Trang Pháp Đàm
GHI CHÉP NHỮNG CÂU VẤN ĐÁP PHẬT HỌC TRONG ROOM DIỆU PHÁP
Minh Hạnh thực hiện
Phật Tử Minh Hạnhđă nghe lại băng giảng để đánh máy và đăng vào diễn
đàn để làm lợi lạc cho đại chúng Nếu có ǵ sơ xót, con kính xin chư Tôn Đức
và quí Phật tử niệm t́nh.
Nguyện đem công đức này hồi hứơng đến tứ ân phụ mẫu, đến chư thiên và tất
cả chúng sanh đồng thành Phật đao. Nguyện cho đời này và măi mải những đời
sau có chánh tín và chánh trí.. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Dieuhong2 hỏi : Kính thưa Sư có phải ngừơi xấu có ngă mạn cao
thừơng hay khoe khoang xưng ḿnh là vua là lănh tụ có phải vậy không ?
TT Giác Chánh trả lời :
Cái
điều này th́ chúng tôi nghĩ rằng là không nhứt thiết là ngừơi xấu, chỉ
là ngă mạn thôi đôi khi những người đó cũng có nguyên nhân nào đó mà
người ta được tôn xưng , c̣n là phàm nhân th́ có cái ngă mạn, đó là việc
b́nh thừơng, c̣n nói xấu th́ nó xấu, tốt, tốt, xấu th́ chỉ là tương đối
thôi.
Vô-danh-khach hỏi : Sự quy-y tam bảo có quy y tướng và quy-y tâm, xin
quí sư chỉ dạy thế nào là quy y tứơng ??? Thế nào quy y tâm mong quí
ngài giảng rộng nghĩa này.
TT. Trí Siêu trả lời :
Kính thưa quí vị ở trong câu hỏi số hai này Vodanhkhach đă nêu ra một
câu hỏi cũng rất đặc biệt rất hay mặc dầu cái đề tài đó không phải là đề
tài quá cao siêu, nhưng mà cái đề tài này là một cái đề tài có ích lợi.
Nhưng trứơc hết th́ chúng tôi cũng xin được tŕnh bày ở đây những từ ngữ
mà chúng ta sử dụng, những từ ngữ đó do chúng ta qui ước và chúng ta tạm
sài trong một cái khái niệm ngôn ngữ, gọi là khái niệm ngôn ngữ chứ cái
ư nghĩa nó không độc nhất với mọi trừơng hợp thí dụ như trong trừơng hợp
mà chúng ta qui y Tam Bảo, nếu mà chúng ta chỉ qui y bằng cái h́nh thức
nhưng mà tâm của chúng ta thật sự chúng ta không có cái sự ngưỡng mộ đối
với Đức Phật hay là chúng ta không có cái tâm thiết tha với chánh pháp
hoặc là chúng ta không có niềm tin, niềm tịnh tín nơi Tam Bảo th́ trong
trừơng hợp đó người này họ quy y chỉ là quy y bằng cái h́nh thức, quy y
tướng chứ họ không có quy y tâm.
Chúng ta thấy có những gia đ́nh những ngừơi cha người mẹ biết Phật pháp
rồi dẫn dắt những đứa con vào chùa và khuyên nó quy y Phật Pháp Tăng, v́
vâng lời cha mẹ nên nó cũng qui y đối diện trước kim thân Phật và đối
diện trứơc Chư Tăng để thốt lên những lời quy y và chư Tăng truyền ngũ
giới cho họ, nhưng mà sau đó họ trở về nhà th́ hoàn toàn họ không có một
cái niệm ǵ về Đức Phật, giáo pháp và Chư Tăng cả, th́ trong trường hợp
này chúng ta cũng có thể gọi ngừơi đó là quy y tứơng chứ không quy y
tâm.
Lại nữa trong trường hợp khác chúng ta cũng nên biết thí dụ như một
ngừơi mà họ đến họ đảnh lễ Đức Phật họ tỏ cái sự cung kính, họ đảnh lễ
Đức Phật với cái tâm cung kính và họ xin qui ngữơng nơi Ngài, xin qui y
nơi Ngài nhưng mà ngừơi đó giả dụ như họ là một ngừơi thuộc ḍng Thích
Ca họ đi đến đảnh lễ Đức Phật qui y Phật v́ họ nghĩ rằng Đức Thế Tôn
cũng xuất thân là hoàng tộc là đế vương là một địa vị cao quí ta nương
tựa nơi Ngài để ta có được cái thế lực lớn, họ nghĩ như vậy với tâm niệm
như vậy không phải là sự qui y tâm,
Mặc dầu đối diện trứơc mặt Đức Phật th́ họ cũng cung kính bái bạch là
con xin quy y Phật đến trọn đời, ở đây trong trừơng hợp đó chúng ta
rất dễ hiểu khi mà chúng ta nhận thức cái điều này xuyên qua kinh nghiệm
cá nhân bản thân chúng ta, khi nào mà chúng ta đă qui y Tam Baỏ rồi
nhưng mà trong tâm của chúng ta c̣n có sự nghi ngờ về cái sự giác ngộ
của Đức Phật hay là chúng ta c̣n khởi lên tà kiến hiểu lầm chính pháp
hiểu lầm lời dạy của Đức Phật th́ xem như là cái sự bận nhơ tâm quy th́
đó là sự quy y không có tốt đẹp, bởi v́ chỉ quy y tướng chứ không quy y
tâm đây là một điều chúng tôi cũng xin phép gợi ư cho các Phật tử chúng
ta . Và bây giờ chúng tôi xin phép ngừng ở đây. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Đại Huệ hỏi : Thưa Sư trạng thái tủi thân có phải là một chướng ngại cho
hành giả tu hành theo Đạo Phật, theo kinh sách th́ trạng thái này thuộc
loại nào và đựơc gọi ra sao , kính mong Qui' Sư từ bi chỉ dạy, Mô Phật.
TT. Trí Siêu trả
lời
câu hỏi :
Nam Mô Bổn Su* Thích Ca Mâu Ni Phật , với câu hỏi vừa rồi th́ chúng tôi
xin được phép trả lời như sau, trạng thái tủi thân đây là trạng thái
phiền năo và được xem như là một chứơng ngại tinh thần cho vị hành giả
tu tập, cái trạng thái tủi thân nó là một dạng rất tế nhị của tâm sân,
ngừoi mà có sự tủi thân luôn luôn là có cái tâm âu sầu có
cái tâm buồn bực khó chịu không phải là trạng thái tâm hỷ lạc, v́ vậy
cho nên trạng thái tủi thân đó được xem như là một trạng thái
chướng ngại tinh thần , mặc dù trong năm pháp chứơng ngại tức là năm
pháp triền cái ngăn chia thiền định và đạo quả những cái phiền năo triền
cái đó ở đây chúng ta không thể xác định cái trạng thái tủi thân nó
thuộc về pháp chướng ngại nào , nhưng mà nếu xét trên phương diện tâm lư
th́ ở dạng A Tỳ Đàm giải thích rơ ràng ở đây chúng ta cũng
biết là cái ǵ trạng thái nào mà nó thuộc về cái sự bức xức, cái sự khó
chịu thuộc về tâm th́ cái đó nó nằm ở trong trạng thái của phiền năo sân
cả, ở đây sự khổ có hai loại , cái khổ thân như là thân đau đớn nhức
nhối, châm chích khó chịu thuộc về thân thức thọ khổ tâm thân thức thọ
khổ , và sự khổ thứ hai nữa là sự khổ thuộc về tâm, chi pháp nào là
thuộc về tâm chứ không phải ở đây mà chúng ta sài theo cái nghĩa chuyên
môn là tâm sở v.v... th́ khổ nào thuộc về tâm đó sẽ ám chỉ cho hai
tâm sân v́ hai tâm sân này là một trạng thái thọ ưu tức là buồn bực, bực
bội và tức là tương ưng với phẩm uế hay là tương ưng với sự bực
tức giận dữ buồn phiền với cái thái độ của sân tâm th́ bao giờ cho
dù rằng vi tế hay là thô thiển th́ cũng là cái trạng thái buồn bực ở
trong ḷng một cái trạng thái bất an ở trong ḷng , ở đây khi mà chúng
ta khi sanh khởi cái trạng thái tủi thân th́ lúc bấy giờ thưa quí vị
chúng ta không có yên tâm để mà tu tập, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng
cảm thấy như là có một cái áng mây đen mà che chắn ở phiá trước không có
nh́n rơ, trí tuệ ở thể phát sanh ở nơi đó và ở đây thưa quí vị là một
hành giả tu tập th́ khi mà chúng ta có những trạng thái bất thiện pháp
và làm cho tâm này bị giao động bị suy tinh thần , làm cho bị suy sụp
tinh thần th́ những trạng thái đó được hiểu rằng đây là những
trạng thái chướng ngại tinh thần, do vậy nên tủi thân cũng là một chứơng
ngại tinh thần cho một hành giả tu tập , chúng tôi xin được trả lời cái
câu hỏi một cách tóm tắt như vậy.
Dieuhong2
hỏi : Thưa Sư, các Tăng và Ni phải đi riêng, vậy th́ Nữ Phật Tủ
chúng con có đựơc đi tham quan cảnh-chùa các nơi cùng với Sư không, có
gặp nghi vấn ǵ không ?
TT. Giác Đẳng trả
lời
câu hỏi :
Thưa quí vị chúng tôi xin được trả lời ngắn gọn cho câu hỏi này, v́ hồi
năy chúng tôi có đề cập đến, thật ra th́ chúng tôi nói đi riêng ở đây
thí dụ như trong một buổi lễ nếu mà Chư Tăng đi vào trong chánh
điện, hay là trong một đoàn đi th́ Tăng với Ni đi chung với nhau chuyện
đó nó không có thích hợp với giới luật của đạo Phật, Tăng đi một nhóm và
Ni đi một nhóm nhưng mà không có nghĩa là đi ra ngoài thí dụ đến thăm
chùa này chùa khác mà Tăng phải đi riêng Ni phải đi riêng dĩ nhiên là
nếu mà một Tăng một Ni cùng đi chung với nhau mà vị Tăng vị Ni đó cùng
tuổi với nhau mà đi cùng th́ chuyện đó coi không đẹp chút nào hết, không
phải riêng về đời sống xuất gia mà ngay cả ở ngoài thế gian việc đó cũng
nên tránh do đó câu hỏi của Phật tử là đi chung với chư Tăng th́ quí vị
có thể đi chung với chư Tăng cũng được.
Nhưng mà đó cũng là một vấn đề chúng ta có thể dùng cái quan niệm thường
thức của ḿnh để làm sao đi cho nó thích hợp, thí dụ như là chúng ta đề
cập đến việc đó chúng ta phải nói về phương diện tuổi tác nói về phương
diện đi giả sử như là một vị Tăng có thể đi nhiều ngừơi Phật tử ở trong
đó, có một số nữ Phật tử một số nam Phật tử, nói chung là năm, ba người
cùng đi chung với nhau th́ việc đó nó không phải là vấn đề, ở đây chúng
tôi chỉ nói khi mà đi chung là ví dụ như là những buổi lễ sắp được cử
hành ở trong chánh điện và chư Tăng Ni đang từ từ tiến vào trong chánh
điện th́ trong trừơng hợp này cái cách xưa nay ngừơi ta xắp xếp cũng c̣n
hợp lư tới ngày hôm nay, đó là tất cả chư Tăng tức là bên nam Tỳ
Kheo Sa Di th́ thừơng đi chung một nhóm và tiếp theo là bên Ni đi chung
một nhóm.
Nên
có nhiều trừơng hợp là các vị Sư bà các vị Ni Sư phải đi sau các vị Sa
Di th́ về điểm này chúng tôi thấy rằng đó là một việc tự nhiên vậy,
không có cách nào khác, nhưng mà theo một việc sắp xếp hiện tại bây giờ
là trong những hàng ghế ở đầu th́ ngoài chư Tăng ra th́ có các vị quan
khách đựơc mời đến cũng nên có một chiếc ghế dành cho các vị Ni Sư hay
Sư Bà là những vị lănh đạo bên Ni chúng , đó là một câu mà chúng tôi xin
đựơc góp ư nhanh chóng đối với câu hỏi này.
Nguoivietnambuon001 hỏi : Thưa Thầy, nếu nói xác thân này là giả tạo,
vậy nếu khi ḿnh mất một phần thân thể, ḿnh có quyền tự tử để
tránh khổ không ? Kính xin Thầy giải thích.
TT. Giác Đẳng trả
lời
câu hỏi :
Thưa đạo hữu chúng tôi không thật sự biết được từ một bối cảnh nào mà
đạo hữu đặt câu hỏi này, nhưng mà nếu có một điều ǵ đó là một nỗi buồn
cho ḿnh hay cho những người thân cảm của ḿnh ở trong một cảnh ngộ như
vậy th́ chúng tôi thành thật chia sẽ và mong rằng những ai gặp cảnh ngộ
như vậy đó sẽ đủ cái can đảm để t́m thấy đựơc cái niềm vui khác.
Thưa đạo
hữu là tự tử không phải là một giải pháp, rất là hiếm khi nó là một giải
pháp tốt đẹp của đời sống và không có bằng chứng ǵ ở trong kinh
điển cho chúng ta thấy rằng tự tử có nghỉa là chúng ta sẽ ra đi và t́m
về bên kia thế giới, một thế giới b́nh yên hơn một thế giới đẹp hơn ,
thật ra chúng ta nên quí trọng đời sống này và không có bằng chứng ǵ
cho thấy rằng cái bước đi sắp tới nó là bảo đảm sẽ tốt hơn đời sống này
hết không phải là chúng ta quá bi quan về tương lai nhưng là một người
học Phật hiểu được rằng trong cái kiếp sống luân hồi sanh tử từ đời sống
này bước qua đời sống khác thưa quí vị nó là một cuộc phiêu lưu nó là
một cuộc hành tŕnh diệu vợi mà chúng ta có rất ít quyền kiểm soát về nó
chúng ta phải đi theo cái nghiệp của ḿnh ngay cả một ngừơi dùng phương
cách tự sát mà bằng cách thí dụ như uống thuốc chẳng hạn th́ thưa quí vị
rất có thể rằng ở trong cái giây phút cuối cùng một giây phút mà ngay cả
người thân ở ngoài cũng không thấy đựơc, giây phút cuối cùng ngừơi đó có
thể khởi nên một cái tâm phiền năo, và khi chúng ta mất với một cái tâm
tư buồn bă muốn từ chối cả thế giới này th́ cái tâm tư buồn đó nó không
có hứa hẹn ǵ một cái kiếp sau nó sẽ tốt đẹp hơn, chúng ta hăy nói một
cách ngược lại như vầy là cho dù một phần cơ thể nào ở trong ngừơi nó có
bị mất đi không c̣n đựơc lành lặn nguyên vẹn nữa nhưng mà nếu chúng ta
c̣n có hơi thở c̣n có một tâm tư tỉnh táo th́ chúng ta có thể thiền định
đựơc và chúng ta nên vận dụng cái kiếp ngừơi quí báu này để có thể làm
những công việc thật sự là có ích lợi cho bản thân của chúng ta được.
Nếu mà có bất cứ ai muốn có một cái nh́n hơn về điểm này th́ xin thưa là
chúng ta hẵy đọc kinh Hiền Ngu ở trong Trung Bộ Kinh và trong nhiều bài
kinh khác Đức Phật Ngài đề cập đến khi mà chúng sanh rơi vào trong cảnh
khổ tức là không phải sanh làm người mà sanh vào trong địa ngục trong
ngă qủi a tu la bàng sanh v. v... th́ cái cơ may để sanh lại kiếp người
rất là mỏng manh, không phải nó rất là mỏng manh mà rất là hiếm, chúng
ta lấy một luận cứ đơn giản là khi mà chúng ta rời khỏi cái thế giới này
bằng một cái tâm tư như thế nào th́ cái tư tưởng cuối cùng đó nó ảnh
hửơng rất lớn cho cái cảnh giới tái sanh của ḿnh và bởi v́ ảnh hửơng
lớn như vậy đó, cái ǵ bảo đảm cho chúng ta biết rằng chúng ta sẽ
rời thế giới bằng cái tâm tư an lành, chỉ có sự tu tập ở trong kiếp này,
nếu chúng ta sanh làm một con kiến hay một con vật hay là sanh làm chúng
sanh trong cơi khổ th́ thưa quí vị cơ may mà để nghĩ đến điều kiện để an
trú trong thiện vả để sống nơi tư tưởng thiện là những cái tư tưởng rất
khó có thể t́m thấy, th́ thưa quí Phật tử đối với ngừơi hiểu đạo th́ ra
đi trong kiếp luân hồi nó là cuộc phiêu lưu vô tận ở trong cuộc phiêu
lưu đó có lẽ là nó không phải là sự lựa chọn sáng suốt hơn là cái ǵ
ḿnh có được.
Nếu trong kiếp sống này mà chúng ta có túc duyên biết được Phật Pháp có
cái duyên lành biết đựơc Phật Pháp, có cái duyên lành để đựơc đón nhận
một số ư tửơng cao đẹp trong ḷng th́ chúng ta hăy dùng cái đó làm
hành trang dùng cái đó làm tư lương để từ chỗ đó chúng ta có thể xây
dựng đựơc một cái nguồn an lạc nội tại hơn là nghĩ đến cái chuyện
tự tử nguyên sinh, bởi v́ tự tử nguyên sinh không có bảo đảm rằng chúng
ta sẽ có một kiếp sau tốt hơn kiếp này và chúng tôi hoàn toàn chia sẽ
cái nỗi khổ tâm cái nỗi thương tâm của một con ngừơi sống mà ḿnh t́m
thấy rằng đời sống ḿnh bất toàn về một phương diện mà c̣n mang một
khuyết tật nào đó, nhưng nếu chúng ta có thể dùng những cái tâm tư buồn
bă để biến nó trở thành một cái khác vọng, một cuộc sống tốt đẹp với
thiện pháp th́ không chừng những điểu đó nó giúp cho chúng ta rất nhiều.
Câu
hỏi của Minh Hạnh : Tại sao con người lại có căn tánh khác nhau,
ngừơi có tánh tham ái th́ thường hay tham luyến người luyến cảnh , ngừơi
có đức tin th́ cái ǵ cũng tin ai cũng tin. Vậy có phải là do hoàn cảnh
gia đ́nh hoàn cảnh xă hội, hay là do tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp
trồng chất đến kiếp này không, có phải thường những người có đức tin th́
có tính tham ái luôn đi kèm theo không, người đó phải tu pháp môn nào để
diệt trừ cái phiền năo đo', kính xin Sư Trí Siêu từ bi giảng dạy cho
chúng con.
TT Trí Siêu
trả lời câu hỏi :
Ở đây một câu hỏi dài như vậy Sư xin được tóm tắt lại để trả lời cho
tất cả mọi ngừơi trong rơom đều hiểu, nếu sau khi trả lời xong nếu mà
Phật Tử có chỗ nào chưa hiểu th́ viết lên màn h́nh để Sư trả lời cho,
nếu chúng ta nói về những con ngừơi tại sao con ngừơi có những căn tánh
khác nhau th́ ở đây thưa quí vị có một định lư mà trong A Tỳ Đàm gọi là
thừơng cận y duyên là do các tánh nết tập quán mà ngừơi ấy từng huân tập
từ nhiều đời nhiều kiếp mà mỗi một đời sống sanh khởi th́ nó góp nhặt
từng chút từng chút cái tính đó lâu ngày cũng thành những thói quen như
người ta thường nói là ăn cắp quen tay ngủ ngày quen mắt hay là
chăm quen thành nết v.v...những câu đại loại như vậy nghĩa là chúng ta ở
trong đời này tại sao có những căn tánh khác nhau th́ chúng ta sẽ
nói rằng bởi v́ thừơng vận y duyên của mổi ngừơi đă huân tập các tánh
t́nh khác nhau cho nên bây giờ có những cá tánh khác nhau, nhưng mà
chúng ta nói thêm một điều nữa rằng sở dĩ mà chúng sanh có tâm tánh khác
nhau là bởi v́ cái tửơng khác nhau, tại sao cái tửơng khác nhau có những
ngừơi thích cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh xúc, cảnh vị, cảnh pháp, sắc
từơng, thinh tửơng, trí tưởng, vị tưởng, pháp tưởng v.v..
Khác nhau mỗi một ngừơi có một cái sở thích và chính v́ mỗi người có sở
thích như vậy cho nên dần dà có tánh ư khác nhau đó là cái vế thứ nhứt
mà Sư xin đựơc tŕnh bày ở đây có sáu tánh gọi là sáu cá tánh
riêng biệt của chúng sanh tức là tánh tham ái, tánh sân hận, tánh si mê
, tánh tư duy hay gọi là tánh tầm, tầm tức là t́m kiếm suy sét , tánh
đức tin, tánh trí tuệ hay tánh giác, saú cá tánh này gọi là sáu cá tánh
căn bản, chứ thực ra th́ chúng sanh có thể có hai trăm mấy chục cá tánh
dựa vào trong sáu cá tánh này mà phân bổ ra ngừơi nặng về cái tánh tham
ái ngừơi đó có thể có đựơc cái đức tin có thể nặng nề về đức tin,
ngừơi nặng về tánh đức tin ngừơi đó cũng có thể nặng về cái tánh tham ái
nhưng ngừơi đó cũng có thể nặng về cái tánh trí tuệ cũng có thiên về
tánh trí tuệ, ngược lại cũng có ngừơi nặng về tánh trí tuệ nhưng
mà người đó lại phụ thêm một cá tánh khác tức là cái tánh sân hay nóng
nảy cũng có những trừơng hợp đó, nói chung tức là theo trong chú giải tứ
niệm xứ, về thiền , thiền quán vipassana th́ các tánh của chúng sanh nó
khác nhau.
Trong Thanh Tịnh đạo cũng có đề cập đến các vấn đề đó tức là cá tánh của
chúng sanh không phải một ngừơi một cá tánh như là ngừơi tánh tham
hay là tánh sân ngừơi này chỉ tánh si hay là tánh tầm hay là tánh đức
tin không phải vậy, mà có thể một ngừơi hai, ba cá tánh nó pha trộn lại
đó là một điều mà chúng ta cần phải lưu ư bây giờ chúng ta
nói rằng cái ngừơi có đức tin th́ có tham ái cũng c̣n tùy chứ không phải
nhứt thiết là như vậy ngừơi có tâm tham ái nặng cũng có trừơng hợp là họ
không có đức tin mà họ chỉ tham ái phối hợp với tánh tầm tánh tư duy vậy
thôi hay là tánh si cũng vậy c̣n những người có tâm tham ái nhưng mà
cũng nặng về tánh đức tin đó là những cái trừơng hợp thí dụ như đối với
một người mà họ dễ có cái tâm thương cảm ngừơi khác họ dễ có cái tâm
kính phục ngừơi khác th́ từ cái chỗ tâm dễ kính phục dễ thương cảm
đó họ có thể phát sanh nên cái tham ái và có thể cùng một lúc họ phát
sanh nên cái niềm tin hai cái cá tánh đó nó hỗ trợ cho nhau tức là
v́ tin vào một đối tượng quá nhiều ngọai trừ ra là tin tưởng nơi Đức
Phật nơi các pháp th́ không có sự tham ái c̣n ngoài ra đó th́ một ngướ
niềm tin quá nhiều nhưng mà họ không phải dùng niềm tin trí tuệ th́ lúc
bấy giờ ái tham sanh khởi một người có tâm tham aí và chính do cái sự
tham ái thành thường cận y duyên th́ thúc đẩy cho niềm tin họ sanh
khởi, thí dụ bây giờ như thế này khi mà chúng ta có một cái sự quyến
luyến hay là có sự hoan hỷ trong cái thiên lệch về cái tâm bất thiện đối
với cái vị giảng sư hay một vị pháp sư lúc bây giờ chúng ta lại có niềm
tin là hễ vị đó nói cái ǵ, viết cái ǵ chúng ta cũng nghe hết, hễ tŕnh
bày cái ǵ chúng ta cũng thấy là đúng cảm thấy là hay cả th́ từ chỗ ái
tham đó là nền tảng mà có thể phát sanh nên niềm tin cũng có trường hợp
đó cho nên ở đây thưa quí vị nói về cá tánh cuả người đó th́ rất là nguy
hiểm, đời sống của chúng ta rất là nguy hiểm.
Và ở đây
trong những trừơng hợp đại loại như vậy th́ chúng ta phải tự xét ḿnh,
nếu chúng ta cảm thấy rằng dựa trên nền tảng chúng ta do đặt niểm tin
trứơc rồi sau đó tham ái phát sanh th́ chúng ta phải tu tập một pháp môn
khác để chúng ta có thể dẫn dắt lại cái đức tin của ḿnh, một
ngừơi khi mà họ có cái tâm luyến ái rồi sau đó họ mới đặt niềm tin nhờ
cái tâm luyến ái làm nền tảng cho thừơng cận y duyên làm năng duyên cho
phát sanh nên cái niềm tin th́ ở đây chúng ta cũng phải có một pháp môn
tu tập khác , nói đại khái như thế này khi mà chúng ta có đựơc cái niềm
tin với vị đó rồi với ngừơi đó rồi chính v́ cái niềm tin quá tin đi cho
nên đâm ra chúng ta thấy cái ǵ cũng đẹp, chúng ta thấy ngừơi đó cái ǵ
cũng đẹp cái ǵ cũng đáng kính cũng khả ái th́ lúc bấy giờ sau đó chúng
ta không khéo th́ chúng ta sẽ phát sanh tâm tham ái th́ lúc bấy giờ
chúng ta phải tu như thế này, chúng ta phải tu tuệ quán, chúng ta phải
dùng trí tuệ để tu tuệ quán, để quán sét tu tập trí tuệ đi song song với
đức tin th́ lúc bấy giờ trí tuệ đó nó sẽ giúp cho chúng ta có đức tin mà
không có tham ái v́ chúng ta nhận thức đựơc cái tánh chất, một là
cái tánh chất vô thường của các pháp hay tánh chất khổ đau của đời sống
v.v..
