ngừng, vì không thể nào đào bất kỳ loại củ hay rễ, hoặc có thể hái được bất kỳ loại trái cây dại nào, và lá cây bắt đầu rụng, các nhà tu khổ hạnh ở hầu hết các nơi của rặng Himalaya phải xuống núi, và rời bỏ nơi ở của họ để chấp nhận những nhọc nhằn của con người'(Ja.III, 37).
Có lẽ Ngài Bodhisattva và các nhà tu khổ hạnh khác trước và sau Ngài là những người đầu tiên đã tìm ra những thung lũng xa xôi của dãy núi Himalaya và đã mang lại cho Ấn Độ những hình ảnh rõ ràng về miền đất thiên nhiên, tuyệt vời và đầy sinh khí này. Trong kinh Bổn Sanh tuyệt đẹp Ngài Bodhisattva được kể lại là đã đi theo sông Hằng đến tận miền núi đến nơi mà sông Migasammata chảy vào sông Hằng và sau đó theo con sông thứ hai này cho đến khi Ngài đến một nơi thích hợp để xây dựng một tỉnh thất (Ja.VI, 72). Giòng sông Migasammata có lẽ tương ứng với sông Alakanda đã chảy vào sông Hằng gần địa danh Devaprayag. Nhiều vua chúa khác nhau có thể cũng đã góp phần trong việc khám phá ra vùng đất này. Kinh Bổn Sanh có đề cập đến một vị vua đã gửi một đoàn thám hiểm vào dãy Himalayas do một số tiều phu hướng dẫn. Họ đã cột một số bè lại với nhau và chèo lên thượng dòng của sông Hằng (Ja.III, 371).
Phật giáo đến vùng Himalaya rất sớm. Sau khi vua Asoka cho kết tập Tam Tạng lần thứ ba, năm nhà sư do vị thánh A La hán Majjhima hướng dẫn đã được gửi đến vùng Himalaya để truyền bá Giáo Pháp (Mahavamsa XII, 6). Thật không may, kinh điển đã không ghi chép lại là phần đất nào của vùng này mà Ngài Majjhima và phái đòan đã đến mặc dù có lẽ đó là vùng Kashmir hoặc là thung lũng Kathmandu. Khi Ngài Huyền Trang một tăng sĩ người Trung Quốc viếng thăm Kulu và các thung lũng xung quanh vào thế kỷ thứ 7 thì một số đông Phật tử vẫn còn hiện diện trong khu vực này. 'Đất đai nơi này phong phú, màu mỡ và ngũ cốc được gieo giống và hoa màu thu thập dồi dào. Hoa quả dẩy đầy, cây cối và rau cỏ tốt tươi phong phú. Ẩn mình ở giữa vùng núi tuyết mà có thể tìm thấy nơi đây nhiều loại dược thảo rất có giá trị. Vàng, bạc và đồng và cả đồng thỏi cũng được tìm thấy nơi đây. Khí hậu nơi đây lạnh lẻo bất thường thêm vào đó gió tuyết và mưa đá thường hay đổ xuống.
Dân chúng nơi đây mộc mạc, ăn mặc bình dị. Bản chất của họ rất dũng mãnh và can trường tuy nhiên họ rất tôn trọng công bình và quả cảm. Nơi đây có khoảng hai mươi tu viện và trên dưới một ngàn tăng sĩ . Phần lớn họ nghiên cứu thực hành theo tông phái Đại thừa tuy vậy cũng có một số ít theo các trường phái khác. Đây là nơi trú ngụ của các vị A La Hán và Bồ tát. Ở giữa của địa hạt là một bảo tháp được xây dựng bởi vua Asoka. Đã có một thời gần như toàn bộ khu vực Himalaya là khu vực theo Phật giáo và thậm chí ngày nay các vùng như Ladhkh, Zanskar, Lahaul, Spiti, Kinnaur, Mustang, Sikkim và Bhutan thì Phật giáo vẫn còn chiếm đa số.
Ngày nay du khách đến các vùng Garhwal hoặc Kumaon của dãy Himalaya hầu như sẽ không tìm thấy dấu vết cổ xưa của Phật giáo trong vùng Himalaya. Ngôi đền cổ xưa yêu dấu tại Nala nay đã trở thành một ngôi đền Hindu ít nhất một ngàn năm. Nhưng Bảo Tháp bằng đá ở bốn góc của ngôi đền và các tượng Phật sứt mẽ còn lại ở bên trong , cho thấy rằng thuở xưa đây là một ngôi chùa Phật Giáo. Ở phía bên kia sông tại thị trấn Mandi có một vài hang động đục khắc sâu trong đá mà trong đó các nhà sư Phật giáo đã từng sinh sống và tu tập. Nhiều người tị nạn Tây Tạng đã thành lập cộng đồng và tu viện ở Garhwal và Kumaon ở những nơi như Dharmasala và Manali. Họ cũng đã trùng tu và ngay cả tái tạo những vùng Phật giáo thiêng liêng như Rawalsa, được coi là nơi Padmasambhava chào đời
|