Khi
mà chúng ta có trí tuệ rơ như vậy chúng ta chận cái niềm tin đó
lại, chúng ta giữ cái niềm tin đó thôi chúng ta không để cho đi qua đến
chỗ gọi là luyến ái, đó là chiêu thức thứ nhứt, chiêu thức thứ hai khi
mà đối với trường hợp ngựơc lại là chúng ta có cái tâm tham ái rồi chúng
ta phát sanh cái niềm tin do cái sự ái luyến do cái sự ái mộ với một
ngừơi nào đó mà chúng ta phát sanh cái niềm tin thí dụ như bây giờ thế
này, một người là anh chàng đó từ hồi nào đến ǵơ không bao giờ đi chùa,
không từng nghe Phật pháp ǵ cả, không từng hứơng tâm về tu tập ǵ hết
nhưng mà khi quen với một ngừơi bạn gái của anh ta là một ngừơi
Phật tử thuần thành v́ lẽ đó cho nên anh ta v́ luyến ái cô này cho nên
cô này nói ǵ anh ta cũng nghe cả, cô này khéo nói khéo dẫn dắt như thế
nào đó mà một thời gian sau th́ anh ta lại có niềm tin đối với Phật Pháp
và anh ta đem niềm tin đối với Phật Pháp như là một tinh thần , một lư
tưởng chung cho cả hai th́ trong trường hợp đó chúng ta cũng phải trận
trọng là hễ mà có niềm tin được th́ tốt nhưng mà cái sự ái tham nó c̣n
là c̣n có sự khổ do vậy cho nên trong trừơng hợp này chúng ta phải tu
tập ǵ để chúng ta giảm trừ, ở đây thưa quí vị chúng tôi không muốn nói
rằng ngay trong hiện tại chúng ta có đủ sức để chúng ta đọan trừ những
cái ái tham nhưng mà chúng ta có thể nói rằng khi mà chúng ta
nhận thức được ái tham là khổ là nguyên nhân sanh sự khổ, sanh khổ đế
th́ lúc bấy giờ chúng ta phải tận diệt nó đi chúng ta phải giảm bớt đi,
phải hăm tốc độ nó lại đừng để cho nó đi quá trớn làm cho chúng ta phải
khổ và cái niềm tin chúng ta bị lung lạc do đó cho nên với cái ngừơi ái
tham là nền tảng cho cái niềm tin th́ lúc bấy giờ chúng ta phải tập tu
như thế nào, là chúng ta quán thân tứ đại cho thừơng xuyên, quán thân
thể trựơc cho thừơng xuyên quán nh́n cái sự khổ cho thừơng xuyên khi mà
chúng ta quán thân bất tịnh hay là quán cái sự vô thường th́ lúc
bấy giờ cái tâm tham ái chúng ta giảm bớt và do đó cho nên cái niềm tin
đựơc trau dồi trở lại được tô điểm trở lại như vậy th́ cả hai mặt một là
chúng ta lấy niềm tin một ngừơi có cá tánh nặng về đức tin rồi từ đó
phát sanh nên ái tham th́ chúng ta phải tu trí tuệ c̣n một ngừơi họ lấy
tham ái làm nền tảng để phát sanh niềm tin th́ lúc bấy giờ phải tu tập
về quán thân bất tịnh đó là trường hợp mà chúng ta phải chú
ư.
Thưa quí vị thật ra đó th́ Phật Pháp đa môn v́ chúng sanh đa bịnh ở đây
Sư vẫn c̣n là phàm phu, phàm phu Tăng Sư chưa có tha tâm thông để Sư
biết rơ được tâm tánh của mỗi ngừơi mỗi một chúng sanh mà thuyết pháp
cho thích hợp Sư chỉ y cứ vào một là kinh điển đă dạy ư nghĩa như thế
nào về những pháp môn tu hành, hai là sư y cứ vào kinh nghiệm tu tập của
bản thân và những ǵ Sư hiểu và tâm đắc có thể nói lên đây để gợi lại
cho chư Phật Tử chúng ta.
Mỹ Trinh hỏi : bạch Thầy con có câu hỏi là đệ tử chúng con cần phải
nương vào pháp môn nào để đựơc giải thoát con xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy
cho con hiểu rơ.
TT.
Trí Siêu
trả lời câu hỏi :
Câu hỏi cũa Mỹ Trinh về pháp môn để nương tu tập để đựơc giải thoát là
pháp môn nào ở đây chúng tôi cũng xin tŕnh bày với quí vị là một
câu hỏi như vậy có chiều rộng, chúng ta không thể nói một cách dứt khát
là cái pháp môn nào được bởi v́ tùy theo vị hành giả tu tập và tùy
theo cá tánh của mỗi ngừơi mà chúng ta phải có pháp môn thích hợp để gọi
là đạt đến cái sự giải thóat tức là đắc đạo quả niết bàn đây không phải
là một chuyện dễ thưa quí vị, không phải giống như những sinh viên y
khoa mà họ học ở trongtường đại học y khoa rồi tự mỗi ngừơi trọn cho
ḿnh một cái môn thích hợp, một cái môn nào đó để sau này họ có ra
làm bác sĩ họ chuyên ngọai khoa hay là nội khoa chúng ta không thể nói
như vậy được ở đây cái pháp môn tu tập đa dạng bởi thế cho nên có câu
nói rằng Phật pháp đa môn v́ chúng sanh đa dạng và v́ chúng sanh đa bịnh
mỗi một ngừơi mà chúng ta có một pháp môn khác nhau nhưng ở đây chúng
tọi cũng xin gợi ư với các vị là chúng ta có hai ngơ để chúng ta đi .
1) Ca'i ngo~ thứ nhứt là chúng ta phải làm như thế nạ để
chúng ta có đựơc viên măn cái phước BaLaMật nếu như cái nền tảng
phước BaLaMật mà chúng ta chưa có th́ như vậy là chúng ta khó có
thể thành tụ cái đạo giải thoát ngay trong hiện tại này phước BaLaMật ở
đây nếu nói theo kinh điển pali th́ chúng ta có mười pháp BaLaMật
tức là hạnh bố thí balamật , tŕ giới balamật, xuất gia balamật,
trí tuệ balamật, tinh tấn balamật, nhẫn nại balamật , chân thật balamật
, trí nguyện balamật, từ tâm balamật, hành xả balamật. nếu mà
chúng ta tự xét thấy cái tâm của ḿnh c̣n có sự keo kiết bỏn xẻn ít khi
nào chúng ta hoan hỷ bố thí xan xẻ cho người khác là chúng ta thiếu cái
sự thuần thục về pháp bố thí balamật nếu như trong đời sống hàng ngày
chúng ta không có sự quan tâm đến cái phẩm hạnh đến cái giới luật của
ḿnh chúng ta không có thiết tha không có hoan hỷ trong cái cách mà
chúng ta ngăn ngừa các thân ác nghiệp, khẩu ác nghiệp, ư ác nghiệp như
vậy chúng ta phải hiểu rằng chúng ta chưa có thuần thục về tŕ giới
balamật v.v..
Các pháp môn khác cũng như vậy nói cách khác là mười pháp balamật chúng
ta có hai cái pháp yếu một là làm bất cứ một thiện sự nào tâm của ḿnh
cũng hứơng đến sự xuất ly balamật hay gọi là xuất gia balamật , khi một
vị bồ tát tạo những công đức ǵ có phước báu tâm của vị bồ tát không có
những sự dính mắc ǵ ở trong cuộcx đời này mà tâm của vị bồ tát luôn
luôn có sự nhàm chán, luôn nhắc tới sự viễn ly đối với tam giới viễn ly
đối với kiếp sống nhiều đau khổ này đó là tâm lư xuất gia hay gọi là
xuất ly của vị bồ tát và yếu phap thứ hai nữa tức là trí nguyện balamật,
một vị bồ tát khi làm những công đức phước báu noà hoặc những
thiện sư nào vị ấy luôn luôn hứơng tâm nguyện công đức này để đạt thành
tụ đạo quả giải thoát trong tương lai, như vậy th́ khi mà chúngta bố thí
hay tŕ giới hay bất cứ một công đức thiện sự nạ khác mà chúng ta có
khởi lên hai cái tư tưởng một là chúng ta thật sự nhàm chán thế gian này
không có sự thiết tha đối với thế gian này , hai là chúng ta có tâm
nguyện vững chắc về cái sự giải thoát như vậy th́ những cái công đức
những cái phứơc báu được gọi là hạnh balamật, c̣n đối với một người bố
thí b́nh thường th́ ngừơi đó gọi là bố thí balamật đựơc như vậy th́ cái
ngơ thứ nhứt để chúng ta đi đến sự giải thoát là chúng ta phải làm sao
hoàn thành cái hạnh nguyện balamật của vị bồ tát.
2) C̣n bây giờ cái ngơ thứ hai là ngay trong hiện tại này chúng ta mới
đi vào con đường chánh tức là chúng ta đi vào cái pháp môn bát chánh đạo
hay giới định tuệ th́ cái ngơ đó nó sẽ giúp cho chúng ta đạt đến sự giải
thoát, thật ra thưa quí vị khi mà đề cập đến vấn đề các pháp môn tu tập
th́ ở đây đa dạng chúng ta phải tùy theo trừơng hợp chúng ta nói chúng
ta giải thích như cả khi mà những người họ đi đến bạch hỏi đức Phật chỉ
dẫn cho họ cái pháp môn tu tập th́ lúc bấy giờ không phải Đức Thế Tôn
tŕnh bày hết tất cả những cái pháp môn tu tập mà ngài sẽ dùng từ nhăn
để quan sát để quán xét cái tŕnh độ của chúng sanh đó căn cở của chúng
sanh đó rồi ngài mới chỉ cho một pháo môn thích hợp, ở đây thưa quí vị
khi mà ngừơi Phật Tử chúng ta tu tập chúng ta cần phải biết ḿnh có cá
tánh như thế nào rồi chúng ta mới lựa chọn pháp môn tu tập thích ứng cá
tánh của chúng là một ngừơi có tâm nặng về tham ái tức là chúng ta dễ
sanh ra cái sự quyến luyến ngướ cảnh v.v.
Thứ hai nữa là nặng về cái tâm sân hận cái tâm nóng nảy ngừơi ấy dễ cau
có dễ bất b́nh dễ nóng nảy khi gặp những cảnh trái ư nghịch ḷng
là ngừơi có tánh đa sân , ngừơi có tánh đa si là ngừơi này thừơng hay mơ
màng không có sự hiểu biết hay nói cách khác là họ chỉ làm mà thôi họ
không cần có sự suy nghĩ họ rất yếu đuối về trí tuệ ngừơi đó gọi
là ngừơi có tánh si, c̣n ngừơi có tính tư duy hay gọi là tính tầm, tức
là ngừơi này có cái tâm hay nghĩ ngợi mông lung họ ngồi đây chứ họ có
thể suy nghĩ về bất cứ chuyện ǵ ở nơi khác, ngừơi có tánh đức tin cũng
là một cái cá tánh , người này họ không có động năo nhiều họ không có
những cái trạng thái như là tham hoặc sân nặng nề nhưng mà ngừơi này lại
có cái tâm cả tin và gần như là cái tâm nhẹ dạ nghĩa là gặp cái ǵ cũng
tin cái ǵ có sự linh ứng một chút là họ cảm cần phải tin và cần phải
làm cho nó trở lên huyền hoặc trở lên linh động thêm th́ trong trừơng
hợp đó ngừơi có tánh đức tin , và cuối cùng là ngừơi có tánh trí tuệ
người này có tâm cân nhăc suy tư phân biệt gặp cái ǵ cũng suy nghĩ, th́
trong trường hợp đó chúng ta hăy tuỳ theo cái cá tánh của ḿnh xem ḿnh
nặng về cái cá tánh nào chúng ta mới chọn cái đề mục đó .
Ở đây chúng tôi không có thời gian nhiều để chỉ cho mỗi người một pháp
môn tu tập mà chúng ta nhắm về cái đề mục nào nhưng mà ở đây thưa quí vị
cái pháp môn mà tu tập để đưa đến sự giải thoát th́ pháp môn này không
ngoài ra tứ niệm xứ tức là con đường thiền quán, niệm thân niệm thọ niệm
tâm niệm pháp và trong niệm thân có nhiều loại đề mục niệm thọ có nhiều
loại đề mục đề tài trong niệm tâm có nhiều loại đề mục đề tài và trong
niệm pháp cũng có nhiều loại đề mục đề tài và theo các vị A Xà Lê kinh
nghiệm th́ các vị sẽ tŕnh bày cho chúng ta biết là ở mỗi một cái đề tài
như vậy chúng ta sẽ thích hợp, chúng ta sẽ lựa chọn cái thích hợlp với
căn tánh của ḿnh với cái đề tài như thế nào th́ cái điều đó nó đ̣i hỏi
chúng ta phải đi đến trực tiếp để gặp các vị Thiền sư hay là các bậc
Thầy để hứơng dẫn cho chúng ta về cái sự tu tập chứ không thể trong một
thời gian như thế này hay trong cái bối cảnh như mà chúng ta có thể học
được cái pháp môn đó mà chúng ta có thể thực hành một cách chu đáo ở đây
chúng tôi xin đựơc mạn phép trả lời cái câu hỏi như thế đó. Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Mỹ Trinh hỏi : xin
TT chỉ dạy cho đệ tử chúng con là làm cách nào mới gọi là có hiếu với
cha mẹ và cách nào là bất hiếu , xin TT hoan hỷ chỉ dạy cho con.
TT Trí Siêu
trả lời câu hỏi :
Ở đây trong
cái câu hỏi này thật ra nó có một vài vấn đề trong đó chúng tôi cũng
không phải nhắc ra đây làm mất thời gian, bây giờ chúng tôi trả lời một
cách tóm tắt như thế này trong kinh Trừơng Bộ Kinh Đức Thế Tôn đă thuyết
thanh niên nghe về cách lễ sáu phương hứơng, trong đó lễ phương đông là
lễ cha mẹ, phương đông để chỉ cho cha mẹ th́ Đức Phật dạy năm phận
sự của người con đối với cha me , thứ nhứt là khi c̣n nhỏ được cha
mẹ nuôi dưỡng th́ bây giờ ḿnh phải nuôi dưỡng lại cha mẹ, thứ hai những
công việc nặng nhọc nào mà cha mẹ đă làm cho ḿnh khi ḿnh c̣n nhỏ và
bây giờ ḿnh lớn lên rồi ḿnh phải gánh vác công việc nặng nhọc đó cho
cha mẹ, thứ ba phải giữ truyền thống gia đ́nh cho được tốt đẹp, thứ tư
là phải hành động xứng đáng lá ngừơi thừa tự tài sản của cha mẹ để lại,
thứ năm là sau khi cha mẹ qua đời phải làm các việc phước đức để hồi
hướng cho cha mẹ. Đó là năm phận sự của người con phải làm đối với
cha mẹ gọi là có hiếu.
Chỉ gọi là có hiếu thôi chứ không phải chúng ta làm như vậy mà đă trả
hết cái công ơn của cha me bởi v́ Đức Phật dạy cha mẹ là hai vị ân nhân
đă giới thiệu con vào đời, đối với hai vị ân nhân này th́ là một người
con không thể trả cho hết được cho dù một bên vai cơng cha một bên vai
cơng mẹ đi tham quan du lịch khắp cái quả đất này làm như vậy cũng chưa
trả hết công ơn cha mẹ, và nếu như chỉ nuôi dưỡng vật chất cũng chưa thể
nào trả hết công ơn cha mẹ , ở đây Đức Phật ngài dạy rằng một pháp mà về
tinh thần có những người con hướng dẫn cho cha mẹ về hạnh bố thí, giúp
cho cha mẹ có niềm tin về giữ giới và giúp cho cha mẹ hiểu pháp hiểu
được chân lư th́ như vậy người con đó mới là đă trả hết công ơn cho cha
mẹ và ở đây khi nói làm cách nào là bất hiếu với cha mẹ th́ ở đây chúng
tôi nghĩ rằng chúng ta không nên dùng cái chữ bằng cách nào, bởi v́ cách
nào để báo hiếu th́ được nhưng mà cách nào bất hiếu th́ bất hiếu là một
bất thiện pháp là một ác pháp là một pháp xấu do đó chúng ta không nên
hỏi cách nào bởi v́ khi ta đề cập đến cách nạ có nghiă là phương pháp
mà chúng ta sẽ đi theo như vậy mới gọi là cách, ở đây chúng ta phải nói
là thái độ nào là bất hiếu đối với cha mẹ nên hỏi như vậy th́ đúng hơn,
và ở đây bất luận trường hợp nào ngừơi con có thái độ khinh thường sự
dốt nát của cha mẹ, đối với những người đă từng sanh ra đă từng nuôi
dữơng nâng đỡ cho ḿnh khi c̣n nhỏ mà bây giờ ḿnh lại có tâm kiêu mạn
khinh thường như vậy th́ đó là một thái độ gọi là bất hiếu.
C̣n trường hợp nữa như chúng ta đă biết là khi mà cha mẹ nuôi dưỡng con
cái cha mẹ chắt chiu từng muỗng cơm muỗng cháo , từng viên thuốc với cái
tâm mong mỏi cho con ḿnh đuợc an lành, cha mẹ không kể công ơn, nhưng
bây giờ nếu như ḿnh nuôi dưỡng cha mẹ mà những người anh chị em ở trong
gia đ́nh hạnh hẹ với nhau và xô đẩy nhau những phận sự đó và xem cha mẹ
như một gánh nặng th́ với những truờng hợp có ngừơi họ đem cơm nứơc tài
sản về cho cha mẹ họ đem về với thái độ để trả nợ chứ không có
thái độ cung kính, không làm cha mẹ an vui th́ như vậy thái độ đó cũng
gọi là bất hiếu với cha mẹ, ở đây thưa quí vị với tất cả thái độ nào mà
không phải bằng trí tuệ, không phải bằng cái thiện tâm, không phải bằng
một tấm ḷng của ngừơi con đối với cha mẹ th́ thái độ đó gọi là bất
hiếu, c̣n cái thái độ đối với cha mẹ ngừơi con đó với cái t́nh thân
thương bằng trí tuệ th́ ngừơi con đó có hiếu với cha mẹ.
_____________________________________________________________________________
Câu
hỏi của Minh Hạnh :
V́ sợ nghiệp quả vào đời kế tiếp một số ngừơi đă xin tội với mục sư
thiên chúa để sau khi chết được lên thỉên đàng, vậy họ có đựơc lên thiên
đàng hay không ? Những ngừơi này trứơc kia có tạo đựơc nghiệp lành
hay không ?
TT. Bửu
Chánh
trả lời câu hỏi :
V́ sợ
nghiệp quả vào đời kế tiếp một số ngừơi đă xin tội với mục sư Thiên
Chúa để sau khi chết được lên Thiên Đàng, vậy họ có đựơc lên
Thiên Đàng hay không ? Nhưng ngừơi này trứơc kia có tạo đựơc
nghiệp lành hay không ?, nếu họ có tạo nghiệp lành th́ họ đă
có một số vốn để mang đi theo. Nếu họ không tạo nghiệp lành và
chuyên làm việc ác dù họ c̣n giữ đạo Phật th́ họ cũng không đựơc lên
trời. Cho nên việc theo đạo Phật hay bỏ đạo Phật nó không quan trọng
hơn là có tạo nghiệp ác hay thiện quan trọng hơn. Nếu họ theo Thiên
Chúa họ tạo nghiệp lành th́ vẫn lên cơi trời, bất cứ theo đạo nào mà
tạo điều ác th́ vẫn bị nghiệp quả ác.
Nếu
họ theo đạo Phật và làm ác rồi trước khi chết xin tội với mục sư
Thiên Chúa th́ việc này không bảo đảm, cái tiêu chuẩn để được sanh
cơi trời là có làm việc lành, tạo nghiệp trắng, chính tâm làm việc
thiện đó mới cho tâm quả đây là điều kiện để dẫn dắt chúng sanh đến
cơi trời hoặc cơi ngừơi, chính cái nghiệp của họ sẽ dẫn dắt họ đi
cơi trời hoặc cơi ngừơi.
TT. Giác Đẳng trả lời
câu hỏi
tiếp theo:
Nhân
câu trả lời của TT. Bửu Chánh và câu hỏi trên, chúng tôi xin đựơc
nhắn với quư Phật Tử trong rơom một điểm là bởi v́ chúng ta dựa trẻn
quan niệm tôn giáo đôi khi chúng ta quên hẳn đi cái quan niệm xă hội
ngày hôm nay.Trứơc hết là sự lựa trọn tín ngưỡng là quyền của mọi
ngừơi, chúng ta không nên kỳ thị ngừơi khác bởi v́ cái sự lựa trọn
tín ngưỡng của họ, nếu chúng ta lựa trọn tín ngưỡng của ḿnh mà
ngừơi khác họ kỳ thị ḿnh th́ quả thật là một điều không có
nên và chúng ta cũng không muốn đối sử với ngừơi khác như vậy, điều
này chúng tôi muốn nói rằng cho dù chúng ta lựa trọn bất cứ tín
ngưỡng ǵ th́ đó là quyền của mỗi cá nhân và chúng ta cũng không
công kích người khác bởi v́ tín ngữơng của ngừơi ta , và chúng ta
cũng đừng quên rằng có một cái hiểm họa rất lớn của nhân loại sắp
phải gánh chịu và đang phải gánh chịu đó là sự khủng hoảng giữa các
tôn giáo.
Các
tôn giáo ở đây thưa quư vị chúng ta thấy rất rơ là cái tánh khoan
dung và chịu đựng chấp nhận hiểu biết lẫn nhau càng lúc càng ít đi
và người ta sẵn sàng để tạo những cuộc bạo động là v́ cái quanđiểm
tôn giáo và việc đó là một việc hoàn toàn có thể xảy ra trên đất
nứơc VN. Để tránh đại họa trong tưong lai th́ chúng ta phải
làm một việc là làm thế nào có một xă hội mà ngừoi ta biết tôn trọng
với nhau cho dù là chính kiến cho dù là khác biệt về giới tín,
sự khác biệt về ư thức hệ v..v...
Chứ
không phải một xă hội mà có bên này và không có bên kia, về điểm này
chúng ta phải đặc biệt rất là lưu ư. Nhưng rồi có điều thứ ba
chúng tôi muốn nhắc đến quư Phật Tử đó là mỗi lần chúng ta nghe ai
đó mà bỏ đạo Phật để sang đạo khác th́ chúng ta nghe rất là
xót xa nhưng mà chúng ta đừng quên một điều rằng mỗi chúng ta có
trách nhiệm rất lớn chúng ta đă làm ǵ cho những ngừơi Phật Tử đang
có niềm tin, những ngừơi Phật Tử họ có niềm tin, có đi chùa th́
chúng ta lại thờ ơ với họ và khi nào họ bỏ đạo th́ chúng ta nhảy
dựng lên giống như là chúng ta rất là tha thiết với họ.
Thật
ra chúng ta là một tôn giáo rất trọng về tự giác và đa số chúng ta
rất ít tinh thần tự giác rất ít tinh thần tích cực để mang cái Phật
Pháp phổ cập lại cho những người Phật Tử khác, chúng ta đi chùa ai
sống mặc ai, ai chết mặc ai chúng ta không chăm sóc niềm tin cho
nhau có đôi khi chúng ta lại không có chăm sóc cho nhau về mặt tinh
thần, rồi ngừơi ta bỏ đi chúng ta lại hối tiếc chúng ta lại bực dọc
, nhưng mà cái đó là thái dộ không có nhận được cái trách nhiệm của
ḿnh , khi nào chúng ta mà ta nghe một người nào bỏ đạo th́
chúng ta phải nhớ rằng đó là trách nhiệm của chúng ta, chúng ta phải
làm nhiều hơn nữa, họ bỏ đạo v́ họ không thấy được cái đẹp của đạo
và không thấy được cái tinh hoa của Phật Pháp và chúng ta phải cố
gắng để làm nhiều hơn nữa ở trong cái vai tṛ hoằng pháp của ḿnh.
Người
Phật tử bị cái nghiệp là chúng ta quá thụ động, chúng ta rất là thụ
động, chúng ta rất thờ ơ thưa quư vị trong cái xẵ hội mà cái sự cạnh
tranh đến mức độ chóng mặt, trong một xă hội mà cái ǵ cũng cạnh
tranh kể cả tôn giáo, kể cả sự phiền năo th́ Phật Giáo thường bị rơi
tuột ở phía sau, không phải chúng tôi muốn nói rằng ḿnh trở nên một
cái đạo mà đi cạnh tranh với đạo khác nhưng mà chúng ta phải cố gắng
để chăm sóc cho nhau về mặt tinh thần về mặt Phật Pháp.
Ngày
hôm nay ngay cả những ngửơi Phật Tử đi chùa mà con cái họ, họ cũng
không tha thiết để hướng dẫn Phật Pháp cho con của ḿnh mà ḿnh
không lo về mặt tinh thần không lo về Phật Pháp th́ lấy đâu mà chúng
ta cố gắng để lo đem Phật Pháp đến cho những ngừơi bạn đạo chung
quanh ḿnh, đi chùa th́ chúng ta răn ngắc với nhau, đi chùa th́
chúng ta hơn thua với nhau, nhưng mà chúng ta không nghĩ rằng Phật
Tử phải khuyên khích với nhau. Và ngay cả trong những sinh hoạt Phật
sự như ở trong rơom Paltalk chẳng hạn có đôi khi v́ cái vui cái buồn
cái đụng chạm rất nhỏ mà chúng ta cũng bỏ nhau chúng ta không hợp
tác với nhau nữa, cái tinh thần hợp tác là tinh thần rất là quan
trọng ngừơi Phật Tử nên cố gắng hợp tác với nhau nhiều hơn, chín bỏ
làm mười chúng ta có chín diều bất măn nhưng có một điểm tương đồng
cũng nên lấy điểm tương đồng đó để hợp tác với nhau chứ không phải
là có chín điểm tương đồng mà có một điểm dị biệt lấy một điểm dị
biệt đó làm điểu để mà không nhỉn nhau, xa cách với nhau do đó cái
tinh thần hợp tác là tinh thần rất là cần nếu những người Phật Tử
rời bỏ đạo đó là trách nhiệm của chúng ta và đă là trách nhiệm của
chúng ta th́ chúng ta phải làm nhiều hơn nữa và đừng lấy việc
đó để mà oán trách những tôn giáo khác trước hết th́ phải tự trách
ḿnh và tự nh́n vào chính bản thân của ḿnh.
MaThienCuSi hỏi: Kính thưa quí Giảng Sư, Đức Thế Tôn dạy thân là bất
tịnh vậy xá lợi có thể gọi là thanh tịnh được không ? vào thời buổi này
những chuyện văng sanh lưu xá lợi. Sự xá lợi này có thể tin được không.?
Mong Qúi Ngài giảng dạy.
TT Giác Đẳng trả lời:
Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa quí vị đây là câu hỏi mà có rất là nhiều
ư nghĩa chúng ta phải đặc biệt lưu ư,thứ nhứt là khi mà chúng ta thờ xá
lợi Phật hoặc giả là chúng ta thờ cây Bồ Đề hoặc giả kim thân Phật ,
chúng tôi nghĩ rằng chúng ta đều đồng ư về một điểm là hăy lấy vị dụ kim
thân của Phật ,chúng ta vào lạy Phật không phải v́ pho tượng đó đưọc tạc
vàng hay là bằng bạc hoặc giả là cái hợp chất nào mà nó cao quí để mà
chúng ta lạy hợp chất đó, dầu là tượng Phật bằng đất nung rất là đơn
giản th́ chúng ta đảnh lễ pho tượng Phật là bởi v́ đó là cái biểu tượng
về Đức Phật mà chúng ta đảnh lể Thầy thôi ,cũng như bao nhiêu lần chúng
ta qú trước cội Bồ Đề đảnh lễ cội Bồ Đề không phải chúng ta nghĩ rằng
cây Bồ Đề đó nó linh thiêng hơn, hay là cây Bồ Đề đó nó khác hơn các
lọai cây khác nhưng mà đó là cái biệu tượng liên quan đến Đức Phật và
qua cây Bồ Đề đó chúng ta tưởng nghĩ đến Đức Phật v́ vậy đối với chúng
tôi.
Chúng tôi không có nghĩ rằng vấn đề được đặc ra là bất tịnh hay không
bất tịnh khi mà chúng ta đề cập đến xá lợi Phật chúng ta chỉ nghĩ rằng
đó là một cái ǵ c̣n để lại từ thân của Đức Phật , chúng ta rất thương
rất quí và rất trân trọng những ǵ mà Đức Phật để lại cho chúng ta
,một kỷ niệm rất là nhỏ ngay cả những liêu cốc mà Đức Phật ở trên núi
Linh Thứu hay tại chùa Kỳ Viên c̣n để lại, chúng ta đến đó chúng ta cũng
đảnh lễ nhưng mà không phải v́ những viên gạch đó nó tốt hay là viên
gạch không tốt, viên gạch đó được sản xuất như thế nào mà chúng ta đảnh
lễ là tại v́ chúng ta nghĩ đến Đức Phật .
Chúng tôi phải nói rằng cảm ơn MaThienCưSi đă đưa ra một đề tài mà nhân
đây chúng tôi cũng xin có vài lời tâm sự với quí Phật tử, là chúng ta
thừơng có những phong trào và những phong trào này nó ảnh hửơng rất là
nhiều trong đời sống tu học của ngừơi Phật tử, và những phong trào này
chúng ta đặc biệt cẩn thận và trong thời gian gần đây th́ chúng ta có
phong trạ thừơng đề cập đến những ngừoi mất đi c̣n để lại xá lợi dù vị
đó là một danh Tăng hay là một cư sĩ Phật tử.
Và hầu như điều này được khai thác rất là kỹ càng bởi những ngừơi
Phật tử sùng tín để xác định giá trị của vị này và vị khác, th́ thưa quí
vị chúng tôi không dám nói một lời mạo phạm bởi v́ nếu đó là sự tôn kính
của quí Phật tử mà chúng tôi nói rằng à chuyện đó là một chuyện
không hợp t́nh hợp lư ,th́ điều đó làm cho quí vị rất là buồn, tuy nhiên
chúng tôi xin thưa rằng chúng ta hăy đặc lại vấn đề một cách nghiêm túc
bởi v́ nếu chúng ta không khéo th́ ai cũng có thể làm như vậy và lâu
ngày nó có thể tạo ra nhiều cái sự ngộ nhận rất là đáng tiếc, bởi v́
thật ra rất khó khăn để chúng ta có thể kiểm chứng đâu là xá lợi thật và
đâu là xá lợi không thật và thưa quí vị ở trong thế gian này ở đâu có
vàng thiệt th́ ở đó có vàng giả ,và nếu mà điều nào đó mà được ngừơi đời
cảm thấy rất là lôi cuốn th́ chúng ta phải coi chừng những phong trào đó
nó có thể gây ra nhiều cái sự tai hại về sau này .
Và chúng ta là ngừơi Phật tử ,có lẽ là câu hỏi của MaThiênCưSi nó lại đi
trùng hợp với câu hỏi mà TT Trí Siêu vừa giảng là chúng ta nên lấy cái
cốt tủy của chánh pháp hơn là sống trong thế giới hiện tượng , thế giới
hiện tượng là chúng ta thuơng một ngừơi nào, kính một ngừơi nào là bởi
v́ đời sống của ngừoi đó bởi v́ sở hành của ngừơi đó và bởi v́ sự đóng
góp của ngừơi đó cho cuộc đời , bởi v́ cái giới đức của ngừơi đó chứ
không phải là bởi v́ một ít xương cốt mà ngừơi đó để lại có màu sắc mà
chúng ta mới thờ phượng.
Nếu một ngừơi mà ngừơi đó là ngừơi đạo cao đức trọng mà các vị không có
để lại xá lợi th́ chúng ta vẫn kính trọng vị đó như thường, và
chúng tôi biết rằng có một số các vị đang cố gắng chứng minh rằng chỉ có
những vị tu hành đến một mức nào đó mới để lại xá lợi ,th́ chúng tôi
thưa rằng chúng ta phải đặc biệt rất là dè dặt về điểm này và ở trong
thời kỳ tượng pháp th́ nhiều mà chánh pháp th́ không có rơ ràng,
hầu như cái đạo lư không được sáng tỏ mà chúng ta chỉ dựa trên một số
hiện tượng, và đối với chúng tôi những hiện tượng này thừơng dẫn dắt cái
niềm tin ngừơi ta nhiều hơn là tạo cho ngừơi ta ánh sáng trí tuệ.
V́ vậy bản thân của chúng tôi , chúng tôi cũng rất là mong mỏi rằng
chúng ta hăy trở về với một cái cách truyền thống hồi xưa xá lợi là cái
ǵ không thể dễ dàng để cho chúng ta có ,và đặc biệt nó không phải là
những món quà tặng tay trao tay , không phải là một thứ để tư hữu được
thủ đắc một cá nhân này hay cá nhân khác, thật ra xá lợi Phật hay xá lợi
Thánh Tăng nên là tài sản của dân chúng nên được tôn thờ tại những nơi
công chúng, để công chúng đến lễ bái và không nên dùng làm một món quá
trao tặng ngừơi này và ngừơi khác.
Đặc biệt chúng ta tu tập th́ chúng ta chia sẻ với nhau kinh nghiệm tu
tập hơn là chúng ta cố gắng để làm sự xác chứng ngừơi này được văng sanh
ngừơi kia được đắc đạo ngướ nọ được chứng quả, bởi v́ nếu anh A tuyên
bố được th́ anh B sẽ tuyên bố được , anh B tuyên bố được th́ anh C cũng
sẽ tuyên bố đuợc, và lâu ngày chúng ta sẽ nh́n thấy một cộng đồng rất là
hỗn loạn, thật ra không riêng ǵ với Phật giáo, mà những đạo giáo
khác thí dụ như là Công Giáo La Mă đă từng gặp một cái trở ngại rất lớn
là một số ngừơi họ đă tuyên bố rằng có một pho tượng của Đức Mẹ Maria đă
chảy máu trên con mắt hay là đă rơi lệ trên con mắt, và có bao nhiêu
ngừơi họ đi hành hương trở về từ những nơi đó và ngừoi ta cho biết rằng
những điều đó có hại hơn là có lợi cho niềm tin.
Chúng tôi chỉ nói ví dụ mà chúng ta cần suy nghĩ rất nhiều do vậy thưa
quí vị câu hỏi của MaThienCưSi th́ chúng tôi xin nói rằng trước nhất là
riêng về xá lợi của Đức Phật và xá lợi của các vị Thánh Nhân, không phảt
chỉ có xá lợi mà những ǵ liên quan đến cuộc đời của các Ngài như
là y là bát như là các di tích mà các Ngài để lại, vấn đề không phải
tịnh hay bất tịnh nhưng bởi v́ nó có liên quan đến cuộc đời của các Ngài
và cuộc đời của các Ngài có một ư nghĩa lớn đối với chúng ta nên chúng
ta trân quí điều đó,
Cũng như là một ngừơi đă nói rằng tôi thương yêu quê hương của tôi không
phải là v́ quê hương đó là một nơi giang san cẩm tú là một nơi giàu có
tươi đẹp ở nơi đó có thể là cằn khô sỏi đá nhưng v́ đó là nơi mà tôi ra
đời do đó tôi thương quê hương của ḿnh ,th́ đối với chúng tôi nghĩ rằng
ngừơi mà mến đạo quí đạo hiểu đạo và sống trong đạo th́ dầu là một cuốn
kinh được in ra bởi một nhà in trên giấy trắng mực đen th́ chúng ta sẽ
trang trọng điều đó và sẽ trang trọng như là xá lợi Pháp Thân mà
TT Trí Siêu đă giảng khi năy.
C̣n về cái thế giới hiện tượng có những con ngừơi ra đi để lại một số
các mẩu xương có màu sắc hay là lạ lùng th́ thưa quí vị chúng tôi không
dám giải thích về điều này, nếu mà chúng ta dựa trên một cái đời sống
giới đức của con ngừơi để mà chúng ta thờ phượng cái ǵ gọi là di vật
của những vị đó th́ nên, c̣n nếu chúng ta dựa trên di vật của vị nào đó
mà chúng ta xác định cái giới đức của con ngừơi đó th́ chúng ta đang làm
những việc ngựơc lại,
Do vậy chúng tôi xin trả lời câu hỏi của MaThienCưSi một cách tóm tắt là
khi thờ xá lợi nó không đặt nằm ở trên một cái tinh thể, nghĩa là cái đó
nó phải là cái kim cương hột soàn quí th́ chúng ta mới thờ , không phải
như vậy kể cả kim thân Phật, kể cả kim thân làm bằng đất sét bằng cimăn
chúng ta đảnh lễ v́ đó là Phật và chúng tôi cũng bày tỏ một ư kiến rất
riêng tư của ḿnh, chúng tôi xin xác nhận đây là ư kiến riêng tư
của ḿnh ,bản thân của chúng tôi là Tăng sĩ th́ thật sự chúng tôi không
có hoan hỷ với những hiện tượng mà ngừoi ta đă quá chú trọng vào cái
việc chết rồi lưu lại xá lợi là bởi v́, thưa quí vị những việc đó có thể
dẫn ra vô số cái lời tuyên bố và những lời tuyên bố này không ai có thể
biết được đâu là hư đâu là thật và nó có thể dễ dàng để làm xao động
chính những tâm hồn của những ngừơi Phật tử, đó là cái ư kiến của cá
nhân chúng tôi thôi và thưa quí vị thật ra chúng tôi không biết được là
đạo hữu MaThienCưSĩ có cái nghĩ như thế nào nhưng mà chúng tôi xin quí
vị cho chúng tôi được kết thúc câu trả lời ở đây
Phật tử hỏi: Kính bạch Ngài, như vậy xá lợi Báu Thân và xá lợi
Pháp Thân xá lợi nào quan trọng hơn
TT Trí Siêu trả lời :
Kính thưa quí vị nếu về mặt tôn kính th́ cả hai xá lợi báu thân và xá
lợi Pháp Thân chúng ta đều có sự tôn kính tôn thờ bởi v́ xá lợi Báu Thân
là xương cốt của Đức Thế Tôn của Đức Phật sau lễ trà tỳ , và đối với Đức
Phật là một mẫu ngừơi cao thựơng là một vị Đạo Sư tối thượng ở đời
cho nên việc mà chúng ta tôn thờ xá lợi Báu Thân và chúng ta kính
trọng xá lợi Báu Thân cũng là một điều hết sức là quan trọng .
C̣n xá lợi Pháp Thân tức là lời dạy của Đức Phật hay là Pháp Bảo
là những Phật Ngôn khi mà Đức Thế Tôn thuyết pháp được ghi chép lại lời
dạy của Ngài trong kinh điển Tam Tạng th́ những lời dạy này là những
khuôn vàng thước ngọc và chúng ta tu tập bây giờ chúng ta dựa vào kinh
điển để chúng ta hiểu biết được cái tôn ư của Đức Phật và chúng ta biết
được đường lối tu hành để thoát khỏi sự khổ đau v́ vậy cho nên đối với
xá lợi Pháp Thân cũng là một loại xá lợi mà chúng ta phải tôn kính tuyệt
đối.
Hễ kính Phật th́ phải kính Giáo Pháp mà càng hiểu Giáo Pháp th́ chúng ta
càng kính Phật như vậy nếu trên phương diện tôn kính th́ cả hai xá lợi
Báu Thân và xá lợi Pháp Thân chúng ta đều phải có sự tôn kính, như nếu
mà chúng ta nói cái nào quan trọng hơn tức là giữa xá lợi Báu Thân và xá
lợi Pháp Thân th́ ở đây thưa quí vị ,chúng tôi có một điều mà chúng tôi
xin góp ư ra đây để thỉnh ư Chư Tôn Đức và cũng như tŕnh bày cho quí vị
Phật tử.
Nếu để chấm dứt sự khổ đau, kết thúc sanh tử luân hồi đoạn trừ
phiền năo th́ xá lợi Pháp Thân là quan trọng hơn và chúng ta tôn thờ xá
lợi Pháp Thân như thế nào th́ điều này chúng tôi sẽ nói sau đây và thưa
quí vị xá lợi Pháp Thân là những điều mà chính Đức Phật Ngài vẫn tuyên
bố về một vị đệ tử nên thừa tự pháp hơn là thừa tự tài vật , thừa tự
pháp có nghĩa là thừa tự lời dạy của Đức Phật chấp nhận những lời dạy đó
như là những món ăn tinh thần như vậy sẽ cao quí hơn là thừa tự tài vật
mà Đức Phật để lại.
Chẳng hạn như hai vị Tỳ Kheo đi đến viếng thăm Đức Phật và lúc gần đến
giờ ngọ các vị đó vẫn chưa đi khất thực được, th́ lúc bấy giờ Đức Phật
mới chỉ cho hai vị Tỳ Kheo những tàn thực mà Như Lai đi khất thực
về ăn xong vẫn c̣n dư nếu muốn này các Tỳ Kheo có thể dùng những tàn
thực này, th́ trong hai vị có một vị nghĩ rằng ta phải duy tŕ cái mạng
sống để có thể hành pháp do đó cho nên vị này ăn, c̣n vị kia th́ nghĩ
rằng ta nên thừa tự giáo pháp của Đức Phật không nên thừa tự tài vật và
vị đó ngồi lại để lắng tai nghe Đức Phật thuyết pháp, th́ trong trường
hợp này thưa quí vị Đức Phật vẫn khen ngợi cái vị Tỳ Kheo thừa tự Pháp
Thân , do vậy cho nên xá lợi Pháp Thân ở đây rất là quan trọng.
Và khi mà chúng ta tôn thờ xá lợi Báu Thân, thưa quí vị điều này nếu
không khéo th́ chúng ta rất có thể chúng ta sẽ rơi vào t́nh trạng một
cái đức tin mà gọi là cuồng tín, bởi v́ khi mà chúng ta thờ xá lợi hay
là chúng ta chiêm bái xá lợi nếu mà chúng ta không dùng trí tuệ tác ư và
suy niệm về ân đức cao cả của Đức Phật để chúng ta tự nguyện noi theo
dấu chân của Ngài. Th́ như vậy thưa quí vị có một điều là có nhiều
ngừơi khi mà họ đứng trước tháp thờ xá lợi họ nghe nói đây là xá lợi
Phật họ nghĩ rằng đảnh lễ xá lợi có lẽ là cầu ǵ được nấy và họ với cái
niềm tin đó và họ đă làm cái nghi thức lễ bái, th́ trong trường hợp này
không đưa đến lợi ích cho họ nhiều ,chỉ có ngừơi nào khi đảnh lể xá lợi
Báu Thân mà họ với cái niềm tịnh tín tưỏng nhớ đến ân đức của bậc Đạo Sư
của Đức Phật th́ lúc bấy giờ thưa quí vị cũng là một thiện pháp để đưa
đến cho họ đến cái cơi an vui như là cơi trời v.v..
Nhưng mà chưa có bao giờ chúng ta đảnh lễ xá lợi mà chúng ta được cái
phước báu trực tiếp để đưa đến cái sự giải thoát , chỉ có xá lợi Pháp
Thân có nghĩa là chúng ta tôn thờ bằng cách chúng ta luôn luôn tâm niệm
Phật Pháp , luôn luôn chúng ta sống theo pháp th́ điều này sẽ giúp cho
chúng ta thành tựu đựơc an vui ngay trong hiện tại an vui trong kiếp
tương lai và đạt đến an vui tối thượng là đạo quả Niết Bàn.
Và ở đây khi mà chúng ta cung kính Đức Phật cũng có nghĩa là chúng ta
phải cung kính giáo pháp bởi chính Đức Phật Ngài dạy rằng,này Chư Tỳ
Kheo những ai hành theo pháp sống theo pháp những người đó gọi là
đă cúng dường Như Lai đă đảnh lễ Như Lai đă tôn trọng Như Lai bằng cái
sự cúng dường tối thựơng , th́ ở đây thưa quí vị chính v́ ư nghĩa đó mà
chúng ta nên hiểu rằng xá lợi Pháp Thân quan trọng hơn .
C̣n xá lợi Báu Thân chỉ là cái h́nh thức để chúng ta duy tŕ cái niềm
tin của chúng ta thôi ,nhưng điều đó nó không đặc biệt và không giúp cho
chúng ta nhanh chóng đạt đến cái sự giải thoát trong tương lai bằng
chúng ta tôn thờ xá lợi Pháp Thân của Đức Thế Tôn, duy tŕ thiện tâm
sống theo pháp của Đức Phật đó là một điều hết sức là quan trọng và
chúng tôi xin được phép trả lời câu hỏi đó .
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thưa TT Trí Siêu có lẽ là về điểm này chúng ta nên có một vài điểm để đi
xa hơn ở một cái điểm trái ngược lại câu hỏi hồi năy là bạch với Sư
huynh có một cái quan điểm rất là phổ cập ở trong thiền Zen là khi nào
chúng ta làm một công việc ǵ đó mà chúng ta đặt hết tâm tư vào
trong đó mà làm th́ chúng ta có thể quên đi chính ḿnh, quên đi cái sự
nhạy cảm về cái khen cái chê cái nhận định của ngừơi khác và từ cái quên
hẳn đi cái quan điểm về ngă sở, về quan niệm về nhân ngă đó làm cho
chúng ta làm công việc đó một cách trọn vẹn.
Ngài Achaan Chaa Ngài có đưa ra một cái surrender chúng ta dịch là vong
thân, một ngừơi học tṛ mà khi đặt dưới một vị Thầy để được thụ huấn để
được hướng dẫn th́ ngừơi học tṛ đó nên surrender bằng cách là quên
chính những cái quan niệm đúng hay sai của ḿnh và chỉ làm theo những ǵ
mà vị Thầy hứơng dẫn trong một thời gian nhất định nào, và với Ngài th́
cái quan niệm vong thân đó tự ḿnh ḿnh quên đi chính ḿnh nó có thể
giúp cho ḿnh có thể hoà nhập trọn vẹn vào trong cái môi trừơng và cái
điều kiện hướng dẫn th́ đối với Sư huynh nếu một ngừơi học tṛ đến sống
và nhận đựơc sự dạy dỗ của Sư huynh có khuyến khích họ nên sống
với cá tánh của họ, tức là người Mỹ họ nói rằng khi nào ḿnh sống
thành thật với bản thân của ḿnh, ḿnh ra sao ḿnh sống với cá tánh ḿnh
như vậy là lúc ḿnh thể hiện cái khả năng của ḿnh một cách tốt nhất hay
hoặc giả là trong cách của Ngài Achaan Chaa, đó là một ngừơi học tṛ nên
quên đi tất cả những ǵ thuộc về đúng sai phải quấy thích hay không
thích của bản thân của ḿnh và chỉ thọ tŕ một cách tuyệt đối về lợi dạy
của vị Thầy th́ theo Sư huynh hai trường hợp đó một ngừơi sống chung
thành với cá tánh của ḿnh và một ngừơi quên đi chính ḿnh để mà sống
trọn vẹn với sự hướng dẫn trong cái kinh nghiệm giáo dục của Sư huynh
th́ ở đây cái nào nó có lợi cho sự tu tập và tiến bộ của một Tăng sinh,
một Ni sinh và một ngừơi đang theo đuổi con đường tu học, Sư huynh có
thể cho biết ư kiến không?
TT Trí Siêu trả lời :
ở đây chúng tôi xin đuợc có ư kiến trong vấn đề này là tùy theo trừơng
hợp nếu như đối với một ngừơi mà họ hay bắt chứơc và hay sống theo cái
tính cách của ngừơi khác mà họ bỏ quên cái thật của bản thân họ, mà
trong khi đó cái thật của bản thân họ là những điều tốt th́ trong trừơng
hợp đó với tư cách của một ngừơi hứơng dẫn một vị Thầy th́ lúc bấy
giờ chúng ta sẽ khuyên họ hăy sống thật theo tính cách của ḿnh đừng có
màu mè và đừng có bắt chứơc ngừơi khác, sự bắt chước đó sẽ không đẹp như
chúng ta nghe câu chuyện là nàng Tây Thi ở bên Trung Hoa có một sắc đẹp
tuyệt trần đến nỗi khi mà nàng bị đau và nàng nhăn mặt những lúc nhăn
mặt như vậy cũng là một vẻ đẹp, thế th́ có một ngừơi phụ nữ ở lân cận cô
ta có một vẻ mặt một h́nh dáng rất thô xấu nhưng mà cô ta lại nghĩ rằng
nàng Tây Thi nhăn mặt ai cũng khen đẹp, th́ là cô ta cứ ra đường gặp
ngừơi này người kia cô làm vẻ mặt thiểu năo nhăn nhó và đă xấu lại càng
xấu thêm nữa khiến cho mọi người họ xa lánh, th́ trong trừơng hợp này
chúng ta thấy nếu như không phải có vẻ đẹp như nàng Tây Thi th́ đừng có
bắt chứơc nhăn mặt đối với những hạng người này th́ cần phải khuyến
khích họ cần phải nhắc họ hăy trở về với cái đẹp của bản thân ḿnh,tức
là cái cá tánh của ḿnh nó bộc lộ như thế nào th́ ḿnh hăy làm như vậy
đừng bắt chước ai cả đừng có phải luôn luôn bỏ thân ḿnh, bỏ quên cái
thật của chính ḿnh cái thật ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh là nói đến
những sở hành hay là những cá tính đẹp th́ trong trường hợp đó là
một cách,
C̣n đối với những vị học tṛ nào mà họ chưa có đựơc một cái cá tính đẹp
và họ chưa biết phải làm cái ǵ cả th́ trong trừơng hợp đó chúng tôi mới
khuyến khích họ là nếu vậy th́ bây giờ quí vị hăy nghe, quí vị hăy sống
theo lời dạy của các vị Thầy để dần dần đi vào cái con đừơng tốt đẹp và
ở đây thật sự chúng ta cũng khó có thể tŕnh bày một chiều trong ư nghĩa
này, chúng ta phải tŕnh bày đa diện mà trong cái tŕnh bày đa diện đó
th́ ở đây cũng gặp một điều khó nữa là chúng ta khi mà đối mặt với một
sự kiện đang xảy ra một cái t́nh huống đang xảy ra, th́ lúc bấy giờ một
cái vị Thầy dạy cho hội chúng có trí sẽ biết cách để nhận xét và để
hướng dẫn chứ chúng ta không thể tŕnh bày theo những ư kiến hạn
hẹp trong một cái bối cảnh mà chúng ta chỉ đặt ra một cái nhất
thiết như vậy,
Và ở đây thưa quí vị trong cái vấn đề này thật ra th́ chúng ta cũng c̣n
phải nói theo hai cách nữa tức là nói theo phương diện tu và học, học và
tu th́ ở đây chúng ta phải nhận đ́nh theo hai cách như thế này nếu mà
đặt trên phương diện một đệ tử mà đi đến nghe ông Thầy giảng dạy để mà
học, th́ trong trường hợp đó là vị đệ tử này phải luôn luôn nghe theo
lời của Thầy, nghe theo sự hứơng dẫn của Thầy, Thầy tŕnh bày Thầy giải
thích những cái điều ǵ mà ḿnh đă chấp nhận đó là vị Thầy ḿnh học th́
trong trừơng hợp đó ḿnh phải nghe theo, chớ ḿnh không nên có một cái
định kiến một cái thiên kiến một cái tư kiến, cái người học tṛ đó nên
nghe theo những ǵ Thầy dạy, tất nhiên là những lời Thầy dạy luôn luôn
lúc nào cũng phải dùng trí mà suy sét rồi mới thọ tŕ cái lời đó, nhưng
ở đây chúng tôi chỉ nói rằng là trên phương diện pháp học th́ trong
trừơng hợp đó ḿnh là một ngừơi c̣n dốt nát ḿnh là một ngừơi c̣n cạn
cợt thiếu hiểu biết, khi đă đến một vị Thầy để ḿnh học hỏi th́ cái vị
Thầy đó dạy như thế nào th́ ḿnh phải làm theo như thế đó chứ nếu không
th́ chúng ta dở dở ương ương không làm ra chuyện ǵ cả.
Giống như một anh chàng học đàn khi mà đi đến học đàn mà anh ta đă biết
chơi đàn một thời gian do tự anh ta ṃ mẫn th́ lúc bấy giờ cái vị Thầy
dạy đàn sẽ yêu cầu anh ta bỏ hết tất cả những ǵ mà anh ta biết để mà
anh ta thực hành, anh ta làm lại từ đầu mới mẻ như vậy th́ nó sẽ
tốt đẹp chớ không phải là một cái sự sửa chữa,sự sửa chữa đó khó, th́
trường hợp một vị thiền sư mà TT Giac Đẳng vưà nhắc khi năy th́ trong
trường hợp đó là cái tư cách của Ngài là một vị Thiền Sư và Ngài đang
dạy thiền, trong lúc đang dạy thiền cho người đệ tử ngừoi học tṛ, th́
ngừơi học tṛ đó đang nghe lời Thầy dạy th́ trong lúc bấy giờ họ
bắt buộc phải bỏ đi cái tư kiến như vậy mới có sự tiến hóa đựơc .
C̣n thứ hai nữa là đặt trên phương diện pháp hành khi mà đă hiểu thấu đă
biết một cách đúng một cách chánh xác rồi th́ trong lúc thực hành đó,
th́ phải sống theo cái cách phải tự bản thân vương lên tự bản thân quán
niệm tu tập ,chớ không thể nào mà dựa trên cái lời của ông Thầy nhắc
giống như nhắc tuồng , giống như một ngừơi học vơ nghệ khi đến th́ những
khẩu quyết mà vị Sư phụ đó truyền dạy th́ những khẩu quyết đó phải thuộc
ḷng phải nhớ , ông Thầy dạy như thế nào th́ phải nhớ rơ như thế đó
nhưng mà đến khi nội công đựơc thuần thục rồi th́ lúc bấy giờ khi đối
diện trứơc kẻ thù trước kẻ nghịch họ đang đánh ḿnh, lúc bấy giờ do các
sự nhạy bén do cái sự phản xạ tự nhiên lúc bấy giờ không cần nhớ ǵ đến
lời của Thầy dạy mà đă làm theo cái bản năng vơ nghệ cái hành động những
cái thao tác mà ḿnh thuần thục điêu luyện chớ không thể ngồi lại mà
nhẩm thuộc ḷng những cái khẩu quyết mà Thầy đă dạy lúc đó thiên
hạ đă đánh ḿnh chết rồi.
Cũng như thế đó khi mà chúng ta đă lâm vào cái t́nh cảnh đang thực hành
đang chuyên nghiệm pháp th́ lúc bấy giờ phải tự ḿnh nỗ lực phải
tự ḿnh phát huy và lúc đó không c̣n nghĩ đến cái lời Thầy dạy nhiều,
khi ông Thầy trong cái quá tŕnh tu chứng của Thầy thực hành cái pháp
môn đó như vậy như vậy nhưng mà khi ḿnh là một ngừơi học tṛ khi đến
học hỏi về giáo lư th́ nghe theo ông Thầy, nhưng đến lúc ḿnh thực hành
gặp những hiện tượng những ứng chứng mà phát sanh ra tự bản thân
ḿnh phải chỉ niệm và phải tự giải quyết lấy trong trừơng hợp đó,
không thể nào mà chúng ta bắt buộc ngừơi học tṛ đó phải theo những ǵ
ông Thầy dạy ở đây nếu mà chúng ta có hành thiền qua th́ chúng ta
sẽ có kinh nghiệm trong cái điều đó trong lúc mà chúng ta đang cố
gắng để tập trung tư tưởng để hành thiền mà theo lời dạy của Thầy th́
Thầy dạy như thế này phải niệm như thế này thế này, nhưng mà trong lúc
đó cái cơ thể của mỗi ngừơi mổi khác cái tâm tính của mỗi ngừơi mỗi khác
th́ lúc đó nó sẽ đưa đến một cái t́nh trạng chúng ta phải tự giải
quyết lấy chứ mà không th́ chúng ta sẽ bị trở ngại trong cái việc tu tập
lắm.
Cho nên nói tóm lại là chúng ta tùy, nếu dạy th́ chúng ta tùy theo hai
đối tượng mà chúng ta dạy có ngừơi th́ phải dạy hăy sống thật với bản
thân ḿnh có ngừơi th́ phải dạy họ luôn luôn phải nghe theo lời của Thầy
c̣n cái lối tu tập th́ khi nào mà học trên phương diện pháp học th́ lúc
bấy giờ là phải nghe theo Thầy, c̣n lúc mà đi pháp hành th́ trong trường
hợp đó là phải kinh nghiệm bản thân trong trường hợp này chúng tôi xin
có ư kiến như vậy, xin trao đổi cùng TT Giác Đẳng Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Thưa quí vị có một câu hỏi ngày hôm qua, chúng tôi xin đựơc đi ngay vào
một câu của Samuraisakura, không biết Samuraisakura có mặt
trong rơom này không, dù không có mặt chúng ta cũng nên thảo luận bởi v́
thưa quí vi hôm qua chúng tôi nhận thấy rằng vào cuối giờ học có một đề
tài rất là thú vị nhưng mà lại không có th́ giờ bàn đó là pháp học
và pháp hành, thật ra nên nhắc lại ở đây một cái ư nghĩa là trong ngôn
ngữ chúng ta nói đến pháp học nó khác với học pháp, pháp hành khác
với hành pháp, khi mà chúng ta nói đến học pháp và hành pháp có nghĩa là
cùng một điều đó khi mà chúng ta ngồi xuống để lắng nghe để suy niệm để
t́m hiểu là học pháp và cùng một điều đó khi chúng ta đem áp dụng
th́ trong sự áp dụng đó gọi là hành pháp, nhưng mà khi mà chúng ta nói
học pháp và hành pháp th́ rất là dễ hiểu, nhưng mà khi chúng ta nói rằng
pháp học và pháp hành th́ nó tương đối là khó hiểu tức là có những
pháp để mà học và có những pháp để mà thực hành, ví dụ như chúng ta nói
về pháp tŕ thọ hạnh đầu đà, chúng ta nói về tứ niệm xứ chúng ta
nói về thất giác chi th́ những pháp đó có thể là vừa là pháp học
vừa là pháp hành và hôm qua một vị nào đó đă nói rằng rất là
khó vẽ cái lằn ranh của pháp học và pháp hành, ví dụ như trong trừơng
hợp của tạng A Tỳ Đàm với rất nhiều ngừơi cho rằng A Tỳ Đàm là một ngành
, một cái hệ thống triết học Phật Giáo và bởi v́ nó là một ngành triết
học của Phật Giáo nên nó chỉ là cái ǵ đó cho tư duy, cái ǵ đó cho suy
luận, cái ǵ để cho lư luận và những nhà học giả A Tỳ Đàm ở trong quá
khứ th́ thường đựơc gọi là những vị Luận Sư mà những vị Luận Sư
th́ cái h́nh ảnh rất là khác biệt với vị Thiền Sư, các vị
luận Sư nặng về lư thuyết nhiều, nhưng mà thực tế cho chúng ta thấy rơ
một điều rằng những nước mà phát triển về A Tỳ Đàm như là Miến Điện
chẳng hạn th́ Minh Sát Tuệ hành thiền Minh Sát lại rất đựơc phổ cập, ở
tại các quốc gia này nên chi chúng ta phải có một cái định nghĩa rất rơ
về pháp học và học pháp, pháp hành và hành pháp, và làm sao để có thể
ghi nhận pháp nào là pháp học, thí dụ như trong kho tàng kinh điển của
chúng ta pháp nào là pháp học, pháp nào là pháp hành nên chi xin được
thỉnh Sư Trưởng có ư kiến về điểm này và cũng xin thỉnh TT Trí Siêu hoan
hỷ có một vài ư kiến chia sẻ về việc pháp học, ở đây không biết Sư
Trửơng có trả lời câu này không ?.
TT Giác Chánh trả lời câu
hỏi
- (Sư Trưởng ) :
Câu hỏi của đạo hữu kể trên đă đựơc TT Giác Đẳng trả lời đầy đủ rồi
nhưng v́ có lời mời nên tôi cũng xin được tiếp theo. Thật sự th́
chúng ta thừơng hay bị lấn cấn hay bị lẫn lộn giữa danh từ pháp học pháp
hành đó là chúng ta dịch ra tiếng Việt mà c̣n theo lối văn phạm của
Trung Hoa chứ nếu nói hoàn toàn chữ Việt mà kêu là việt hoá là học thiền
hành thiền và đắc thiền như vậy cũng như học cách nấu cơm, rồi nấu
nồi cơm đă chín vậy thôi, th́ chúng ta hiểu như vậy đó mới có cái lấn
cấn và căi với nhau, căi với nhau là ngừơi th́ nói tôi là
pháp học hạng nhứt, người kia nói không, tôi không cần pháp học tôi cần
pháp hành, nhưng mà pháp hành là cái ǵ nếu như mà cái vị đó mà
không có học dầu cho học bằng từ Tam Tạng chú giải cũng là học
chỉ dạy cho ḿnh tỷ dụ như tóc lông móng răng da th́ nghe qua cái học đó
lông móng răng da cũng là pháp học chứ không có cái nào , nếu trừ bỏ
pháp học ra th́ có một cách là không có nghe từ một vị đạo sư nào hay là
bậc Toàn Giác, các vị đó không có thể chỉ dạy không cần học để
hành giống như những nhà bác học sáng chế ra ngừơi đồ cổ đó, th́
tự ḿnh khám phá ra thí dụ các vị đó nghiên cứu kinh nghiệm bản thân th́
có thể không cần học, c̣n tất cả ngày nay lại th́ bất cứ học bằng vở hay
là nghe băng cassett hay lên rơom lên mạng nghe giảng th́ tất cả đều là
pháp học cả, rồi th́ học rồi th́ mới thực tập chính cái thực tập này gọi
là pháp hành .
Thí dụ như một vị Thiền Sư dạy rằng khi thở vô biết rơ hơi thở vô khi
thở ra biết rơ hơi thở ra hơi thở vô dài biết rơ hơi thở vô dài hơi thở
ra dài biết rơ hơi thở ra dài, th́ ḿnh học cái chuyện đó trứơc là pháp
học rồi chính lúc thực tập đó dùng cái niệm cái tâm trú đến hơi thở các
hơi thở vô ra dài ngắn biết rơ đây không c̣n phải nói nữa, chứ c̣n nếu
mà lúc mà học câu đó rồi nói hơi thở vô ra đó là đọc câu đó th́ không
phải là hành, hành chính là chăm chú vào, ở đây là cái ranh giới phân
biệt cho giữa cái tục đế và chân đế, thậm chí có nhiều vị căi nhau là
tục đế thế này chân đế như thế kia, tôi xin thưa rơ vấn đề này cái ǵ
thuộc về văn tự ngôn ngữ nói ra có tên đều là tục đế ngay cả danh từ
chân đế cũng là tục đế ngay cả những cái pháp trong Abhidhamma nói
là uẩn xứ giới đế v. v.. đó là những kư hiệu những danh từ kư thực
, thay v́ nói anh ấy, đàn ông đàn bà là phi danh chơn chế định, c̣n nói
là danh sắc ngũ uẩn đó là danh chơn chế định, dầu danh chơn hay ǵ th́
nó cũng nằm trong cái tục đế là v́ chân đế vốn không có danh từ
định đặt những ǵ có đựơc danh từ định đặt th́ nó đều nằm ở phương diện
là tục đế cả, do đó nên nếu mà chúng ta c̣n sử dụng pháp văn tự th́ vẫn
c̣n tục đế
Nên trong Pháp Bảo Đàn Kinh Lục Tổ Huệ Năng chủ trương là bất lập văn
tự, đây là một lối thiền không sử dụng đến ngôn ngữ hay là văn
chương để cho khai ngộ cái người trực giác ngay cái hành động nhứt là
theo lối thiền quán tâm trên tâm nội phần, quán tâm trên tâm ngoại phần,
quán tâm trên tâm nội phần ngoại phần nhưng mà dùng từ ngữ mới để
cho có cái ngừơi ta nghe ngừơi ta thú vị hơn nhưng mà đúng là phương
pháp rồi khi nghe nói là những ngừơi nghe nói Lục Tổ Huệ Năng là bất lập
văn tự th́ Thần Hội đến cũng chủ trương là tôi cũng bất lập văn tự th́
bây giờ Lục Tổ Huệ Năng mới nói rằng chính ngươi nói là bất lập văn tự
rồi.
Quí vị thấy rơ chưa đúng cái lư như vậy đây không phải nói theo mà sự
thật là như vậy là khi nào thực hành thấy rơ trạng thái đó biết tùy phân
biệt không có nói cái này và cái kia c̣n nều mà kêu cái này cái kia , và
trạng thái nóng nảy là cái tâm sân mà tâm sân là một tâm sở, sân nó đồng
sanh hay nó tương ưng với tâm sân hữu trợ hay vô trợ th́ ở đây là tư
thẩm niệm chứ không phải là chánh niệm, không phải là tỉnh giác không
phải là thực tập thiền vipassana.
Nhưng mà học có bài hữu hiệu rồi hay nó đơn giản pháp học cũng như cái
hiểu về rơ ràng ngừơi ta học như là đừơng nào đó nói bàn
chuyển diệt v.v..rồi khi mà đọc biết đó th́ tay phải xèo ra như
thế nào phải đúng động tác như vậy đó không thể đọc đó khi thực
tập như vậy rồi th́ không cần đọc nữa nhưng mà lúc đầu phải đọc, đọc cái
kia đó để biết nhớ động tác đó theo rồi tới chừng quen thuộc rồi th́
không cần nữa, tới khi nghe th́ khỏi cần giới thiệu khỏi cần đi đừơng
quyền mà thấy ngừơi ta đánh đâu th́ lúc đó chiêu thức đó là nhịp
tay quen mắt quen, như thế nào là khi học th́ hành và thực hành cũng vậy
đó buổi đầu th́ học cho hiểu rồi sau thực tập đi đường quyền , rồi khi
mà thành tựu đạo quả giống như là ngừơi đi thành nghề vơ rồi đó mắt cũng
nghề cái tay cũng nghề cái chân cũng nghề họ té cũng nghề, họ nằm
cũng nghề, họ ngồi cũng nghề, th́ cũng đúng như Đức Phật Ngài dạy đối
với vị vô tứơng tâm định A la Hán th́ các vị đó ngồi chỗ nạ th́
vị đó ngồi chỗ ngồi của vị A La Hán, đi chỗ nào là đi của bậc Thánh nhân
v.v.. c̣n như ngừơi mà đă tu tập tứ vô lựơngtâm rải tâm từ rồi đến lúc
chuyên định rồi th́ chỗ nào vị đó ngồi là chỗ ngồi của Phạm Thiên, vị đó
đi là chỗ đi của Phạm Thiên v.v... th́ điều này chúng ta không có
thể như không hiểu mà lầm lẫn chưa hiều rồi th́ cũng là một lần nữa có
lằn ranh mà cho là không có lằn ranh, cũng như quí vị thấy sao mà trong
cái thọ thí dụ trong ba thọ khổ gọi là thọ xả th́ cái xả như
là vô minh là tại sao.
Thí dụ như là con nai nó chạy qua cái đừơng mà trên con đường nó chạy có
một tảng đá, dấu chân bên đây nh́n thấy dầu chân bên kia nh́n thấy đựoc
nhưng mà dấu chân trên tảng đá th́ không thấy đựơc tức là bên đây v́ nó
thô thiển nên thấy , cũng như con nai chạy ngang qua tảng đá đó đương
nhiên là cái chân nó cũng chạm nó mới có chỗ tựa để nó chạy chứ nhưng v́
không có dấu chân trên đá nên ngừơi ta không có nhận ra có dấu chân con
nai chạy qua đây, nhưng mà thấy bên đây có dấu nai bên kia có dấu nai,
đó là cái thí dụ như vầy,qúi vị nhớ đă là thí dụ th́ không phải sự
thật nếu qúi vị nghe tới đây t́m cách bắt bẻ không có cái lư do bắt bẻ
là nếu nó chạy dưới śnh chân ứơt th́ cũng có dấu chân nó , nhưng mà
ngừơi ta thí dụ ở đây là trừơng hợp chỗ khô ráo mà con nai chạy ở đây
c̣n chỗ mềm th́ nó có dấu, c̣n trên tảng đá th́ không có dấu. Bây giờ
th́ tới phiên TT Trí Siêu trả lời tiếp.
TT Giác Đăng
tiếp lời :Nhân đề tài này chúng tôi xin làm mất th́ giờ nữa là chúng tôi
có một quyển sách đựơc xem là một quyển sách rất là thú vị, lần đầu tiên
khi chúng tôi có được quyển sách này th́ chúng tôi có cảm t́nh
ngay lập tức và chúng tôi tin rằng quyển sách này mang lại rất là nhiều
lợi ích cho quí vị Phật tử, may mắn thay cho chúng ta là tác giả của
quyển sách này đang có mặt trong rơom của chúng ta, đó là quyển Kho Tàng
Pháp Học , một công tŕnh biên khảo rất là quan trọng mà TT Trí Siêu đă
thực hiện và may mắn hơn nữa là quyển sách này hiện tại đă được đăng
trên internet và chúng tôi dự trù xin phép TT Trí Siêu cho được ấn tống
nhân ngày lễ Phật Đản năm tới đây, thưa quí vị Phật tử quyển Kho
Tàng Pháp Học này là một quyển trong đó ghi rất nhiều chi pháp và điều
pháp trong đó mang tính cách pháp số nhưng mà không những chỉ gói
ghém nội dung của những ǵ đề cập đến trong Tăng Chi Bộ Kinh và đề
cập đến trong cả Tam Tạng.
Bây giờ TT Sư Trưởng đă nói rằng không có sự phân biệt giữa pháp học và
học pháp, pháp hành và hành pháp, xin TT Trí Siêu hoan hỷ, TT Trí Siêu
là ngừơi đă viết ra quyển Kho Tàng Pháp Học và không biết là v́
cái lợi ích của đại chúng ở đây TT Trí Siêu có thể nào cho biết ư kiến,
là một người bỏ ra rất nhiều th́ giờ để sang định tạng diệu pháp
và dạy về Tam Tạng về Phạn ngữ cũng như viết quyển Kho Tàng Pháp Học,
theo ư của TT là chúng ta chỉ nói riêng về pháp học thôi trong những các
pháp học trong những cái ǵ mà đựơc đề cập đến trong Tam Tạng có thể nào
phân biệt ra là các pháp này chỉ học để mà biết, cái pháp này chỉ học để
mà hành các pháp này chỉ học để mà thành và chúng ta có thể phân biệt
đựơc lằn ranh rơ ràng như vậy hay không, thí dụ bây giờ chúng ta nói
giáo lư Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên, th́ giáo lư Thập Nhị Nhân
Duyên thưa TT Trí Siêu có thể phân đó là thuộc về pháp học hay thuộc về
pháp hành, không biết TT Trí Siêu có thể chia sẻ với đại chúng về điểm
này hay không, th́ xin thỉnh TT
TT Trí Siêu trả lời ;
Chúng tôi thật vinh hạnh đựơc TT Giác Đẳng nhắc đến cái sọan phẩm mà
chúng tôi đă bỏ công soạn thảo từ bấy lâu nay và trứơc hết xin chân
thành cảm ơn TT Giác Đẳng có nhă ư để được in cái quyển đó và phát hành
trong dịp lễ Phật Đản sắp tới, chúng tôi hoàn toàn hoan hỷ và nhựơng bản
quyền cho TT tuỳ ư xắp xếp và chúng tôi cũng xin nói thêm rằng hiện tại
chúng tôi cũng đang sang định lại cái quyển đó và thêm một số pháp, một
số pháp môn vào quyển Kho Tàng Pháp Học để cho đựơc dồi dào và
phong phú thêm và có lẽ cuối năm nay sẽ đựơc in ra thành sách tại
VN.
Và ở đây khi mà TT Giác Đẳng gợi ư cho chúng tôi đóng góp ư kiến về
cái lănh vực pháp học và pháp hành nó có sự tương quan như thế nào hay
là có cái lằn ranh giữa pháp học pháp hành và pháp thành hay không
th́ trong trường hợp đó chúng tôi cũng xin đựơc mạo muộn tŕnh bày một
số thiện ư của chúng tôi như thế này.
Trứơc hết là từ năy đến giờ khi mà chúng tôi nghe Sư Trưởng và TT Giác
Đẳng giải thích về ư nghĩa pháp học và pháp hành th́ ở đây chúng tôi
không c̣n ǵ để nói nữa, chúng tôi chỉ nói rằng trong Tam Tạng Kinh Điển
những pháp đó cũng giống như là cái bản đồ và khi mà chúng ta nh́n
vào cái bản đồ để chúng ta biết đựơc đường đi nước bước mà chúng ta đi
th́ như vậy bản đồ cũng giống như pháp học và cái biết của chúng ta cũng
giống như là chúng ta học pháp và khi mà chúng ta bắt đầu đi theo định
hứơng của bản đồ th́ đó là pháp hành, cho dù rằng những vị Thiền Sư dạy
ngừơi khác thực hành dạy các vị Thiền sinh nhưng mà trứơc khi cho các vị
đó ngồi lại im lặng để thực hành th́ các vị Thiển Sư cũng phải có
một vài lời để chỉ giáo cho cái phương thức và nói vể những cái đề tài
những cái đề mục, th́ trong cái lời nói của các vị đó nói ra và
Thiền sinh lănh hội th́ đây gọi là pháp học và khi mà các Thiền sinh
ngồi lại và áp dụng th́ gọi là pháp hành.
Nếu mà chúng ta nói trên phương diện giáo lư Đức Phật phân ra có những
pháp cần phải biết, những pháp cần phải đoạn trừ những pháp cần phải tác
chứng và những pháp cần phải tu tập th́ trong trừơng hợp đó ở đây thưa
quí vị trong Tam Tạng Kinh Điển không phải tất cả những pháp nào đưa ra
chúng ta đều có thể thực hành đựơc có những pháp mà Đức Phật Ngài giải
thích chúng ta chỉ nghe hiểu để chúng ta nhận biết th́ pháp đó là pháp
cần phải biến tri th́ các pháp cần phải biến tri ở đây nếu chúng ta nói
trên phương diện thí dụ như Tứ Đế th́ ở đây khổ đế là chân lư về sự khổ,
th́ đối với sự khổ chúng ta không phải thực hành ǵ cả mà chúng ta chỉ
nghe để chúng ta biết, ta biết sự khổ từ nơi thủ uẩn là như thế
nào, danh sắc, pháp hữu vi , khổ là như thế nào, chỉ biết như vậy thôi,
biết một cách từơng tận nhiều mặt, như vậy các pháp đó không phải là các
pháp hành và cái pháp này chỉ là học để mà biết c̣n các pháp để mà đọan
trừ, học để mà đọan trừ th́ pháp đó tức là nhân sanh sự khổ, nhân sanh
sự khổ ở đây nếu mà nói hẹp th́ đó là ái tham hay là tham tâm sở, và nếu
nói rộng một chút th́ đó là những pháp bất thiện, những pháp bất thiện
cũng là tập đế là nhân sanh khổ và trong bộ phân tích của tạng diệu pháp
th́ c̣n giải thích thêm nữa là bất cứ những thiện pháp chẳng những bất
thiện pháp mà luôn cả những thiện pháp hiệp thế là những nhân sanh luân
hồi, liên quan luân hồi dẫn luân hồi th́ pháp đó cũng được xem như là
tập đế.
Th́ ở đây thưa quí vị chúng ta tuỳ theo trường hợp mà chúng ta nói, đối
với các ác bất thiện pháp hay là tham vô minh là hai cái pháp chính th́
những ác pháp đó chúng ta không cần phải thực hành theo, mà những cái
pháp đó là cần phải đoạn trừ rồi đề cập đến diệt đế, ở đây chỉ cho Niết
Bàn, một cái trạng thái tịch tịnh vắng lặng không c̣n cái sự hiện hữu
ngũ uẩn th́ như vậy trong trừơng hợp đối với Niết Bàn chỉ là một pháp
chân đế, một pháp chân đế để tác chứng, để chứng ngộ chớ không phải là
một pháp học để mà hành th́ pháp này học để thành c̣n đối với đạo đế tức
là con đường Bát Chánh Đạo hay là Giới Định Tuệ, Tam Vô Lâu Học
th́ đạo đế này chính là những pháp môn học để mà hành.
Th́ ở đây thưa quí vị chung quanh nếu nói hẹp th́ là bát Chánh Đạo
mà nếu nói rộng th́ 37 Bồ Đề Phần là những pháp ở trong Kinh Điển Tam
Tạng, khi mà chúng ta xem chúng ta học qua để chúng ta thực hành, th́
nói tóm lại tức là đối với giáo lư của Đức Phật khi mà Đức Phật thuyết
không phải những pháp nào mà Đức Thế Tôn thuyết cũng là để thực hành
theo mà có những điều học để mà biết như là khổ đế v.v... Có những
điều có những pháp môn học để mà diệt trừ đó là tập đế, có những pháp
môn học để mà tác chứng hay để thành tức là Diệt Đế và có những pháp môn
học để mà thực hành như là Đạo Đế hay 37 pháp trợ đạo, đó là những điều
mà chúng ta cần phải nắm rơ, bởi thế cho nên ở đây thưa quí vị có
những ngừơi họ nói rằng tu theo Phật Giáo là phải hành theo Thất Giác
Chi, Bát Chánh Đạo, Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên v.v...họ nói, xin lỗi họ
cũng như là một con két trả bài, thật ra th́ đối với Tứ Đế chúng ta c̣n
phải phân tích nữa có những pháp cần phải hành, có những pháp không phải
hành mà là cần phải đọan trừ, có những pháp không hành không đoạn trừ
không tác chứng mà chỉ biết mà thôi v.v.... c̣n như đối với Thập Nhị
Nhân Duyên cũng vậy trong Thập Nhị Nhân Duyên , vô minh duyên hành, hành
duyên thức, thức duyên sắc, sắc duyên lục nhập v.v...th́ trong trừơng
hợp đó như quả luân hồi th́ chỉ học để mà biết thôi c̣n phiền nảo luân
hồi như vô minh, ái và thủ th́ cần phải diệt trừ, chỉ có hành hay hữu
tức là nghiệp luân hồi đó th́ ở đây nếu mà nghiệp nào thuộc về
thiện pháp th́ nên thực hành c̣n nghiệp nào hành hay là nghiệp hữu thuộc
về ác bất thiện pháp th́ cần phải đoạn trừ cái điều đó chúng ta cần phải
làm sao chúng ta thông xuốt như thế đó, đối với một vị tu tâp mà được
thông suốt như vậy th́ được xem như là một vị có ba trí thiện sảo
c̣n nếu như mà chúng ta không rơ như vậy mà chúng ta chỉ nắm chung chung
th́ trong trừơng hợp đó chúng ta hết sức là nhầm lẫn và có thể là nếu
không nhầm lẫn đi nữa nếu mà chúng ta không có th́ cũng bị t́nh trạng là
ngộ nhận, chúng ta có sự hiểu lầm th́ trong trường hợp này nó không có
lợi ích mà trái lại nó nguy hiểm cho chúng ta nữa th́ ở đây thưa
quí vị chúng tôi xin được phép đóng góp một vài ư kiến theo cái sự gợi ư
của TT Giác Đẳng là như vậy.
Một Phật tử hỏi : Kính bạch Ngài Giảng Sư, con được nghe Chư Tôn Đức
Tăng lâu nay bảo rằng vào những thời chúng sinh có tuổi thọ cao
th́ chư Phật Toàn Giác không để lại xá lợi báu thân, nhưng sao gần đây
con lại đựơc nghe 1 vị Luận Sư bảo rằng Chư Phật Toàn Giác thời nào cũng
để lại xá lợi cả . Kính mong Ngài giảng dạy cho con được rơ, kính tri ân
Ngài.
TT Trí Siêu trả lời :
Kính bạch Chư Tôn Đức , kính thưa quí Phật tử , về vấn đề Chư Phật Toàn
Giác thời chúng sinh có tuổi thọ cao không để lại xá lợi báu thân , th́
cái điều này thưa quí vị thật t́nh chúng tôi không có đựơc xem thấy
cái ư nghĩa này ở trong kinh điển cũng như ở trong chú giải, chắc có lẽ
là chúng tôi chưa có đọc hết cho nên ở đây chúng tôi không có ư
kiến trong vấn đề đó.
Nhưng về phần Chư Phật có để lại xá lợi báu thân hay không th́ cái điều
này như là một vị luận sư nào đó đă bảo rằng Chư Phật Toàn Giác thời nào
cũng để xá lợi cả th́ cái điều đó có lẽ là đúng là bởi v́ chúng ta nghe
những cái chuyện bổn sanh ở trong quá khứ thời Đức Phật nào, một vị Phật
nào ,như là trong ba vị Phật trước đây ở quả đất này tức là Đức Phật Câu
Lưu Tôn , Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni , Đức Phật Ca Diếp ,
trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta th́ khi các vị Thế Tôn ấy
viên tịch đều để lại xá lợi báu thân.
Chúng sanh trong thời đó lập tháp thờ xá lợi và những câu chuyện có liên
quan đến việc đảnh lễ tháp xá lợi và các việc có liên quan đến xá
lợi của Chư Phật trong quá khứ như cúng dừơng tháp xá lợi và phát
nguyện như thế nào thế nào để ngay trong kiếp hiện tại này đựơc thành
tựu cái quả vị như vậy như vậy th́ trong trừơng hợp đó chúng ta có thấy
.
Thưa quí vị chúng tôi chỉ được biết một sự việc là Chư Phật xuất hiện ở
đời th́ Ngài lựa thời kỳ trong khi Ngài là vị Bồ Tát ở trong khung
trời Đâu Xuất, Ngài lựa thời kỳ nếu mà chúng sanh tuổi thọ quá cao, cao
trên 10 muôn tuổi , tức là tuổi thọ trên 10 ngàn năm th́ khi ấy Chư Phật
không có xuất hiện trong thời kỳ này.
Thời kỳ mà chúng sanh dưới 100 tuổi th́ Chư Phật cũng không xuất hiện
trong thời kỳ này , v́ lẽ dưới 100 tuổi chúng sanh lúc bấy giờ thiếu
phước báu nhiều quá và cái tâm tư của họ bị phiền năo chi phối rất nhiều
, trí tuệ của họ cạn cợt và tính t́nh của họ rất là hung dữ và tà kiến,
như chúng ta thấy trong cái thời kỳ hiện tại chúng sanh nào có chánh
kiến và hiểu được chánh pháp và có tâm hướng tu tập giải thoát quả
thật là rất ít c̣n đối với chúng sanh đa số th́ những ngừơi đó họ không
có chánh tri kiến không có niềm tin nhất là không có nếp sống nội tâm,
không có những tư duy thánh thiện do đó cho nên Đức Phật mà xuất hiện
trong thời kỳ này th́ sẽ không thể nào thuyết phục đựơc chúng sanh .
C̣n thời kỳ mà chúng sanh tuổi thọ quá cao th́ chúng sanh đó sống dài
như vậy th́ họ không cảm nhận được sự vô thường cái sự khổ đau của kiếp
sống và nhất là chúng sanh sống tuổi thọ cao như thế đó họ sẽ có những
phước báu mà chính do những phứơc báu này mà khiến cho họ sẽ không cảm
nhận được sự khổ đau của cuộc đời ,do đó nếu Đức Phật xuất hiện trong
thời kỳ này Ngài cũng không thuyết pháp độ được cho những chúng sanh đó,
do vậy cho nên chúng tôi chỉ biết cái sự kiện này thôi c̣n về cái sự
kiện mà thời kỳ loài người có tuổi thọ cao Chư Phật không có để lại xá
lợi th́ điều này chúng tôi không từng nghe không từng thấy và chúng tôi
chỉ có ư kiến bấy nhiêu xin quí vị hoan hỷ .
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Phẩm
13: Nhân Sinh
Quan - Phẩm
Thế Gian (Lokavagga)
Dẫn
Nhập Phẩm Thế Gian
TT Giác Đẳng giảng:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thưa qui' vị chúng ta sẽ t́m hiểu về phẩm Thế Gian hay là Lokavagga,
riêng trong tiếng Việt th́ đă là một từ ngữ mà chúng ta phải định
nghĩa nhiều, đặt biệt ở đây để không làm mất th́ giờ v́ chúng ta không
dùng trên cơ sở tiếng Việt mà chúng ta đặc biệt để ư đến chữ Loka
trong phạn ngữ và dựa trên chữ này để mà chúng ta có một cái ư
niệm là cái ǵ mà chúng ta sẽ đề cập đến,
Thật ra nếu chúng ta đọc trọn vẹn phẩm này th́ chúng ta sẽ nh́n
thấy đựơc rất nhiều cái ư nghĩa khác nhau của chữ Loka , chữ Loka được
hiểu là cái ǵ thuộc về thế gian nó đối ngược với cái ǵ xuất thế gian,
và xuất thế gian ở đây là vượt ra ngoài tất cả hệ lụy của trần ai, chúng
ta muốn nói đến vô vi đối với hữu vi pháp giống như trong bài kệ mà
chúng ta đuợc nghe "Hăy nh́n như bọt nước, hăy nh́n như cảnh huyễn! Quán
nh́n đời như vậy, thần chết không bắt gặp". Và bài kệ này được đặc biệt
đưa vào trong phẩm Loka , th́ thưa quí vị thế gian này cả thế gian này
như cảnh huyễn như bọt nứơc, thế gian đó phải được hiểu không phải
là cơi loài người hay là cơi trời mà tất cả cơi vui khổ và có cả đủ vui
lẫn khổ, nghĩa là nói chung cho cả thế gian này.
Chúng ta cũng được nghe trong kệ ngôn 178 "Hơn thống lănh cơi đất, hơn
được sanh cơi trời, hơn chủ tŕ vụ trụ, quả dự lưu tối thắng", th́ thưa
quí vị chữ Loka ở đây chỉ là một vũ trũ , chỉ cho tất cả cái ǵ hiện hữu
và từ ngữ chúng ta gọi là tam giới, tam giới ở đây nói chung cả, tất cả
những cỏi mặt dù ư nghĩa có khác một chút nhưng mà rồi ư nghĩa này nó
cũng giống như ư nghĩa mà chúng ta vừa đọc ở trong câu kệ 170, tức là
quan niệm về thế gian và quan niệm về xuất thế gian, cả hai cái ư nghĩa
trên cũng là một mà thôi .
Và đặc biệt hai ư nghĩa đó không làm cho chúng ta ngạc nhiên khi mà cái
cách dùng từ trong đọan thứ ba được trích dẫn ở tại đây đó là kệ ngôn
169 "Hăy sống theo chánh hạnh, chớ sống theo tà hạnh ! Người chánh hạnh
hưởng lạc đời này, đời sau" ở tại đây th́ chữ asmim loke đựơc chỉ
cho đời này và chữ Loka th́ chỉ cho một kiếp sống của kiếp hiện tại và
kiếp sau này th́ điều này chữ Loka chỉ cho sự hiện hữu, sự hiện hữu đó
dù cho đời này và đời sau như là chúng ta được biết.
Thưa quí vị trong cái sự hiện hữu của thế gian chúng ta phải nói rằng
thế gian không chỉ có hiện hữu như là một sự hiện hữu mang tính cách đơn
điệu mà thế gian này, sự hiện hữu đó là kết cấu của nghiệp của phiền năo
của quả, có nghiệp rồi có quả rồi có phiền năo và trong cái ṿng luân
chuyển đó được xem như là hệ lụy cái ǵ hằng chuyển và như vậy khi mà
chúng ta đọc kệ ngôn " Hăy đến nh́n đời này, Như xe vua lộng lẫy, Người
ngu mới tham đắm, kể trí nào đắm say". Th́ chúng ta lại bắt gặp một
đừơng nét khác của một cái phương diện khác của chữ Loka, chữ Loka ở đây
không phải chỉ nói nên sự hiện hữu của người, của cơi, của nghiệp, chữ
Loka nói lên ở đây tất cả các bản chất hệ lụy của đời sống.
Và thưa quí vị có thể rằng ở đây là một điều mà nói lên về cái
nhân sinh quan hay là vũ trụ quan của đạo Phật khi chúng ta đề cập đến
thế gian này ở trong cái sự hiện hữu và sự hiện hữu đó là cái kết
tinh của nghiệp quả phiền năo và đó là sự luân chuyển của những điều mà
chúng ta gọi là của nhân của duyên.
Và sau cùng thưa quí vị cái chữ Loka trong lúc dịch sang tiếng Anh
dịch là the world th́ được dịch sang tiếng Hán của Pháp Sư Liễu Tham là
Thế Tục Phẩm, cái chữ Thế Tục Phẩm th́ chúng ta lại nghe đến một
cái ư niệm tương đối là gần với ngừơi tu Phật nhưng lại xa lạ với những
người ở bên ngoài, chữ thế tục là những cái ǵ mà thuộc về nhân gian
thuộc về thường t́nh và đối ngược lại là xuất thế, đối ngược lại chỉ cho
đời sống xuất gia, đối ngược lại chỉ cho lối sống đi ngược lại với phàm
tâm với phiền năo "Ai sống trứơc buông lung, sau sống không phóng dật,
chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che", nó lại gợi cho chúng ta
một cái ư niệm khác mặt dù trong bản chữ Hán dịch là Thế Tục Phẩm, nhưng
mà thưa quí vị chữ Thế Tục đó không phải là quá xa với cái nội dung của
phẩm này tuy vậy chúng ta sẽ nh́n thấy rằng những ǵ hiện hữu của trần
gian này đều thuộc về thế tục.
Và cái chữ xuất gia balamật hay là cái tâm lư tu tập của một vị bồ tát
phải có th́ sự xuất gia đó nó có thể hiểu gần và hiểu xa, hiểu gần là
một cái lối sống không gia đ́nh từ bỏ gia đ́nh sống ở một trú xứ an tịnh
thanh vắng để kiên tŕ hạnh nguyện xuất gia trong lúc cái chữ
lakadhammam c̣n có cái ư niệm rất là rơ rệt đó là tâm nguyện
xuất thế tâm nguyện giải thoát giác ngộ không bị vướng mắc ở trong cuộc
sống vô minh phiền năo của trần gian này do vậy khi mà chúng ta đọc vào
phần đầu của phần dẫn nhập của một phẩm th́ chúng ta thấy rằng khi các
vị A Sà Lê kết tập Tam Tạng đưa những bài kệ này vào trong một phẩm,
những bài kệ này vừa ít nhiều vừa có mang một số từ ngữ liên quan đến
cái ư nghĩa của phẩm.
Nhưng bên cạnh đó th́ chúng ta cũng t́m thấy rằng những từ ngữ dùng để
đặt tên cho phẩm đó là những từ ngữ mà qua đó ít nhiều chúng ta phải
nghiên cứu nghiền ngẫm định nghĩa lại nói về điểm này th́ chúng
tôi lại nhớ có một vị Thầy nói một câu mà làm cho quí Thầy khác rất là
buồn cười khi nghe vị này nói rằng cuộc đời này th́ nó bao giờ
cũng không có thật, nếu mà nó thật th́ chúng ta đă không gọi là thế
gian, do đó thế gian có nghĩa là cuộc đời đầy gian trá, dĩ nhiên đó là
một cách giải nghĩa đùi như chúng ta nói chuyện cho mà vui thôi.
Nhưng mà phải nói rằng khi mà chúng ta nói đến chuyện thế gian nó lại
khiến cho chúng ta miên mang rất là nhiều cái ư nghĩa khác nhau, ví dụ
như ở trong chùa nói thế gian là những người tại gia cư sĩ, cái pháp thế
gian là cái pháp của những người tại gia cư sĩ , nhưng mà chữ thế gian ở
trong kinh Phật th́ nói lại bao hàm ư nghĩa rất là rộng lớn chúng ta
thỉnh thoảng dùng cái chữ thế gian này được hiểu như là trần gian, trần
gian được hiểu như là cái ǵ đối với cơi tiên đó là cơi tục, đối với cơi
tiên có nghĩa là tiên cảnh th́ khác với trần gian và điều này thưa với
quí Phật tử chúng ta lại có một cái ư niệm mang tánh cách văn hoá hơn là
một ư niệm từ Phật pháp,
Chữ Loka trong đạo Phật th́ được hiểu rất là rộng và vậy trong ngày hôm
nay trước khi mà chúng ta đi xa hơn ngày hôm qua TT Bưủ Chánh đă giảng
về ư nghĩa của câu kệ ngôn 167, kệ ngôn đầu tiên của phẩm 13,
chúng tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta phải dùng rất nhiều th́ giờ thaỏ luận
về chữ Thế Gian, do đó chúng tôi dùng trọn cả buổi giảng ngày hôm nay,
rất là vui mừng có TT Trí Siêu có mặt trong buổi giảng này và thật ra
th́ TT Trí Siêu lẽ ra là vị sẽ giảng cho buổi học ngày hôm nay nhưng
chúng tôi nhận thấy một điều là chúng ta nên có một chút th́ giờ để thảo
luận xa hơn về cái chữ Thế Gian nên chi chúng ta lại thỉnh TT Trí Siêu
để trả lời một số câu hỏi
1) Chữ Atta trong phẩm 12 này nên được định nghĩa thế nào ?
2) Có chăng một thứ "thi dục huyễn ngă" lành mạnh không ?
3) Những nhà gío dục Phật giáo có nên đặt lại quan niệm hướng dẫn
Phật Pháp khi đề cập đến đề tài "Vô Ngă"
4) Tự Giác và Giác tha cái nào nên làm trước ?
5) Giáo lư vô ngă và tinh thần trách nhiệm ?
6) Vô Ngă hay Phi Ngă ?
7) Biết trách ai đây ?
8) Có chăng nhịp cầu giữa khái niệm và thực tăi ?
9) Có quá đáng chăng khi nói rằng chúng ta hoàn toàn chịu
trách
nhiệm ?
T.T. Giác Đẳng trả lời :
Kính thưa quí Ngài và quí vị TT Trí Siêu đă nhờ chúng tôi bắt đầu
cho buổi học hôm nay là phẩm tự ngă, chắc quí vị ngạc nhiên thấy là tại
sao thông thường đầu mỗi phẩm chúng tôi nói ngắn gọn về tên của mỗi đầu
một phẩm nhưng hôm nay trong phẩm 12 - Tự Ngă , chúng tôi laị dành cả
buổi học , thật ra th́ đây là một trong những đề tài hết sức là quan
trọng và ảnh hưởng rất nhiều đến cái văn hoá Phật Giáo giống như là sự
giáo dục của Đạo Phật. Như quí vị cũng thấy là trên màn ảnh đă có sẵn 9
câu thảo luận cho ngày hôm nay.
Kính thưa quí Ngài và quí vị. Phật giáo là một trong những tôn
giáo mà không có nhấn mạnh nhiều về sự cầu nguyện, nhấn mạnh về những
niềm tin, mà Phật giáo nhấn mạnh rất là nhiều về sự hiểu biết, trong sự
hiểu biết đó chúng ta có thể đem ra ứng dụng vào trong đời sống hành
ngày, tuy vậy để có thể cảm nhận và có thể đưa đạo Phật vào trong
đời sống chúng ta không phải là một câu chuyện dễ dàng và chúng tôi nhớ
rằng Thiền Sư Suzuki, một vị Thiền Sư của Nhật Bổn, Ngài rất là
nổi tiếng là vị đă có phong trào đưa Thiền vào xă hội tây phương, vị
Thiền Sư này đă viết một đọan trong tác phẩm Thiền Luận rằng giáo lư về
không tánh là một trong những giáo lư rất là rạng rở của Đạo Phật và đặc
điểm đă nhấn mạnh là thiền tông, nhưng mà chính giáo lư về không tánh
này đă giết chết một trong những bộ phận của Phật Giáo Nhật Bổn, ngướ
ta đă nhân danh giáo lư này, mà đă làm tiêu hủy đi cái truyền thống giới
luật tinh nghiêm ở trong Sơn Môn, khi người ta nói rằng vạn pháp
giai không đó là một điều mà Thiền Sư Suzuki đă nói trong Thiền Luật.
Chúng ta cũng nghe đến một câu chuyện khác, chúng tôi nhớ rằng
Thiền sư Pháp Minh một vị đă viết kinh Pháp Cú mà Sư Trưởng hay trích
đoạn năm 1979 có một tác phẩm nhỏ được xuất bản trong nội bộ mang tên là
Cái Ta Nguy Hiểm, đó là bản dịch của Sư Chơn Tâm dịch của Ngài
Buddhadàsa, th́ thưa quí vị Ngài Pháp Minh có viết một lời tựa cho quyển
Cái Ta Nguy Hiểm này và ở trong lời tựa của Cái Ta Nguy hiểm này Ngài
Pháp Minh đă nhấn mạnh rất nhiều về một điều, đó là giáo lư vô ngă phải
được hiểu như thế nào đó chứ không thế nào không có cái ngă được bởi v́
không có cái ngă th́ chúng ta tu để làm ǵ , ai chứng và ai đắc v.v...
Và câu chuyện đó tuy là một bài kệ rất là ngắn gọn nhưng mà đă gây ra
rất nhiều tranh luận sôi nổi, chúng tôi thật sự không biết về khoản đời
sau đó th́ Ngài Pháp Minh có thay đổi ư kiến ǵ thêm trong cái quan niệm
của ḿnh hay không, nhưng mà phải nói rằng có một cái ǵ đó rất là
không ổn, trong cái đường hứơng giáo dục của Phật Giáo khi một số
các nhà học Phật th́ lại nhấn mạnh rất là nhiều về một giáo lư vô ngă là
một cái quan niệm rằng tất cả mọi thứ đều là rỗng không là huyễn hoá, và
không có quan niệm ngă tánh nào có chủ đích và ngựơc lại th́ chúng ta
cũng đề cập đến rất nhiều những quan điểm tu là phải cho ḿnh, là quan
niệm tu tập cho ḿnh làm thế nào phải cải thiện đời sống bản thân, đời
sống nội tại ở trong đó chúng ta thấy những tranh luận rất lớn về cái
tinh thần tự giác giác tha, tự lợi lợi tha .
Nếu quí vị đọc 10 câu kệ kinh Pháp Cú trong phẩm Tự Ngă trong phẩm thứ
12, chúng ta sẽ rất là ngạc nhiên để t́m thấy các bài kệ, những bài kệ
này không phải dễ dàng tiêu hóa trong mỗi chúng ta, ngay cả trong truyền
thống Phật Giáo Đại Thừa, khi đề cập đến quan niệm bồ Tát Đạo hay là Bồ
Tát Hành là quan niệm đi vạ đời, đ́ vào địa ngũc mới cứu độ chúng sinh
th́ chúng ta vẫn thấy quan điểm của Tịnh Độ tông để làm sao từ bản thân
của ḿnh đựơc văng sanh về Tây Phương cực Lạc, đó là cái quan niệm hết
sức là phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa.
Riêng về truyền thống của Phật Giáo Nam Tông th́ chúng ta gặp một cái
chống rất là gay gắt ở trong truyền thống của những vị dạy về A Tỳ
Đàm, khi mà những vị này có những định nghĩa về Niết Bàn, về giáo lư về
vô ngă có nhiều vị định nghĩa Niết Bàn như là một sự vắng mặt toàn diện
không c̣n ǵ hết , nghĩa là cuộc sống tất cả sự hiện hữu đều chấm dứt và
điều này cũng là một trong những điều rất là gay gắt, nhứt nhối là bởi
v́ có rất nhiều định nghĩa cho rằng Niết Bàn có nghĩa là một cái
sự chấm dứt toàn bộ mọi thứ th́ ở đây nó sẽ trở thành một điều rất là
tai hại ở trong cái chuyện quảng diễn giáo lư của Đạo Phật.
Thưa quí vị có hàng bao nhiêu cái ư niệm mà liên quan đến tự ngă, ngay
cả trong nền triết học tây phương cũng đă có nhiều các cuộc khủng khoảng
lớn như vậy, một trong những nhà tiêu biểu cho triết học tây
phương cho rằng đă có một cái khủng khoảng to lớn về một cái tôi, một
cái ta một thứ thị dục của ngă mà ngừơi ta vẫn dùng, như là một
con dao hai lưỡi người ta dùng thị dục của ngă để làm sao cho con ngừơi
được thăng hoa và được tốt hơn nhưng ngừơi ta dùng thị dục tự ngă như là
một cái chủ trương để gây ra bao nhiêu cái đau thương cho đời sống, nếu
nh́n vào trong cái lịch sử của nhân loại th́ thưa qúi vị không có điều
ǵ mà làm cho nhân loại điêu linh cho bằng những quan niệm rằng đây là
đaọ của ḿnh và ḿnh đă truyền đạo của ḿnh, đây là dân tộc của ḿnh,
ḿnh phải làm cái ǵ để mang lại quyền lợi cho dân tộc của ḿnh và cái
chủ nghĩa quốc gia cực đoan như là chủ nghĩa phát xít của Nhật Bản và
của Đức Quốc đă làm cho ngừơi ta rất là ngao ngán và rất là sợ hăi về
thứ chủ nghĩa quốc gia Nationalist sắp đe dọa nhân loại trên toàn cầu.
Ở trên thế giới hiện tại bây giờ ngừơi ta đă có những cái nỗ lực để xóa
giảm bớt cái lằn ranh biên giới của quốc gia đặc biệt là tại Âu
Châu mở đầu với 12 thành viên và hiện tại đă lên tới 15, 16 thành viên
và ngừơi ta sắp chuẩn bị để đón nhận những thành viên mới, và trong cộng
đồng chung Âu Châu ngừơi ta muốn t́m thấy một cái nền kinh tế chung ,
một đồng tiền, một thứ tiền tệ đựơc dùng chung và một thứ luật pháp về
h́nh ảnh chung và t́m thấy nhiều điểm chung nhưng không ai có thể phủ
nhận một điều rằng đă có nhiểu lấn cấn, nhưng mà những quốc gia này muốn
hoài vọng vào trong một cộng đồng lớn để cái chủ nghĩa quốc gia càng lúc
càng giảm thiểu, đặc biệt là chúng ta thấy rằng có rất là nhiều lấn cấn
và Anh Quốc đă va chạm với cộng đồng chung Âu Châu và ngừơi ta thành lập
những khối liên hiệp khác trong đó kể cả khối Asian khối liên hiệp
Đông Nam Á.
Cho dù nói thế nào đi nữa th́ chúng ta đang sống trong một cái thời đại
đầy dẫy mâu thuẫn giống như sự mâu thuẫn đă xảy ra từ bao giờ , trong sự
mâu thuẫn đó chúng ta rất mong muốn có được một cái không gian rộng lớn,
cái không gian rộng lớn này có thể hoà nhập với mọi ngừơi và đồng thời
chúng ta cũng muốn ǵn giữ lấy một thế giới riêng tư của chính ḿnh, cái
riêng tư đó là bản ngă của ḿnh đó là tự ngă của ḿnh, những cái ư niệm
về ngă và vô ngă không phải là ư niệm dễ tiêu hoá những cái ư niệm mà về
đối với một ngừơi làm sao gọi là chịu trách nhiệm về hành động của ḿnh,
và một lúc khác th́ chúng ta cũng phủ nhận cái vai tṛ của tự thân ở
trong cái tiến tŕnh nhân quả mà tất cả đều là vô ngă, lát nữa chúng ta
sẽ đi vào từng đề tài thảo luận một th́ quí vị sẽ thấy rằng những bài
học đó không phải là một bài học dễ tiêu hoá , không phải nó chỉ khó
tiêu hoá đối với bản thân mà ngay cả những vị đi hoằng pháp trong sự
hướng dẫn quần chúng, trong sự giáo dục Phật tử v́ việc hoằng pháp
cũng gặp khó khăn không ít.
Kính thưa quí vị với đại đa số quần chúng Phật tử ngay cả trong sự tu
tập ngừơi ta nghĩ tới sự cứu rỗi của bản thân làm cái ǵ đó để đời sống
của ḿnh kiếp này và kiếp sau đựơc tốt hơn, cho dù ngừơi ta nói bằng
những danh tư hoa mỹ người ta dùng cách này hay cách khác , nói đi
nữa th́ ngừơi ta cũng nói đến tự thân của ḿnh rất là nhiều, càng lúc
chúng ta càng đề cập đến một cái giáo lư mà trong cái giáo lư đó không
có nh́n nhận là cái quan niệm về ngă kiến hay quan niệm vê thị dục
thị ngă là quan niệm mang lại cái hạnh phúc, mà Đức Phật Ngài đă từng
nói rằng những ngừơi sống với ngă chấp th́ ngừơi đó là những ngừơi đau
khổ, sợ hăi chứ không có hạnh phúc th́ nói tóm lại, thưa quí vị
phải có một bài học mà chúng ta được chuẩn bị t́nh thần rất là đầy đủ về
phương diện giáo lư cũng như là về quan niệm giáo dục, trong quan niệm
về giáo lư và quan niệm về giáo dục này đó th́ quí Phật tử sẽ nhận thấy
rằng có rất là nhiều điểm mà chúng ta phải thảo luận, chứ không phải chỉ
nghe Giảng sư nói mà có thể đón nhận một cách b́nh thường.
Trước nhất là chúng ta có đề tài thảo luận số một đó là chữ ngă, ở đây
đựơc quan niệm như thế nào nhưng mà trước khi đi vào điểm này th́ chúng
tôi cũng thưa với quí Phật tử về một cái hiện tượng , hiện tượng mà
thừơng xảy ra như là một điều rất là mỉa mai ở trong Đạo
Phật và trong h́nh ảnh mà chúng ta có thể t́m thấy và trong cái
Đạo Phật có rất nhiều vị cổ vơ về một thứ giáo lư vô ngă là chủ ngă
không có chỗ đứng , th́ bên cạnh đó chúng ta cũng nhận thấy rằng điều
này nó chỉ đựơc đặt trên quan niệm về lư thuyết nhiều hơn là đem áp dụng
vào trong đời sống của chúng ta, bởi v́ ngay cả một vị mà có thể t́m đề
tài vô ngă rất là găy gọn rất là xuông sẻ th́ chính bản thân của mổi
chúng ta vẫn thấy rằng trăn trở rất là nhiều với những cái gi của
tôi, tôi bị xúc phạm như thế nào, cái ǵ mà tôi có , cái ǵ mà tôi được,
tôi là ai v. v... những thứ đó ảnh hưởng rất lớn.
Nên chi khi mà chúng ta đào sâu vào nội dung của phẩm này th́ chúng ta
thấy rằng những đề tài nó không những chỉ liên quan về phương diện lư
thuyết mà đó là những bài học mà chính bản thân của chúng ta khi t́m
cách để không những chỉ lănh hội mà có thể đem ứng dụng vào trong đời
sống của chúng ta không phải là một công việc dễ dàng , chúng tôi
có thể nói rằng đây là một trong những đề tài rất là thú vị, thú vị bởi
v́ chúng ta sẽ nghe rất là nhiều cái giai thoại liên quan đến đề tài
này, nói về con ngừơi một cái thực tại của hiện hữu, thực tại mà chúng
ta có thể gọi đó là cao quí hay là tầm thừơng hay cách này cách khác đó
là tùy chúng ta .
Nhưng nói chung th́ thưa qúi vị cái thái độ của Đức Phật là một vị đạo
sư là một vị đă đứng ngoài và đứng trên tầt cả. Ngài cho chúng ta
gợi ư vô cùng quan trọng khi mà Ngài dạy những lời dạy này và câu thảo
luận đầu tiên là chữ atta hay là chữ ngă, chúng tôi dịch phẫm này là
phẩm tự thân hay là phẩm chính ḿnh, phẩm tự thân là cái ǵ đề cập dến
thí dụ như về bản thân, thí dụ như về chúng ta là nương tựa của ḿnh
v.v... do đó chúng tôi không có dịch phẩm tự ngă mà chúng tôi dịch
tự thân đặc biệt ở đây hôm nay trong phẩm đầu này chúng tôi đặt biệt
cung thỉnh TT Trí Siêư định nghĩa chữ Atta hay là chữ atma cũng có một
chỗ đứng vô cùng tế nhị và quan trọng ở trong văn học Phạn Ngữ ở trong
cái văn học của Ấn Giáo .
Vi Khanh hỏi : Thưa Sư tại sao tượng Phật Quư Ngài thờ có tóc,
nhưng sao Quí Sư lạ không giữ được mái tóc mà phải cạo a.
TT Giác Đẳng trả lời :
Kính Bạch Chư Tôn Đức và thưa quí vị thật ra th́ đa phần là chúng
ta nh́n những pho tượng Phật là thỉnh thoảng có vài tượng Phật, giống
như là Ngài có một cái búi tóc ở trên đầu và tóc của Ngài ,tương đối dài
nhất là những pho tượng tạc theo Mỹ thuật của người Hy Lạp .
Thật ra th́ những ǵ mà chúng ta được nghe ở trong kinh liên quan đến
tóc của Đức Phật là sau khi đi xuất gia th́ Ngài chỉ cắt tóc có một lần
ở bên bờ sông A lô Ma là khi Ngài cắt tóc như vậy th́ phần c̣n lại v́
Ngài dùng gươm để cắt nên nó không có sát nhưng mà phần c̣n lại nó xoắn
tṛn lại h́nh như con ốc và nó dán vào trong da đầu của Ngài ,và riêng ở
tại đỉnh đầu của Ngài th́ có một chút nhô lên gọi là đỉnh hay là nhục kế
nhỏ ở trên đỉnh đầu, và v́ vậy ngày hôm nay chúng ta thừơng tạc tượng
Phật dựa trên cái quí tướng này , dựa nhục đỉnh đó và dựa trên câu
chuyện mà Đức Phật Ngài đă c̣n lại một ít tóc xoắn ở trên đầu của Ngài
đó là trừơng hợp rất là đặc biệt của một vị Phật, và điều đó cũng không
có nghĩa là Ngài có nhiều tóc hay là Ngài có tóc dài ,mà là Ngài có cái
phước rất đặc biệt là từ khi Ngài cắt tóc cho đến ngày viên tịch th́ tóc
chỉ có chừng đó thôi đây là câu chuyện mà chúng ta nghe ở trong kinh và
những nghệ nhân họ dựa trên câu chuyện này để học tạc những pho tượng
Phật.
Riêng về Chư Tăng th́ có lẽ là đời sống của Chư Tăng khi thí phát tức là
cạo bỏ râu tóc mặc áo cà sa, chúng ta cứ tưởng tựơng mỗi ngày mà cứ cạo
râu chảy tóc rồi phải dùng những loại sà bông đặc biệt để lo cho tóc của
ḿnh và mỗi vị chải một kiểu th́ thưa quí vị nó rất là phiền hà từ đời
này qua đời kia, thời xưa ngừơi ta lại không có thợ hớt tóc nhiều, đa số
những vị Tăng sĩ những vị Bà la Môn hay những vị tu sĩ Ấn Độ Giáo
thời bây giờ hôm nay th́ có một số họ cạo tóc c̣n một số họ để tóc đanh
hay là một số để tóc dài nó rất là phiền phức trên nhiều phương diện.
Nên cái sự cạo tóc của Chư Tăng không phải là không được để tóc khi mà
nghe nói không được để tóc th́ như là chuyện cạo tóc là việc hết sức là
khó chịu , nhưng thật ra nếu chúng ta sống ở trong chùa lâu chúng ta cạo
tóc rồi th́ chúng ta thấy điều đó mang lại cho chúng ta khỏe khoắn lắm,
rất là lợi lạc, xin thưa với quí vị là cứ hai tuần lễ mà cạo tóc một lần
khi cạo tóc xong th́ trong người thấy nó nhẹ nhàng và cái cảm giác hạnh
phúc chỉ có ḿnh đi xuất gia, ḿnh ở trong chùa mới biết đựơc, tóc hơi
dài một chút th́ nghe trong đầu nó hơi ngứa ngáy và do vậy cạo tóc được
xem như là cái ǵ thuận lợi cho ngừơi xuất gia.
Về mặt h́nh thức th́ Chư Tăng đều giống nhau vị nào cũng cạo tóc hết
và không có dùng tóc để trang điểm, mỗi con ngừơi đẹp xấu là do mái tóc
của ḿnh, như một người đi xuất gia rồi cạo tóc th́ có thể nói
rằng không c̣n quan trọng nhiều về cái h́nh tướng của ḿnh nữa, th́ điều
đó nó hợp với lẽ đạo hơn do vậy chúng tôi hiểu rằng Phật tử nào đó hỏi
tại sao Đức Phật để tóc được mà Chư Tăng lại để tóc không được do vậy có
bất công với Chư Tăng không, tại sao Chư Tăng không để tóc đưọc.
Thật ra nếu chúng ta nói về đời sống đi xuất gia lúc mà ḿnh được cạo
tóc th́ phải nói là ḿnh được cạo tóc, lần đầu tiên vị Thầy mà cầm con
dao cạo để mà cạo tóc ḿnh th́ nếu chúng ta là ngừơi có tâm đi xuất gia
th́ lúc đó chúng ta mới cảm thấy đựơc ư nghĩa hết sức là thiêng liêng từ
nay cái bộ tóc của trần gian xin trả lại cho đời, và ḿnh sống một cuộc
sống mới hoàn toàn về mặt tâm lư th́ điều đó rất là tốt,
Về mặt h́nh thức th́ nó cũng là đồ bộ với Chư Tăng và đời sống hàng ngày
th́ nó dễ dàng được chăm sóc hơn thật ra th́ Chư Tăng không phải lo cái
tóc nó thoải mái rất là nhiều thứ, chúng tôi nghĩ rằng quí vị nào mà đă
có từng sống ở ngoài đời các vị thấy rằng cái việc chăm sóc một mái tóc
th́ quả là nó đ̣i hỏi rất là nhiêu khê trong đời sống của quí vị nhất là
quí bà quí cô, th́ cạo tóc nó vẫn là một điều riêng cá nhân của chúng
tôi là một vị tu sĩ th́ chúng tôi vẫn thích có sự lựa chọn đó hơn là để
tóc, chúng tôi nói điều này trong cái kinh nghiệm cá nhân thôi bởi v́ ở
trong chùa đă lâu th́ nó quen rồi, khi hai tuần lễ cạo tóc một lần th́
nghe trong ngừơi nó nhẹ nhàng nghe nó sản khoái . Chúng tôi xin được dứt
câu trả lời ở đây.
Chizburger hỏi : Khi giải thoát th́ chúng ta đi về đâu
Câu trả lời của TT
Giác Đẳng:
Thưa đại chúng có lẽ đây là một câu hỏi rất là thú vị, bởi v́ thật ra
khi Đạo Phật mà đề cập đến giải thoát th́ ngay chữ giải thoát nó
có ư nghĩa là giải thoát sự khổ, giải thoát phiền năo, giải thoát cái
ṿng luẩn quẩn của nghiệp báo, nói theo Đạo Phật th́ con ngừơi của chúng
ta đi luẩn quẩn trong cái ṿng của nghiệp quả và phiền năo.
Nghiệp quả và phiền năo nó xoay vần chúng ta trong cái ṿng luẩn quẩn đó
chúng ta khổ nhiều hơn vui, vui rất ít mà khổ rất nhiều, giải thoát tức
là giải thoát khỏi điều đó và khi nói đến giải thoát th́ chúng ta hay
nghĩ đến một chân trời xa xôi, làm sao mà chúng ta nghĩ rằng sau khi
ḿnh bỏ cái này ḿnh đạt đến cái ǵ nhưng mà cái chữ giải thoát trong
nhà Phật mà nói theo lư Tứ Đế th́ khi mà Đức Phật Ngài dùng Nirodha
là Diệt Đế để mô tả cái cứu cánh giải thoát, th́ Ngài đă dùng
một chữ rất là đặc biệt đó là chữ Diệtkhổ.
Chữ
Diệt khổ tức là giải thoát, bây giờ nếu chúng ta nhức răng mà chúng ta
làm sao để hết nhức răng th́ đó đúng là một cái sự giải thoát và chúng
ta hiểu được cái cảm giác của cái hết nhức răng đó dựa trên cái chữ nhức
răng mà chúng ta đang trải qua sự khổ này, thật ra th́ hầu hết tất cả
các tôn giáo triết học mà nói về cái kiếp nhân sinh người ta đều cố gắng
để vẽ ra một cái cảnh giới khác hơn là cảnh giới mà chúng ta đang sống ở
đây và cái cảnh giới đó được xem như là cảnh giới giải thoát, cái cố
gắng vẽ như vậy đă xảy ra rất nhiều trong quá khứ và hầu như cái cố gắng
nào nó cũng dẫn đến chỗ bế tắc hết, tại v́ sao, tại v́ khi chúng ta vễ
vời ra một cái mà chúng ta chưa thật có chưa thật biết th́ nó là một
điều rất là nguy hiểm v́ vậy trong cái tinh thần của ngừơi Phật tử khi
mà chúng ta đề cập đến Giác Ngộ giải thoát.
Giác Ngộ là ǵ ?, Giác Ngộ tức là chúng ta thấy rơ đựơc cái thực chất,
thấy rơ được bản thể của sự vật, giải thoát là ǵ ?, tức là chúng ta
vượt ra khỏi cái ṿng cương tỏa của phiền năo ṿng cương tỏa của đau
khổ, phiền năo và đau khổ là hai cái ǵ mà chúng ta đang trải qua và
đang cảm nhận được nên nếu mà nói về câu hỏi rằng : Giải thoát , ai giải
thoát và chúng ta giải thoát rồi chúng ta sễ đi về đâu, chúng ta sẽ ra
sao ?, th́ thưa quí vị đă có một vị danh tăng viết một cuốn sách nói
rằng ít nhất Đức Phật đă từng là cha là mẹ là bà con là quyến thuộc là
người phục dịch cho chúng sanh th́ sau khi Ngài thành đạo Ngài vẫn tiếp
tục làm cha là mẹ là quyến thuộc là người phục dịch cho chúng sanh,
không phải đời này mà măi măi về sau nữa có một ngừơi Phật tử đọc câu đó
đă hỏi chúng tôi rằng nếu ḿnh tu để kết cuộc ḿnh măi măi trở thành cha
thành mẹ thành quyến thuộc thành ngừơi phục dịch cho chúng sanh th́ ḿnh
tu như vậy cũng chán quá hay hoặc giả có một số người phật tử nói với
chúng tôi rằng bây giờ ḿnh tu để chứng quả ,sanh làm Phật rồi trở ra
làm Bồ Tát, rồi ḿnh cứ đi lang thang chỗ này chỗ kia trong cơi ta bà
này thấy ai khổ th́ ḿnh đến ḿnh giúp và giúp như vậy không biết khi
nào cùng khi nào tận th́ công việc đó nó mệt quá không biết tới chừng
nào ḿnh có thể retire được.
Th́ chúng tôi phải nói với quí vị như vậy là cho dù chúng ta có dùng bao
nhiêu ngôn ngữ và bao nhiêu cái sự suy diễn đó chúng ta tưởng tượng về
cái cảnh giới giải thoát và sau khi chúng ta giải thoát th́ đi về đâu
th́ điều đó nó hoàn toàn là hư tưởng hết nó rất là khó, ngày hôm nay
thưa qúi vị khi mà chúng ta nói về quả vị Tu Đà Hườn hay là quả vị Nhập
Lưu th́ quí vị cũng nghe nói rằng vị đạt đưọc quả vị Nhập Lưu đă chứng
được một trạng thái mà qua đó ba cái kiết sử được đọan trừ là Thân
kiến Hoài Nghi và Giớc Cấm Thủ nếu chúng ta ngồi xuống để mà bàn cho
rơ th́ thấy rằng thế nào là cái hệ lụy của thân kiến, thế nào là hệ lụy
của hoài nghi và thế nào là hệ lụy của giới cấm thủ, nhưng mà hỏi rằng
sau khi mà diệt trừ ba thứ đó th́ vị Tu Đà Hườn sễ sống như thế nào th́
đó là một câu chuyện khác chúng ta chỉ biết rằng vị đó giải thoát cái
ǵ, nên chi câu hỏi mà chúng ta nên đặc ra tại đây nếu một ngừơi gọi là
tu tập để giải thoát th́ vị đó giải thoát cái ǵ, câu hỏi đó nên đựơc
đặc ra , nhưng mà chúng ta nói rằng sau khi giải thoát ḿnh sẽ đi về đâu
th́ câu đó không phải là một câu đựơc diển tả đến ở trong kinh
Phật,.cũng như là chúng tôi nói rắng Đức Phật Ngài dạy cứu cánh của Đạo
Phật là ǵ, đó là sự diệt khổ và hỏi rằng sau khi diệt khổ ḿnh sễ như
thế nào th́ điều đó không phải là một điều nên bàn đến tại v́ rất là khó
nói thưa quí vị.
Có một lần chúng tôi bỏ ra một đọan th́ giờ trong một lớp giảng của rơom
Thảo Luận Phật Pháp để nói về cảnh giới Niết Bàn mà Ngài Mahathera
Rahula đă tŕnh bày trong "Những con đừơng thoát khổ" mặt dầu Ngài tŕnh
bày rất là khúc chiết nhưng mà chúng tôi có cảm nhận được là quí Phật tử
nhận ra điều đó rất là khó khăn để lănh hội bởi v́ sao?, bởi v́ nếu quí
vị nh́n một đứa con lên bảy lên tám tuổi nó không ráng học để mai mốt có
danh có phận với cuộc đời thành ra kỹ sư bác sĩ, và nó hỏi là kỹ sư bác
sĩ th́ lúc đó ḿnh sẽ đựơc hửơng cái ǵ, thật ra cha mẹ khó nói lắm tại
v́ với cái tuổi thơ lúc đó nó chỉ biết được một cái chừng mực nào đó,
th́ cái chừng mực đó phải tôn trọng.
Khi mà chúng ta đề cập đến Giác Ngộ Giải Thoát và thưa quí vị
chúng ta có thể tửơng tượng rất nhiều về cảnh giới mà chúng ta sẽ
sanh đến sau khi chúng ta giải thoát và Niết Bàn chúng ta tửơng tượng nó
là một cái cơi, hoạc giả là chúng ta sẽ trở thành ngừơi này ngừơi khác
hay là tối thiểu như là trong kinh của chữ Hán cũng có danh từ là
Thượng Sanh Thựơng Phẩm những cái mà chúng ta có thể suy diển được nhưng
mà rồi thưa quí vị những thứ đó nó cũng chỉ là sự mô tả rất giới hạn hết
sức là giới hạn,
Nên chi khi hỏi rằng khi giải thoát chúng ta đi về đâu th́ phải trả lời
rằng nói đến giải thoát th́ chúng ta giải thoát cái ǵ mới quan trọng
hơn là chúng ta sẽ trở thành cái ǵ, giải thoát cái ǵ ? giải thoát ra
khỏi cái ṿng luẩn quẩn của nghiệp quả của phiền năo, đạo hữu Chizbuger
có nói rằng Niết Bàn ở trong từ bi hỷ xả , tự tại an lạc chúng ta nói
như vậy cũng là một cách rất tương đối là giải thoát là
không có khổ nữa, không có phiền năo nữa nhưng mà sau khi cái không khổ
không phiền năo cái mà an lạc tự tại , chúng ta là cái ǵ th́ thưa quí
vị đó không phải là một điều mà chúng ta có thể t́m thấy trong một cái
ngôn ngữ b́nh thừơng của chúng ta, hăy hỏi rằng giải thoát là giải thoát
cái ǵ th́ điều đó nó quan trọng hơn là chúng ta sẽ là cái ǵ
Phẩm 13: Nhân Sinh Quan - Phẩm Thế
Gian (Lokavagga)
Kinh
Pháp Cú, kệ ngôn 177: Những ảnh hưởng nào về mặt nội tâm đáng chú ư khi
nói về pháp bố thí ?
TT Giác Đẳng giảng :
Thưa quí vị khi mà chúng ta nói đến những ảnh hủơng nào về mặt nội
tâm đáng chú ư khi nói về pháp bố thí, th́ đây quả thực là điều này điều
đáng chú ư và đáng chú ư hơn là cái quả phước của sự bố thí mang lại
nữa.
Theo trong kinh Phật th́ đời sống của chúng ta sở dĩ chúng ta rất là khó
để thăng hoa, rất là khó để chuyển hóa, rất là khó để thay đổi là tại v́
chúng ta cứ bám lấy khư khư cái ǵ ḿnh đă có và những thứ đó chúng ta
gọi là của ḿnh, thí dụ như là kiến thức của ḿnh, thí dụ như là quan
niệm của ḿnh và thí dụ như tài sản, cái ǵ cũng của ḿnh hết nên chi
cái dấu hiệu mà con ngùơi có thể thay đổi được là dấu hiệu con
ngừơi bắt đầu có thể bỏ ra cái ǵ mà ḿnh nên bỏ.
Và như là một đứa trẻ hồi nhỏ, nhất là những đứa trẻ nhà nghèo có đựơc
một vài món đồ chơi và cứ giữ chặt lấy đồ chơi đó cho đến cái tuổi
trửơng thành th́ dần dà mới thấy rằng có những giá trị khác nó lớn hơn
những món đồ chơi ,mà tâm tư của ḿnh bắt đầu rời xa những món đồ
chơi này ,th́ Ngài Kasapa Ngài ví dụ chuyện đó như là một sự trưởng
thành trong cái sự tu tập và cái sự trưởng thành của ḿnh trong sự
tu đó nó bắt đầu từ cái thái độ là ḿnh biết mở rộng bàn tay .
Cái chữ bố thí mà nhân gian thường sài như là chúng ta thường thấy là
chữ bố thí mang tính cách là cho ngừơi ăn mày cho ngừơi ăn xin cho những
ngừơi cùng khổ ,trong một vài trừơng hợp quí Phật tử thấy rắng nếu
bạn bè chúng ta mà họ xin chúng ta một cái ǵ đó như là họ nói
rằng họ muốn có một bữa cơm để ăn trưa nay, đến nhà chúng ta ăn cơm trưa
được không mà nếu chúng ta nói đến đi chúng tôi sẽ bố thí cho một bữa
cơm, th́ chữ bố thí đó nghe rất là nặng trong tiếng Việt của chúng
ta.
Nhưng mà chữ bố thí ở trong kinh Phật và nguyên ngày xưa th́ chữ bố thí
đó bao hàm rất nhiều nghĩa, có nghĩa là cho, có nghĩa là tặng, có nghĩa
là cống hiến, có nghĩa là cúng duờng ví dụ như là đúng theo từ ngữ th́
cái việc mà chúng ta dâng cúng hương đăng hoa quả lên bàn Phật cũng là
một sự bố thí , cúng dường một bữa trai Tăng cũng là bố thí, tại v́ đă
lâu đời rồi nên chi người ta nghĩ đến bố thí là làm chuyện phước thiện
và làm chuyện phước thiện th́ chuẩn bần chuẩn thí cho người nghèo và v́
vậy những người thọ thí là những ngừơi thấp kém.
Không phải như vậy cái chữ bố thí đúng ra trong đạo Phật th́ kể cả
khi mà chúng ta cúng dường phụng dưỡng cho cha mẹ th́ cũng là hành động
nó nằm trong ư nghĩa của chữ bố thí, trong kinh Phật, th́ thưa quí
vị dầu cho cúng dường cho cha mẹ, cho tam bảo hay là cho bạn bè bất cứ
điều ǵ hoặc giả chúng ta nói pháp cho nhau nghe cũng gọi là pháp thí,
chúng tôi nhớ ở chùa lâu lâu Hoà Thượng có nói rằng có một nhóm Phật tử
đến thôi Thầy Trụ Tŕ thí cho một thời pháp, th́ có một Phật tử
nói với chúng tôi rằng sao Hoà Thựơng nói nặng lời như vậy, sao Hoà
Thượng không nói thuyết cho một bài pháp mà Hoà Thượng nói thí cho một
bài pháp, th́ chúng tôi nói là quả thật Hoà Thượng
sống trong thế hệ trứơc do vậy đối với Hoà Thựơng chữ thí đó nó rất là
gần, thí dụ như pháp thí tài thí nó không có ǵ hết nhưng trong mạch văn
tiếng Việt hôm nay chúng ta nói là thí cho một bài pháp hay thí cho cái
ǵ đó th́ nghe nó hơi nặng một chút.
Th́ thưa quí vị lại bên cạnh đó nó lại có ư nghĩa khác là cái chữ dứt bỏ
CÀGA thừơng dịch là xảtài, xả tài tức
là chúng ta đem những ǵ của ḿnh cái tài sản của ḿnh cho ngừơi khác
gọi là xả tài, chữ tài ở đây là tài sản, chữ tài ở đây không phải là
tiền thôi, và thường dịch là dứt bỏ, chữ dứt bỏ th́ nó lại không có hay
nữa, tại v́ chữ bỏ có nghĩa là chúng ta quăng bỏ đi, dứt bỏ thí dụ như
đôi giày rách chúng ta không sài chúng ta quăng th́ cái đó
gọi là dứt bỏ, nhưng mà chữ CÀGA ở đây là xả tài là cái ǵ
của ḿnh mặc dầu rất là khó khăn để mà đem chia sẻ nó cho người khác mà
ḿnh vẫn có thể chia xẻ đựơc th́ đaọ Phật gọi đó là CÀGA là
xả tài, th́ cái pháp bố thí là một pháp giúp cho ta chuyển hoá tâm
tư của ḿnh, như là khi chúng ta trửơng thành th́ chúng ta bắt đầu biết
rằng, nghĩ rằng cuộc sống có người hợp với ḿnh , cuộc sống Đông
có mày, Tây có tao, chứ không phải chỉ có ḿnh chúng ta sống trong cuộc
đời, là chúng ta bắt đầu biết chia sẻ và hơn thế nữa chính v́ cái khả
năng có thể chia sẻ đựơc có thể ban bố được nên chi chúng ta mới
có khả năng từ bỏ những ác pháp khác, mà nếu chúng ta không có khả năng
bỏ các nhỏ như là 5, 10 đồng bỏ những việc đó th́ đối với những các tham
sân si đối với một cảm giác nào đó chúng ta rất là khó mà từ bỏ.
Phải nói rằng cuộc hành tŕnh của Đức Phật cho dù ở trong một kiếp
thôi như là kiếp chót khi Ngài thành Phật từ cương vị một Thái Tử một
ông Hoàng mà đi xuất gia trở thành Samôn th́ chúng ta thấy rằng trong
suốt tiến tŕnh đó nó là một tiến tŕnh của xả ly của xả kỷ, từ cái việc
rời bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ cho đến từ chối để làm giáo
chủ ở trong hội chúng của hội chúng Alalam hay là Uhaca ,
rồi cho đến về sau này khi mà Ngài tu khổ hạnh hoặc giả từ bỏ con đường
khổ hạnh anh em kiều Trần Như bỏ Ngài ra đi v. v… th́ đối với một ngừơi
tu tập cái khả năng khả dĩ có thể xả ly nó quan trọng hơn là khả năng để
thâu luợm.
Chúng ta thường nghĩ rằng trong đời cái ngừơi mà được nể mặt, gọi là
đáng đựơc tán thán, đáng ca ngợi là những ngừơi có khả năng kinh ban tế
thế, nước lă mà khuấy nên hồ có thể một tay gầy sự nghiệp, một tay
có thể thủ đắc được sự nghiệp làm giàu với tiền muôn bạc vạn như là ông
Bill Gates có trở thành ngừơi giàu nhất đáng tán thán, nhưng mà cái văn
hoá trong Đạo Phật , chính cả lời dạy của Đức Phật th́ Ngài dạy rằng cái
tâm mà thâu lượm th́ hầu như là rất là bản năng của ḿnh kể cả một đứa
bé 10 tuổi cũng biết thủ đắc,có thể nó khéo hay không khéo nó làm được
nhiều hay ít, nhưng mà cái tâm gọi là cố chấp hay là chấp thủ vào cái
tài sản của ḿnh th́ một đứa nhỏ cũng có thể có đựơc, nhưng mà tâm xả ly
th́ nó đ̣i hỏi một cái tŕnh độ tinh thần rất là cao mà chính ở đây
chúng ta nói là ảnh hửơng của bố thí và v́ vậy thưa quí vị đối với Đạo
Phật th́ những thiện pháp dẫn đầu bao giờ cũng là bố thí hết như là 10
pháp BaLaMật th́ bố thí Balamật đứng đầu, hoặc giả thập hạnh phúc
th́ bố thí là đứng đầu hoặc giả 3 pháp của ngừơi cư sĩ th́ bố thí
đứng đầu, thất thánh tài th́ bố thí đứng đầu v.v…
Th́ tại sao điều đó nó lại quan trọng như vậy bởi v́ nó cho phép chúng
ta hướng về một chân trời mới mà chân trời đó chúng ta phải sống ngựơc
lại với cái bản năng vốn là một phần hết sức là cột rễ của ḿnh là
cái sự thủ chấp làm thế nào mà chúng ta có thêm mà chúng ta không
chịu buông ra , không chịu xan sẻ nên chi ảnh hưởng của bố thí rất là
quan trọng mà trong túc sanh chuyện kể về tiền thân Đức Phật th́ cho
chúng ta thấy rằng đối với tự thân Ngài mà Ngài đổi lấy sự phục vụ tha
nhân th́ cái phép bố thí nó mang cái tác dụng giống nhau nghĩa là ḿnh
cho cuộc đời được bao nhiêu có bao nhiêu th́ chính sự tu tập của ḿnh nó
lớn bấy nhiêu tại v́ sự xả kỷ của ḿnh , đừơng tu bố thí đứng
đầu, vị tha là tánh vô cầu là tâm, vị tha là tánh nghĩa là tánh bố
thí đó là v́ ngừơi khác , nhưng mà cái sự vô cầu tức là cái sự xả kỷ nó
chính là cái tâm của ḿnh và về cảm nghĩ nội tâm th́ phải nói rằng rất
là lớn và chúng ta có thể nói không sợ sai lầm, một ngừơi Phật tử mà làm
công đức bố thí dù bất cứ trong trừơng hợp nào th́ thưa quí vị ảnh hưởng
nội tâm nó quan trọng và thậm chí nó quan trọng hơn là cái kết quả cái
hạnh bố thí mà mang lại phước vật đời sau này.
HoaLan2003 hỏi : Kính thưa TT Giảng Sư có thể giảng cho chúng con làm
thế nào để khống chế cơn sân hận
TT Giác Đẳng trả lời :
Kính thưa quí vị về điểm này th́ có hai cái nh́n cho câu hỏi và có hai
câu trả lời.
Câu trả lời thứ nhất là y cứ trên kinh sách là một vị tận diệt được cái
tâm sân của ḿnh là vị đó phải là vị Thánh A Na Hàm và vị
giảm thiểu được tâm sân của ḿnh là vị Tư Đà Hàm, chúng ta nói như vậy
là chúng ta nói một cách rốt ráo , nói như vậy là đi thẳng vào vấn đề.
Trong cách nói thứ hai là sân hận không phải là không có phương cách để
được giảm thiểu để được chuyển hoá trong đời sống hiện tại, sân hận nó
là một hiện tượng lớn ngày hôm nay trong xă hội đặc biệt là sự thù ghét
, ở tại Hoa Kỳ đă bắt đầu có nhiều cái điều luật , nhiều đạo luật ở tại
các tiểu bang thông qua một số trừơng hợp là ngừơi ta phạm tội v́ cái sự
ghét bỏ gọi là hated crimenal.Những hated crime này là do những người họ
ghét, ví dụ như là họ rất ghét những ngừơi đồng tính luyến ái và do vậy
họ chặng đường những ngừơi đồng tính luyến ái họ đánh chết những
ngừơi này, hay là họ rất ghét những ngừơi da đen chẳng hạn và đó là một
hiện tượng rất là phổ thông trong thời đại.
Một cái hiện tượng thứ hai cũng rất phổ thông là chúng ta sống ngày hôm
nay rất là căng thẳng bản thân của ḿnh th́ có quá nhiều việc phải làm
và có rất ít th́ giờ để giải quyết việc, đặc biệt là cuộc sống tại các
quốc gia kỹ nghệ khi ta sống tại các quốc gia kỹ nghệ th́ thưa quí vị
đời sống tương đối căng thẳng, chúng ta bớt cái sự kiên nhẫn bớt
đi, cái sự khoan dung chúng ta thấy trái tim của chúng ta quá nhỏ bé
không đủ bao dung cho cuộc đời và chúng ta rất là dễ dàng để bực tức,
chúng tôi nhớ có một lần xem một cuốn phim ở trên phi cơ , không biết
cuốn phim đó là ǵ nhưng mà có một ngừơi đàn ông trung niên trong cơn
giận dữ đối với công việc của ḿnh đă quát nạt một đứa bé, đứa bé là
cháu của ḿnh và sau đó đă ngồi xuống để xin lỗi, và xin lỗi với tất cả
sự chân thành, câu chuyện của anh đó cũng giống như trong đời sống của
chúng ta , rất dễ dàng để chúng ta giận cá chém thớt là bởi v́ chúng ta
quá căng thẳng và quá mệt mỏi với đời sống ở chúng quanh, chúng ta dễ
nổi cáu.
Rồi thưa quí vị cái sự tự do phát biểu ư kiến tự do ngôn luận tự do phôi
diễn cái ǵ ḿnh suy nghĩ nó cũng là một h́nh thức khác, nó đă đánh mất
đi cái thái độ tự chế ở trong cái xă hội đông phương là một cái xă hội
ngừơi ta càng ca tụng cái thái độ tự chế là con ngừơi trửơng thành con
ngừơi hiểu biết con ngừơi có ḷng tự trọng là phải cẩn thận với lời ăn
tiếng nói của ḿnh, ḿnh không thể nào nói năng một cách bừa băi tùy
tiện hay là ở trong ḷng ḿnh vui buồn, vui giận ǵ chúng ta cũng có thể
đem bộc lộ ra bên ngoài, nhưng cái văn hoá của Tây phương đă ảnh hưởng
rất lớn và càng lúc con ngừơi càng dễ thay đổi quan niệm là tại sao ḿnh
phải tự ḿnh dồn nén để cho ḿnh bị ấm ức ,nếu cái ǵ ḿnh không thích
ḿnh cứ nói ra nên chi nó tạo ra một sự việc là con ngừơi với con ngừơi
rất là dễ tranh chấp ngay cả giữa vợ chồng anh em bạn bè và giữa đồng
nghiệp với nhau ngừơi ta không c̣n nghĩ rằng nên đối sử với nhau một
cách tế nhị, ngừơi ta không nghĩ rằng ḿnh phải nhẹ nhàng và phải nương
nhẹ với nhau, phải để ư lời ăn tiếng nói của nhau mà đây là một thời đại
mà con người rất là dễ tuông tất cả sự bực dọc của ḿnh và điều đó nó có
lợi một số phương diện nhưng mà nó lại tác hại một số phương diện khác
là nó tạo ra một số hỗn độn của xă hội và nó rất là dễ mất đi cái t́nh
giao hảo, đôi lúc cái t́nh mà ngừơi ta có thể bỏ ra năm ba năm để vun
bồi nhưng mà nhất thời đúng là đống củi ba năm cháy một giờ chỉ trong
năm bảy phút nóng giận tuông ra hết những ư tửơng trong đầu của ḿnh th́
thưa qúi vị nó đă tạo nên một cái bi kịch và sau đó bao nhiêu lời xin
lỗi th́ nó cũng không bù đắp đựơc.
Có thể nói rằng chưa có thời đại nào mà con ngừơi phải đối diện với
nhũng điều trái ư nghịch ḷng như thời đại này và không may cho chúng ta
một điều oái ăm là thời đại này là thời đại nhiều tiện nghi nhất, nhiều
tiện nghi nhưng mà con người lại không có thanh thản , tiện nghi càng
nhiều th́ con ngừơi phải trả cái giá rất đắc cho nó, do đó chúng ta nên
hiểu đó là một hiện tượng của thời đại .
Bây giờ chúng ta hăy đi vào cái đề tài chính của câu hỏi của cô HoaLan
là làm thế nào để chúng ta có thể thay đổi và chuyển hóa cái sân hận của
ḿnh th́ thưa quí vị theo trong kinh th́ cái căn bản của cái sân hận là
bởi v́ thiếu ḷng từ chúng ta phải tăng gia ḷng từ và nói như là
Ngài Na Tiên đừng đợi khát mới đào giếng, đừng đợi giặc đến mới xây
thành trong những lúc mà chúng ta thanh thản, trong lúc đời sống b́nh
thường th́ cố gắng tu tập ḷng từ mỗi buổi sáng và buổi chiều cho dù mệt
mỏi, cho dù chúng ta có bị bận rộn đến đâu th́ trứơc khi đi ngủ và vừa
lúc thức dạy th́ hăy cố gắng nuôi cái tâm nguyện là cho tất cả chúng
sanh đựơc an lành, nguyện cho chúng sanh đừng có oan kết, cái lời nguyện
như vậy đó tuy nghe nó rất là ngắn ngủi và nghe nó như là một điều hư
tưởng,nhưng mà nó sẽ chuyển hoá tâm tư của chúng ta rất nhiều.
Chúng ta nên đem vào trong đời sống của ḿnh và lâu ngày, chúng ta nên
tập mỗi lần chúng ta mở cửa pḥng ra hay là chúng ta đóng cửa pḥng lại
mỗi lần chúng ta mở cửa xe hay là đóng cửa xe lại th́ nên nguyện cho tất
cả chúng sanh đựơc an lành để nó thừơng xuyên nhắc nhở chúng ta và khi
mà đời sống b́nh thừơng mà chúng ta có chuẫn bị tâm từ th́ khi đối diện
với tâm sân th́ chúng ta không có khởi tâm sân hận, nếu tâm sân là cái
bản tánh thường xuyên xảy ra , nó là một trong cái cá tính của chúng ta
rồi th́ chúng ta nên cố gắng để chuyển hóa nó bằng cách là tránh cho
những trừơng hợp sân hận, ở gần ai mà làm cho ḿnh sân hận nhiều th́ bớt
đi, ở gần ai mà có tâm từ nhiều th́ nó sẽ làm cho chúng ta nhẹ nhàng,
bởi v́ ḿnh đă sân rồi mà ở gần những ngừơi có tâm sân nữa th́ thường
thường đổ dầu vào lửa mà nó không có lợi cho chúng ta ǵ hết chúng ta
nên t́m ngừơi nào đó mà chúng ta nên gần mà ngừơi đó khả dĩ có thể làm
cho tâm tư của chúng ta lắng đọng.
Và thưa quí vị đối với một ngừơi tâm sân mà trở thành cái bản tánh cố
hữu một cái cá tánh của ngừơi này th́ theo trong Thanh Tịnh Đạo khuyên
ngừơi đó nên có cuộc sống thí dụ ở trong pḥng th́ bớt đồ đạt lại, pḥng
ốc nên giữ sạch sẽ và tương đối là yên tịnh để những lúc đó chúng ta
lắng đọng tâm tư, những khi nào ḿnh bực bội sân hận th́ trở vào trong
pḥng riêng của ḿnh đóng cửa lại và cứ chờ đợi cho đến khi cái tâm sân
nó giảm thiểu rồi hăy nói rồi hăy làm những lúc đó lâu ngày nó sẽ tạo
cho chúng ta một cái thói quen là ḿnh tự biết lấy bịnh của chính ḿnh,
giống như ḿnh bị bịnh suyễn th́ ḿnh đi đâu ḿnh cũng mang cái ống thở
theo, th́ khi nào chúng ta thừơng có tâm sân th́ chúng ta cố gắng để
tráng đi, tránh voi chẳng hổ mặt nào, nếu mà cái hoàn cảnh nào, cái môi
trừơng nào nó làm cho chúng ta sân hận nhiều mà tránh được th́ cố gắng
tránh đi,
Nhưng mà cái lợi nhất là sự tu tập tâm từ ở trong lúc đời sống hàng ngày
và thỉnh thoảng chúng ta nên đọc câu chuyện liên quan đến cái tội của sự
sân hận nói về cái hậu quả khốc liệt của sự sân hận để chúng ta có tàm
có quí chúng ta ngăn ngừa truớc những việc đó, phải nói là câu hỏi của
cô HoaLan là một câu hỏi không có nhỏ và câu hỏi đó là một câu hỏi trí
thiết của tất cả những hành giả tu tập mà chúng ta phải lưu tâm trong
đời sống hằng ngày khi mà chúng ta đối diện với phiền năo và cũng có thể
nói rằng phiền năo là một trong những đề tài lớn mà mỗi chúng ta là
ngừơi tu Phật đều phải chiêm nghiệm đều phải đối diện và t́m cách giải
quyết dựa trên bối cảnh của ḿnh nếu mà bàn về việc đó th́ không biết
khi nào là cùng tận chỉ có một vài cái đề nghị như vậy hy vọng có thể
giúp phần nào cho trả lời của cô Hoa lan.
Thiện Pháp hỏi : Kính thưa TT Giảng Sư trong kinh Tăng Nhứt A Hàm. Đức
Phật dạy : Có ba hạng c̣n giữ lại bí mật của ḿnh, không cởi mở : hạng
phụ nữ không cởi mở, giữ bí mật . Tri kiến thần gí được giữ kín, không
cởi mở. Tà giáo được giữ kín, không cởi mở. Giáo Pháp và Giới Luật do
một vị Phật toàn thiện công bố th́ rực rỡ chói sáng trong thế gian, chớ
không giữ kín. Kính xin TT từ bi giảng cho con về ư nghĩa thế nào là
hạng phụ nữ không cởi mở, giữ kín bí mật.
TT Giác Đẳng trả lời
:
Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa quí vị đúng ra th́ chúng ta phải dựa vào
cái tinh thần của bài kệ này để chúng ta hiểu như thế nào để gọi là
chúng ta vừa nắm đựơc Phật ngôn và đồng thời chúng ta không cảm thấy bị
lấn cấn, dĩ nhiên là khi mà Đức Phật dạy như vậy đó, Ngài nói về phần
đông thôi.
Riêng đối với Đức Phật th́ ở đây chúng ta thấy rơ ràng ư của Đức Phật
Ngài muốn dạy những lời của Ngài mà giáo pháp của Ngài đưọc phơi bày rơ
ràng và khi mà được gọi là phơi bày rơ ràng th́ không có ǵ gọi là ẩn
khuất và dấu kín, giáo pháp của Đức Phật nói một cách khác gọi là hiển
giáo và cái cơ sở và giáo lư của Đức Phật đă mở rộng như là một cuốn
sách mở rộng cho bất cứ ai đến chiêm nghiệm chứ không phải có một cái ǵ
để nắm giữ lại như là Đức Phật Ngài đă tuyên bố rất là nhiều lần, Ngài
không phải là vị Thầy với bàn tay nắm lại, những ǵ mà Ngài muốn giữ
riêng cho Ngài hay là có những điều bí mật mà không có tŕnh bày được.
Và Ngài dạy trong thế gian này có ba điều mà người ta giữ kín thôi, thứ
nhứt như là chúng ta đă được đọc là ngừơi phụ nữ th́ sống không có thể
nào bộc bạch hết những ǵ thuộc về ḿnh, thật ra người phụ nữ có nhiều
lư do, lư do để bảo vệ cái đẹp cũa ḿnh, lư do là v́ tâm tư tương đối là
có phức tạp.
Và điều thứ hai là chúng ta nói đến bùa chú hay là chú thuật, chú thuật
cái ǵ mà ngừơi ta biết th́ nó không có linh, về điểm này nó là một câu
chuyên dài có đôi lúc chúng ta nghe được những ngừơi học về bùa, giả sử
như một người mắc xương họ vẽ chữ NGƯ ḿnh thấy giống lá bùa
nhưng mà là cá thôi, nhưng mà nếu chúng ta biết chữ NGƯ là cá th́ tự
nhiên nó không có linh nữa và ngừơi ta thường dùng chữ "linh tại ngă bất
linh tại ngă". Những vị mà họ luyện bùa chú hay chú thuật th́ họ không
có tỏ rơ cái ǵ mà họ làm như là một cái mẹo vậy.
Và điều thứ ba tà giáo luôn luôn ǵn giữ lại, chúng ta biết rằng
trong cuộc sống này cái ǵ thật sự ḿnh bày tỏ ra, tức là ḿnh không có
ái ngại ḿnh có sao th́ nhận như vậy, người ta khen cũng được người ta
chê cũng được, đẹp cũng được xấu cũng được ḿnh là ḿnh thôi, nhưng mà
cái bản chất cố hữu của ngừơi phụ nữ không phải tất cả nhưng mà
hầu hết phụ nữ ví dụ như thích trang điểm để làm đẹp, như ngừơi ta nói
rằng ngừơi đàn ông ra đừơng một ngừơi vợ khác, về nhà một ngừơi vợ khác
có nhiều ngừơi họ đẹp v́ sự trang điểm của họ và nếu họ không trang điểm
khi đi ra ngoài họ cảm thấy không thoải mái đó là một trong những đặc
tính của người phụ nữ, và rồi ngừơi phụ nữ th́ thừơng có những chuyện
hay vui hay buồn và trong cái vui cái buồn mà nói hết th́ đôi khi nó
cũng khó nói, cái tâm tư hơn khó nói thành ra có rất nhiều phương diện
mà ngừơi phụ nữ đa phần là không có thể biểu lộ một cách thoải mái
như là người nam, ví dụ chúng ta sống Hoa kỳ hay là ở các quốc gia Âu
Châu th́ họ thường kỵ về vấn đề tuổi tác chẳng hạn, ngừơi phụ nữ mà bị
hỏi về tuổi tác là một sự xúc phạm rất là lớn, không phải ai cũng không
muốn nói về tuổi tác của ḿnh nhưng phần đông bên đây ngừơi ta rất là sợ
già nua, họ thường nói về ngày sinh nhật là ngày mấy nhưng họ
không nói họ bao nhiêu tuổi , và hỏi bao nhiểu tuổi bên này là một cách
giao thiệp của xă hội.
Và thời Đức Phật cũng vậy và hôm nay cũng vậy có lẽ sau này cũng vậy
riêng về đời sống cái tâm trạng phụ nữ có nhiều điều mà không có bộc lộ
rơ ràng , ví dụ như đối với Đạo Phật lời dạy của Ngài rất là rơ về cái
giá trị của chánh pháp chứ không phải như khi ḿnh luyện bùa luyện chú
mà ḿnh phải chứng tỏ ḿnh phải có cái này hay, có khả năng phi thừơng
này hay khả năng phi thường khác, ở trong Đạo Phật th́ Đức Phật Ngài đặt
nặng về giáo dục, nặng về khả năng lănh hội , nặng về khả năng áp dụng
trong đời sống, như vậy nếu chúng ta sống với đạo th́ chúng ta sống rất
thực ngay cả cái tham sân si phiền năo mà một vị Tăng sĩ có thể nhận
rằng ḿnh vẫn c̣n phiền năo và vị đó không phải có tội và vị đó rất là
thành thực bởi v́ ḿnh c̣n phiền năo th́ ḿnh nhận là ḿnh c̣n phiền
năo, chúng ta không thể vin vào điều này mà nói họ có tội được.
Cho nên Giáo Pháp của Đức Phật mở rộng như là bầu trời mênh mông ở đó
mọi ngừơi đến, và theo Tam Tạng kinh điển không phải chúng ta Phật tử
chúng ta mới có quyền đọc và nếu chúng ta không phải là Phật tử th́
chúng ta không có quyền đọc đúng ra th́ có vài truyền thống Phật Giáo
quan niệm rằng giới luật của ngừơi xuất gia th́ ngừơi cư sĩ không được
quyền đọc việc đó chỉ là một việc riêng một tông phái một địa phương mà
thôi, chứ tất cả các quốc gia khác th́ hễ đă gọi là kinh điển của Đạo
Phật th́ ai muốn đọc th́ đọc, thật sự cấm th́ cấm cũng không đựơc làm
sao mà cấm trong thời đại này không có cách ǵ mà cấm được hết ,
mà đă không cấm đựơc tại sao chúng ta phải cấm, th́ nói chung là
Giáo Pháp của Đức Phật là giáo lư tỏ rạng để mà mọi ngừơi cùng đến đó để
trắc nghiệm.
Dieuhong2 hỏi : Kính thưa Sư, những năm trước con có nuôi một số cá
vàng. Mỗi ngày con cho chúng ăn, nhưng lúc sau này con dành hết
giờ để nghe Phật Pháp (Paltalk và nghe băng ), không c̣n ǵơ coi ngó tới
cá vàng nữa. Hôm qua t́nh cờ thấy một số cá chết, nổi lên v́ bị bỏ
đói, thiếu ăn. Như vậy con có gián tiếp phạm tội sát sanh không ?
TT Giác Đẳng trả lời:
Thưa quí vị ở trong câu hỏi này thật ra nó có ba điểm riêng biệt, nói để
cho rơ ràngđiểm thứ nhất về phương diện sát sanh đó th́ chúng ta
có thể nói về phương diện về giới th́ nó đ̣i hỏi một số điều kiện thí dụ
như là một người mà ở trong giới sát sanh th́ phải hội đủ năm chi.
Cái đối tượng đó phải là con vật có thức tánh, ḿnh biết con vật đó có
thức tánh và ḿnh có ư giết và ḿnh có cố giết và con vật này bị chết v́
sự cố ư đó th́ năm điều đó mới là phạm giới sát sanh,chúng tôi vẫn
thừơng nghe ngừơi ta nói về nghiệp trực tiếp nghiệp gián tiếp, ḿnh
không làm nhưng mà ngừơi khác làm th́ gọi là gián tiếp.
Th́ thưa quí vị về điểm này là một điểm mà người Phật tử phải để ư
lắm bởi v́ có nhiều việc ở trong đời sống mà chúng ta không có tránh
khỏi , ví dụ như chúng ta đóng thuế cho chánh phủ và chánh phủ dùng cái
tiền đó vào những công cuộc xâm lăng các quốc gia khác th́ đó là một sự
gián tiếp tuy nhiên chúng ta không thể nói là chúng ta không trả thuế
được, hay là chúng ta cầm tay lái để lái xe trên đường đi chúng ta biết
chắc chắn rằng khi lái xe thế nào cũng cán những con vật ở dưới đường
dầu vật lớn hay vật nhỏ th́ thế nào cũng có, và nếu mà chúng ta không
lái xe th́ chúng ta không đi đâu hết và dĩ nhiên là nếu chúng ta đi bộ
th́ chúng ta cũng đạp vào con này con kia và do vậy cái gián tiếp nó
cũng phải có chừng mực .
Đức Phật Ngài dạy rằng cái ǵ không thấy không nghe và không nghi th́
đừng có dùng nó làm một vật ám ảnh trong đời sống tinh thần của ḿnh do
vậy trong trường hợp này th́ không có thể gọi là sát sanh v́ cô đă không
có ư giết, như vậy điểm thứ hai đây là một lời đề nghị của chúng
tôi và đề nghị này trên cái tư cách của nhà Sư và với tư cách cá nhân và
chúng tôi hoàn toàn không muốn với đề nghị này sẽ làm cho quí vị Phật tử
phải buồn phiền , thật ra thưa quí vị nếu có thể được th́ chúng ta tránh
đi nuôi cá nuôi chim ở trong nhà, sở dĩ chúng tôi nói điều này th́ cái
cảnh cá chậu chim lồng đó có khi ḿnh nuôi một con vật mà làm cho ḿnh
vui thôi để trang trí trong nhà nhưng cái cảnh cá chậu chim lồng vẫn là
cái cảnh tù đầy.
Giả sử như quí vị thấy có những câu chuyện mà cung nữ mà chúng ta đọc
trong Cung Oán Ngâm Khúc hay là có nhiều người họ sống trong hoàn cảnh
rất là cao sang đẹp đẽ nhưng bản thân của họ th́ đúng là cảnh cá chậu
chim lồng không có vui vẻ ǵ hết, người ta chỉ nuôi ḿnh người ta chỉ
cho ḿnh sự sống mặc dầu sự sống sang cả đến đâu nhưng mà chỉ là cái món
đồ chơi chỉ là một cái vật trang trí trong đời sống của họ, mà
ḿnh hoàn toàn không có tự do để ḿnh làm cái ǵ chánh đáng cho đời sống
của ḿnh th́ thưa quí vị đó cũng là cái nghiệp, cái nghiệp vốn ở
trong qua khứ chúng ta đă từng làm cái công việc nuôi cá nuôi chim để v́
cái đẹp mắt cái trang trí cho thú vui của ḿnh, chúng tôi phải hoàn toàn
xin lỗi quí vị lần thứ hai nữa là chúng tôi hoàn toàn không muốn một số
qúi vị phải khó chịu làm cho quí vị cảm thấy ḿnh đang bị chỉ trích
chúng tôi không có ư chỉ trích ai hết, chúng tôi biết là nhiều gia đ́nh
nuôi cá ở trong nhà, như quí vị thấy không chúng ta nuôi cá nếu
chúng ta có th́ giờ chăm sóc cho nó th́ tốt mà không có th́ giờ chăm sóc
chúng ta để nó bị đói và bị chết đi điều này nếu chúng ta là ngừơi không
có tâm từ tâm bi th́ chúng ta không cảm thấy ǵ, và chúng ta có
đạo tâm th́ trở thành ăn năn.
Do vậy trong trường hợp của cô DieuHong th́ chúng tôi rất là tán thán
cái câu hỏi của cô v́ lư do nhân về điều này chúng tôi xin có một đề
nghị là lúc sau này chúng tôi nghe nói và chúng tôi cũng đựơc chứng kiến
rất là nhiều khi mà đất nước của chúng ta khi mà cuộc sống ai cũng phải
lo miếng cơm manh áo gaọ đong từng bữa, th́ ngừơi ta ít có thú vui này
thú vui khác nhưng mà khi mà miếng cơm manh áo nó không c̣n chi phối
chúng ta nữa , th́ ngướ ta bắt đầu có những món ăn rất là kỳ quái giết
con này con kia một cách không có đáng mà chỉ thoả măn cái tánh kỳ quặt
của chúng ta, hoặc giả là có nhiều ngừơi nuôi chim nuôi cá ,
thưa qúi vị một con chim bị nhốt trong cái lồng dù đó là lồng son nó
cũng không có ư nghĩa ǵ, chúng ta không ai muốn là ḿnh bị người
khác đặt ḿnh trong trường hợp tương tự như vậy và cái nghiệp đó
là cái nghiệp rất nặng thưa quí vị, nghiệp rất nặng nó ảnh hưởng chúng
ta rất là nhiều, do vậy trong điều thứ hai chúng tôi xin nói
lên một lần nếu chúng ta là người hiểu đạo th́ không nên nuôi chim
nuôi cá ở trong nhà, cái đó nó không có giúp cho chúng ta nhiều và thứ
nhất về phương diện nghiệp báo, nó là cái nghiệp không được hay.
Và điều thứ ba th́ chúng tôi phải nói ở tại đây đó là khi mà chúng ta tu
tập, mà bắt đầu khi chúng ta có một chuyện ǵ và để ư và nhạy cảm
như trường hợp của cô Dieuhong đă hỏi đó th́ đó là một dấu hiệu rất tốt
bởi v́ chúng ta đă t́m thấy cái đạo ở trong đời sống hàng ngày của ḿnh,
có nhiều người học đạo họ xem đạo là một cảnh giới khác và đời sống hiện
tại là một cảnh giới khác và bởi v́ nó là một cảnh giới khác nó không có
liên hệ ǵ với nhau hết đến đỗi mà thưa quí Phật tử họ có thể đọc một
quyển kinh nói một đề tài Phật pháp rất là say sưa nhưng về đời sống
hằng ngày hầu nhiên là về Phật pháp và đời sống là hai lối rẽ hoàn toàn
khác nhau không có dính dáng ǵ với nhau đây là một điểm rất là đáng
tiếc.
Và v́ vậy chúng tôi xin trả lời câu hỏi của cô Dieuhong là khi mà cô
nuôi cá trong nhà rồi lại không cho nó ăn không chăm sóc đầy đủ th́ có
phạm cái tội sát sanh hay không th́ chúng tôi xin thưa rằng về cái
phương diện giới , bởi v́ ḿnh không cố ư sát sanh nên ḿnh không có
phạm giới sát sanh và hỏi rằng có mang nghiệp gián tiếp hay không th́ về
phương diện giới th́ không, về phương diện nghiệp th́ có là bởi v́ chúng
ta nuôi cá và một lư do nào đó mà cá nó chết đi th́ trên
phương diện nghiệp báo th́ có quả xa quả gần về điểm này, chúng
tôi có khuyến khích quí vị đừng nuôi cá và nuôi chim và riêng về
điểm thứ ba mà chúng tôi có nhắc ban nảy là quả thật đây là cái điều
liên qua đến đời sống hàng ngày, chúng ta sống mà hiểu đạo rồi có rất
nhiều niềm vui nhẹ nhàng và cái vui nào mà nó càng ít có gây cái phiền
toái tổn hại đau thương cho chúng sanh khác th́ nên, c̣n những cái vui
nào mà mang lại cái hệ lụy cho chúng sanh khác th́ chúng ta tránh . Đó
là câu trả lời của chúng tôi.
Minh Hạnh hỏi : Kính thưa TT Giảng Sư nếu kiếp này chỉ tu phước mà
không tu huệ để cầu giải thoát th́ sự tu phước này sẽ là tai họa cho
kiếp thứ ba, ư nghĩa này là ǵ ? vậy chúng con có nên tu phước không hay
là chỉ nên tu huệ để cầu giải thoát cho kiếp thứ ba đó ?. Kính xin TT từ
bi giảng rơ cho chúng con.
TT Trí Siêu trả lời :
Trong câu hỏi kế tiếp đây hỏi về vấn đề tu phước và tu huệ để cầu giải
thóat , ở trong câu hỏi dài như thế này nó có những vấn đề mà chúng ta
cần phải phân ra từng mệnh đề để mà chúng ta trả lời , trong mệnh đề thứ
nhất th́ chúng tôi xin trả lời cái danh từ tu phước tu huệ có nghĩa
như thế nào theo đúng nghĩa kinh điển , mệnh đề thứ hai th́ chúng tôi sẽ
trả lời là chúng ta nên tu phước hay không, hay là chỉ nên tu huệ để cầu
giải thoát , c̣n cái mệnh đề thứ ba th́ chúng tôi sẽ nói về cái ư nghĩa
mà Phật tử đă hỏi về vấn đề tu phứơc sẽ là tai họa cho kiếp thứ ba.
Th́ ở đây thưa quí vị trước hết th́ chúng tôi xin trả lời câu thứ nhất
cái mệnh đề thứ nhứt, thật ra th́ đây chỉ là một cái danh từ mà chúng ta
sử dụng thường cho nên chúng ta mới nói tu phước là khác tu huệ là khác,
theo trong ư nghĩa này thưa quí vị phước là nói chung chứ không phải
phước là một cái thiện nghiệp riêng hay là một cái phứơc báu riêng về
vật chất.
C̣n tu huệ ở trong Phật giáo tu huệ hay tu trí tuệ ở đây cũng là tu
phước bởi v́ có ba loại phước gọi là phước nghiệp sự, phước do cái sự bố
thí v.v...phước này gọi là phước vật hay là phước vật chất , thứ hai là
phước đức tức là phước do cái sự tu tập như là tŕ giới v.v..c̣n
thứ ba là phước trí, phước mà phát sanh do cái sự tu tập thiền định hay
thính pháp v.v...
Th́ ở đây cái ǵ làm cho tâm chúng sanh được an lạc làm cho chúng sanh
được thoải mái được hoan hỷ được lành mạnh như vậy cái đó gọi là phước,
như vậy cái phước ở đây nếu mà chúng ta sài đúng nghĩa kinh điển th́ tất
cả những việc làm hiền thiện tu tập an trú pháp thiện đều gọi là phước
cả, dù rằng chúng ta bỏ tiền của ra chúng ta bố thí cúng dường cái đó
cũng là phước nhưng mà phước này là phước vật,
Và dù rằng chúng ta không làm cái việc đó nhưng mà chúng ta giữ 5 giới
chúng ta nghiêm tŕ giới hạnh hay là chúng ta an trú trong bốn vô lượng
tâm là tu tập tâm từ và tâm bi tâm hỷ tâm xả th́ đây cũng gọi là phứơc,
nhưng mà tu phứơc này gọi là tu phứơc đức đem đến cái sự b́nh an lạc về
nội tâm trong tương lai, c̣n cho dù rằng chúng ta không làm phước kia
nhưng mà chúng ta ngồi lại chúng ta tham thiền, chúng ta suy tưởng về
cái tánh chất vô thường khổ và vô ngă, đối với danh và sắc chúng ta suy
sét về cái thảm trạng sanh lăo bệnh tử và những cái thảm trạng của cuộc
đời để chúng ta khởi lên tâm nhàm chán và hướng đến viễn ly giải thoát
th́ đó cũng gọi là tu phước nhưng phước ở đây là phước trí .
Th́ ở đây khi mà chúng ta hiểu được ba lọai phước này th́ chúng ta sẽ
nhận được cái vấn đề mà ngừơi ta nói rằng tu phước và tu huệ, cái tiếng
phước mà người ta dùng ở đây trong trừơng hợp này ngừơi ta muốn ám chỉ
cho riêng về cái phước vật chất thôi tức là chỉ làm cái điều từ thiện
như là bố thí chuẩn bần đem tài sản vật chất để ban phát cho biếu tặng
ngừơi khác, chỉ vậy thôi họ cho đó là tu phứơc phục vụ cho ngừơi khác
với cái công sức của ḿnh họ cho đó là tu phứơc.
Nhưng mà khi ngồi lại để mà tu tập thiền định để mà quán niệm về cuộc
đời th́ họ không nhận rằng đó là một h́nh thức tu phước trí mà chỉ
coi đó là tu huệ , th́ theo ở trong kinh điển Phật giáo không phải chỉ
là phước vật hay là phước trí.
Mà thêm loại phứơc nữa là phước đức khi mà chúng ta giữ được một trạng
thái tâm không sân hận, không năo hại chúng sanh khác, không ganh tỵ với
chúng sanh khác, và không có sự cố chấp buồn phiền khi mà những người
khác xúc phạm đến ḿnh, hay là ngừơi ta khen ngừơi ta chê ḿnh v.v...
th́ giữ bốn vô lượng tâm từ bi hỷ xả như vậy cũng là tu phứơc mà là tu
phước đức th́ ở đây cái mênh đề thứ nhất mà chúng tôi trả lời là
như vậy .
C̣n cái mệnh đề thứ hai ngừơi Phật tử chúng ta tu tập nên tu phước hay
là tu huệ th́ ở đây như chúng tôi đă nói với qúi vị là chúng ta nên
chỉnh lại cái từ ngữ là phứơc vật phước đức phước trí, tam phước hay là
ba phước th́ như vậy khi mà chúng ta tu tập tùy theo môi trường tuỳ theo
hoàn cảnh mà chúng ta tu tập tạo đủ ba phước, chứ không phải là chúng ta
bỏ cái phước này mà chúng ta chỉ tạo cái phứơc khác, chúng ta nên tu cả
về phước trí tức là tu phước tu huệ đó.
C̣n nếu mà nói ở đây th́ chúng ta nói rằng chúng ta nên tu phứơc vật
phước đức phước trí bởi v́ sao vậy, bởi v́ đời sống này giữa chúng sanh
loài ngừơi nếu mà một ngừơi có cái tâm lành mạnh được mọi ngừơi
khác kính trọng là do nhờ có phước đức, có cái trí tuệ khôn ngoan là nhờ
có phước trí nhưng mà chính ngừơi này v́ không tạo phước vật chất do đó
cho nên ngừơi này trở nên nghèo khổ thiếu thốn về vật chất thiếu thốn về
tài sản sống một đời sống nghẹ khổ th́ trong trường hợp này nó cũng là
giảm mất cái hạnh phúc an vui trong cuộc sống ,c̣n nếu như một ngừơi mà
chỉ biết tạo cái phước vật chất để rồi ngừơi đó sinh ra ở đời được cái
tài sản sung túc nhưng mà bản thân ngừơi đó v́ rằng không có tu phứơc
đức, không có giữ giới không có hành tứ vô lượng tâm cho nên mặc dù
người đó giàu nhưng gia đ́nh sống trong cảnh khổ, phân ly tử biệt rồi vợ
chồng chia rẽ nhau, cha mẹ con cái ly tán hay là mang cái thân bệnh tật
đau đớn v.v... hoặc họ sống trong cuộc sống mà có quá nhiều kẻ thù
kẻ đối lập th́ như vậy người này dù có giàu có cũng không được an vui
trọn vẹn như vậy th́ phước đức cũng phải cần thiết,
Rồi về phứơc trí một ngừơi sống giàu có được cái hạnh phúc tinh thần
trong cái cuộc sống gia đ́nh người chung quanh nhưng mà bản thân ngừơi
đó không có trí tuệ bén nhạy không có nhận thức đựơc cuộc đời, con đường
nào là con đừơng chánh con đừơng nào là con đường tà đường nào nên đi và
không nên đi, không có trí tuệ như thế đó th́ ngừơi này cũng khiếm
khuyết về cái mặt an lạc tinh thần trong cuộc sống, cho nên theo chúng
tôi nghĩ cả ba loại phước vật phước đức phước trí hay chúng ta nói là
phước đức huệ ba trường hợp này chúng ta đều tu tập đồng nhau cả chứ
chúng ta không nên chỉ tu tập ở một khía cạnh nào và chúng ta bỏ
khía cạnh nào.
Và cái mệnh đề thứ ba mà chúng tôi muốn tŕnh bày ở đây, chúng tôi muốn
tranh thủ thời gian chúng ta đă trễ qua ba phút rồi , trong cái mệnh đề
thứ ba lại đề cập đến vấn đề nếu mà không tu huệ để giải thoát mà chỉ tu
phước không th́ đó là cái tai họa cho kiếp thứ ba th́ trong trừơng hợp
này chúng tôi không hiểu rằng trong kiếp thứ ba này muốn ám chỉ cái ǵ
và cái vị nào mà tuyên bố về câu đó muốn chỉ ra sao th́ xin Phật
tử đến gặp ngay cái vị mà tŕnh bày về ư nghĩa đó để hỏi, ở đây th́
chúng tôi không thấy ở trong kinh điển đề cập đến vấn đề cái kiếp thứ ba
là đựơc giải thoát hay không và cái kiếp thứ ba sẽ bị tai hoạ ǵ nếu như
chúng ta chỉ biết tu phước, ở đây chúng tôi chỉ biết rằng nghiệp mà
chúng ta đă tạo bất cứ nghiệp ǵ, nghiệp phước vật, nghiệp phước đứcc,
hay nghiệp phước trí, bất cứ nghiệp ǵ cũng sẽ cho quả an vui trong ba
cái thời điểm một là kiếp hiện tại gọi là hiện báo nghiệp, hoặc là
nghiệp thiện này sẽ cho trong đời kế tiếp tức đời thứ hai gọi là sanh
báo nghiệp, và có những trường hợp chúng ta tạo phứơc chúng ta tu tập
trong đời này mà nó phải chờ đến kiếp thứ ba tức là sau cái kiếp thứ hai
từ đó kiếp thứ ba trở đi nó mới trổ quả như vậy là gọi là hậu báo nghiệp
hay là hậu nghiệp, ở đây chúng tôi chỉ xin tŕnh bày một cách tóm tắt
như vậy và trong trừơng hợp này th́ chúng tôi không đi thẳng vào cái vế
thứ ba của câu hỏi bởi v́ ở đây chúng tôi không t́m đựơc cái ư nghĩa của
cái lời nói đó như thế nào cho nên chúng tôi không trả lời, chúng tôi
xin kết thúc câu trả lời ở đây. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
TT
Thích Hoàng Pháp hỏi : Mục đích cuối cùng của sự tu tập tức là cứu cánh
phạm hạnh của Đaọ Phật là ǵ.
TT Trí Siêu trả
lời:
Tiện đây chúng tôi xin đưọc trả lời cái câu hỏi của TT Thích Hoàng Pháp
đưa lên : mục đích cuối cùng của sự tu tập tức là cứu cánh phạm hạnh của
đạo Phật, cứu cánh phạm hạnh đó tức là cùng căn mạt kiếp.
Ỡ đây thưa quí vị thực sự cái thành ngữ gọi là cùn căn mạt kiếp , cái
thành ngữ này ngừơi ta thường dùng để nói chuyện ở bên ngoài ngừơi ta
hay rủa xả ngừơi này người kia những người mà họ ghét bỏ người khác họ
mong muốn cho ngừơi khác cùn căn mạt kiếp, tức là nói đến ngừơi ấy
ngóc đầu không dạy, tức là không có được cái sự giàu có hay là sung túc,
nhưng mà trong cái thành ngữ này th́ chúng ta xét ra để mà chúng ta phân
tách kỹ th́ ở đây rơ ràng cùn căn mạt kiếp lại là mục tiêu cứu cánh của
phạm hạnh của cái việc tu tập v́ sao vậy.
Thưa quí vị tất cả những cái phiền năo nó có ba căn, ba căn phiền năo đó
tức là căn tham, căn sân , căn si, căn tham căn sân căn si là ba căn
phiền năo, chính do ba căn phiền năo này mà đưa đẩy chúng sanh tạo những
cái tội lỗi để rồi phải chịu khổ trong cái cảnh trầm luân sanh tử, nhất
là sanh xuống bốn đường ác đạo măi măi phải bị luân hồi do ba căn phiền
nảo đó.
Như vậy các ngừơi tu đạo Phật, mục đích của chúng ta phải làm sao
được cùn căn, cái nghĩa cùn ở đây nó nghĩa là ṃn , nó ṃn hết chẳng hạn
như cây cuốc nó cùn hay là cái dao cùn chữ cùn ở đây là chữ cùn không có
g th́ chữ cùn này nó là cùn căn chúng ta hiểu theo ư nghĩa của từ Phật
học có nghĩa là làm cho mất đi làm cho lụt đi những cái căn phiền năo là
tham sân si và mục đích của chúng ta khi nào mà chấm dứt được tham sân
si lúc đó th́ chúng ta mới giác ngộ, lúc đó th́ chúng ta mới mạt kiếp
tại sao vậy chữ mạt kiếp ở đây tức là không c̣n một cái kiếp sống nào
nữa , chữ mạt kiếp ở trong cái danh từ thông thừơng mà chúng ta nói th́
ở đây ngừơi ta dùng cái tiếng gọi là nghèo mạt kiếp tức là nghèo không
c̣n cái ǵ nữa, không c̣n cái ǵ nữa cho dù rằng đó chỉ là một cái mảnh
ba bốn đời mặc cũng không có nữa ngừơi ta gọi là mạt kiếp.
C̣n ở trong Phật giáo nếu mà chúng ta lấy ư nghĩa này th́ hễ mà khi nào
mà chúng ta c̣n tiếp tục tái diễn các lối sống th́ như vậy là
chúng ta c̣n khổ đau, do đó cho nên chúng ta phải làm như thế nào đó để
mà đoạn tận để mà tận cùng các căn tham sân si rồi từ chỗ đó chúng ta
mới mạt kiếp, là không c̣n một cái kiếp sống nào nữa tiếp diễn , không
c̣n cái kiếp sống luân hồi nữa vậy ư nghĩa cùn căn mạt kiếp mà chúng ta
lấy trong ư nghĩa từ Phật học như thế, cho nên cái thành ngữ gọi cùn căn
mạt kiếp đó nếu mà chúng ta dùng trong ư nghĩa là mục tiêu của đạo Phật
hay là cức cánh của phạm hạnh, đó thật là một cái thành ngữ mô tả một
cách chính xác về cái mục tiêu cứu cánh này.
Và ở đây chúng tôi chỉ xin trả lời một cách tóm tắt, và cái câu trả lời
như thế mặc dầu chúng tôi vẫn c̣n nhiều cái ư nghĩa khác, nhiều cái tư
tưởng khác nhưng ở đây v́ cái thời gian của chúng ta cũng đă hết rồi do
vây cho nên chúng tôi xin kết thúc cái buổi pháp đám hôm nay. Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính thưa quí thiện nam tín nữ hôm
nay là Đại Lễ Báo Hiếu và cũng là ngày tất cả những Phật tử VN tác tạo
công đức hướng nguyện tất cả phứơc lành mà ḿnh đă tạo đến tất cả thân
nhân của bậc hữu ân cùng thân bằng quyến thuộc quá văng và thưa quí vị
chỉ trong một vài giây phút ngắn nữa thôi chúng ta sẽ cùng nhau làm một
phước sự thù thắng, phước sự đó là tất cả chư Phật tử sẽ cúng dường thực
phẩm vào trong b́nh bát của Chư Tăng.
B́nh bát là một biểu thị quan trọng trong sự hành đạo của ba đời Chư
Phật từ quá khứ hiện tại vị lai, Chư Phật và các Đại Đệ Tử cũng giống
như Chư Thánh Hiền Tăng đều sống bằng chánh mạng khất thực hoá duyên,
chiếc b́nh bát đựơc các ngài dùng để mỗi ngày vào trong xóm làng nhận
thực phẩm độ nhật không cần biết là ai cúng dường, ngừơi đó giàu nghèo
đẹp xấu sang hèn tất cả những thực phẩm đựơc cúng vào trong b́nh bát
bằng tâm thành được Chư Tăng đón nhận với tất cả tấm ḷng cảm kích như
nhau.
Chư Tăng yên lặng chú nguyện để nhận thực phẩm và trở về một nơi
thích hợp để thọ thực độ nhựt qua ngày, và thưa quí vị truyền thống cao
đẹp đó là một truyền thống đă được thể hiện trong nhiều thế hệ nhiều thế
kỷ trong gịng lịch sử của Đạo Phật và hôm nay trong mùa Vu Lan này tất
cả Chư Phật Tử vân tập về chùa , chúng ta lại một lần nữa đụơc
sống ở trong truyền thống cao đẹp này.
Chiếc b́nh bát ở trứơc mặt của Chư Tăng thưa quí vị cúng dường thực phẩm
vào không phải là cúng dường cho vị Thầy A hay vị Sư B mà chiếc b́nh bát
đó là cúng dường cho thập phương Tăng Chúng, Chư Tăng có mặt ở tại
đây hôm nay tổng cộng Chư Tăng đi là 14 vị, không có vị nào gọi là
thân, không có vị nào gọi là sơ tất cả những ǵ quí vị cúng dường vào là
cúng dường tứ phương Tăng chúng, tứ phương Tăng oai lực vô cùng chúng
đức như hải và cái tâm vô phân biệt thí cũng là tâm thí thù thắng ở
trong cuộc đời này nếu chúng ta có thể làm một phước hạnh ǵ mà chúng ta
quên đi cái tư ngă để nghĩ đến đại thể th́ Đức Phật gọi là tâm tư đại
đồng có thể tạo vô lượng phứơc lành.
Thưa quí vị bây giờ th́ chúng tôi xin đựơc nhắc quí vị một điều là có
một số thực phẩm của quí vị Phật tử mang đến quí vị giữ riêng và có một
số đă được chuẩn bị để phía bên đại bi đường phía bên tay trái của chúng
tôi tức là phía bên tay phải của quí vị nếu quí vị có thể sang đó để lấy
thực phẩm, và xin đi tuần tự giữ không khí rất là trang nghiêm thanh
tịnh bởi v́ trong giờ phút mà quí Phật tử cúng dường vào b́nh bát
của Chư Tăng th́ Hoà Thựơng sẽ hướng dẫn Chư Tăng để tụng kinh chú
nguyện, trước nhất là hồi hứơng phước lành cho những thân nhân đă quá
văng của chúng ta dù là thất thế phụ mẫu hay hiện tiền phụ mẫu dù là
những ngừơi thân quyến gần hoặc xa, những ngừơi đang sống trong
khổ cảnh mà cần đến phứơc lành xin cho những người đó được xung măn
phước báu và cũng với cái tâm thí thù thắng này, chúng ta cùng hứơng về
cho những bật hiện tiền phụ mẫu thân bằng quyến thuộc đựơc tăng phúc
tăng thọ tăng huệ.
Khi Chư Tăng tụng kinh xin tất cả quí vị Phật tử tiến lên cúng dường vào
b́nh bát với tất cả tâm thành giữ trang nghiêm cho đại chúng, chúng tôi
xin chân thành cảm ơn quí vị và bây giờ th́ quí vị có thể bắt đầu để
cúng dường Chư Tăng và xin thay mặt cho đại chúng con xin đê đầu cung
thỉnh Hoà Thượng để chủ tŕ cho buổi lễ ngày hôm nay, con xin cung
thỉnh Hoà Thượng
Bạch Sư huynh là có lẽ một trong những cái cạm băy lớn nhất trong cái
cuộc tu tập của chúng ta là chúng ta càng tu càng lâu chúng ta có thể đi
vào trong một trong hai trừơng hợp: hoặc giả là chúng ta có thể làm giảm
bớt cái ngă chấp của ḿnh hoặc giả là chúng ta có thể làm cho cái ngă
chấp của ḿnh nó tăng trưởng hết sức là lớn mạnh.
Trong trường hợp làm giảm bớt cái ngă chấp của ḿnh th́ chúng ta
thấy rơ ràng rằng các vị cổ đức ngày xưa đă từ bỏ rất là nhiều, các Ngài
đă ra đi , đi từ nơi này sang nơi khác và những ǵ mà để tô đắp cho cái
bản ngă của các Ngài th́ các Ngài t́m cách để tránh đi bỏ đi và đời sống
đơn giản với một cuộc sống có khi sống ở một nơi xa lạ và không có ai
biết ḿnh là ai hết. Cái đời sống Tăng sĩ này ngày hôm nay th́ lại
khác biệt rất là nhiều, chúng ta sống ở một nơi ổn định hơn và có thể
nói rằng trong cái cuộc đời tu tập th́ danh vọng và lợi dữơng có rất là
nhiều có thể nói rằng trong cuộc tu càng lúc chúng ta càng bị vướng bận
nhiều đến các danh vị, thí dụ ḿnh là một vị trụ tŕ , một pháp sư, là
một vị có chức vụ có danh vị khác.
Có thể TT Trí Siêu có cách nào chia sẻ với quí Phật tử là ở trong một
cuộc sống như vậy chúng ta làm thế nào để tuổi càng lớn cuộc tu càng dài
và ở cuối quăng đường đó với cái nh́n về chính ḿnh, ḿnh cảm thấy nhẹ
nhàng, cảm thấy thênh thang hơn là cảm thấy nặng nề, cảm thấy bị đóng
trụ, đóng cột , bị ram rịt với những cái quan niệm về ngă chấp, với
những cái quan niệm về ḿnh là ai, tại sao ḿnh phải được đối xử thế này
, ḿnh phải được tôn trọng như thế kia. Chắc chắn là TT Trí Siêu
càng nhận ra đựơc một điều là khi chúng ta sống trong chùa th́ sự việc
này nó lại là một việc hết sức là ảnh hưởng rất lớn.
Hoà Thượng Hộ Tông Ngài có nói một câu là ngừơi đi tu cái lợi th́ dễ bỏ
cái danh th́ khó bỏ, có nghiă là những lợi lộc vật chất có thể bỏ rất là
dễ dàng nhưng mà về cái danh dự cái tự ái th́ đôi lúc nó là một việc rất
là lớn có thể nói rằng đây là một điều mà tất cả chúng ta phải tự phấn
đấu rất là nhiều, không hiểu trên phương diện này TT Trí Siêu có thể
chia sẽ được với đại chúng trong rơom này là chúng ta làm thế nào để mà
con đường tu tập của chúng ta càng về dài chúng ta lại càng tránh né
được cái cạm băy nguy hiểm đó hay không, xin thỉnh TT Trí Siêu.
TT Trí Siêu trả
lời :
Sadhu, Sadhu, hôm nay chúng tôi hết sức là hoan hỷ v́ những câu hỏi
những cái vấn đề TT Giác Đẳng đưa ra, đây là cái vấn đề lớn và rất là
thực dụng trong cái đời sống tu tập có những lúc chúng ta thaỏ luận về
Phật Pháp và chúng ta đưa ra những vấn đề để mà chúng ta giải theo cái
lư kinh điển giống như là chúng ta ôn bài lại, nhưng mà những lúc
này là những lúc chúng ta trao đổi với nhau những cái kinh nghiệm tu tập
và những cái kinh nghiệm đó nó lại mở ngơ cho chúng ta trong cái hướng
tiến hóa th́ chúng tôi rất là hoan hỷ để chia sẻ với quí vị.
Thực ra
th́ bản thân của chúng tôi cũng gặp nhiều cái cạm bẫy hết sức lớn lao
như vậy và cũng khó khăn lắm, nhưng mà ở đây nói chung chung nếu chúng
ta là cái ngừơi trí và là một cái vị tu tập theo cái hạnh nguyện của một
vị Bồ Tát với cái sự mong cầu giải thoát khỏi luân hồi trong tương lai
th́ trong trừơng hợp này không phải là cái vấn đề nan giải khi mà chúng
ta gặp cái danh và cái lợi hay là quyền chức nó đến, khó th́ cũng không
khó nhưng mà dể cũng không phải là dễ, chỉ có điều là chúng ta có được
cái bản lănh trong cái sự tu tập hay không th́ cái điều đó chúng ta mới
cần sét lại, chúng ta chỉ có gợi ư một điều kinh nghiệm về bản thân của
chúng tôi khi mà chúng tôi làm cái việc Phật Pháp, những lúc mà chúng
tôi đứng lớp dạy, chúng tôi cũng thừa nhận một điều là khi mà đứng lớp
dạy cho Chư Tăng hay là lên pháp toà để thuyết pháp cho Phật tử hoặc là
chúng tôi ngồi soạn kinh sách những lúc đó cả Chư Tăng và Phật tử những
người họ có sự quí kính sự ái mộ có sự tán dương được khen ngợi th́ bản
thân của chúng tôi cũng rộn lên một cái sự hân hoan như là một cái sự bù
đắp cho cái nỗi mệt nhọc.
Thành
thật mà nói th́ tâm phàm chúng ta mà, những lúc đó chúng tôi cũng có một
cái ǵ đó nó khởi lên cái niệm tự hào nếu nói một cách chính xác tức là
cái tâm ngă mạn cũng có chứ không phải là không có, và những lúc chúng
tôi gặp phải những cái trở ngại như bị ngừơi khác chê hoặc là những công
việc thất bại chúng tôi cũng cảm thấy đau khổ cũng có một cái ǵ
đó tụ ái, cái điều này th́ không thế nào thoát được rồi nhưng mà ở đây
thưa quí vị có một điểu mà chúng tôi cũng xin đựơc san sẻ với quí
vị là sau đó th́ chúng tôi lại thể hiện đựơc cách sống của riêng ḿnh.
Nói như TT Giác Đăng là làm như thế nào để cho chúng ta càng tu càng về
già chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng và không có nặng nề bởi cái trách nhiệm
hay là những cái danh lợi nó đi đến, quả thật như vậy nếu mà chúng ta
không khéo th́ chúng ta càng cao danh vọng càng dày gian nan, và những
lúc chúng ta càng có quyền chức th́ chúng ta càng cảm thấy sợ hăi
, hốt hoảng sợ khi mà quyền chức nó bị mất đi , vượt khỏi tầm tay th́
lúc bấy giờ ḿnh sẽ phải như thế nào , sẽ đau khổ lắm nh́n mặt thiên hạ
ḿnh cũng khó nh́n, th́ ở đây thưa quí vị trong trường hợp đó chúng tôi
lại có cái cảm nghĩ khác, th́ thôi bây giờ đang trong lúc thực hành
những cái trách nhiệm , những cái phận sự để san sẻ lợi lạc cho chúng
sanh lúc bấy giờ chúng ta nghĩ ngược lại rằng :không cần, không cần biết
là c̣n hay mất lợi danh ,c̣n hay mất ngừơi ta c̣n ái mộ ḿnh hay là
không c̣n ái mộ ḿnh mà chỉ biết một điều rằng ḿnh đang đào tạo cái trí
tuệ Ba La Mật một cái tri kiến để mà trong tương lai ḿnh sẽ thành tựu
được quả vị A La Hán với trí tuệ phân tích. Chúng tôi có cái tâm
nguyện như vậy, cho nên những lúc mà chúng tôi soạn kinh sách chúng tôi
không cần biết là cuốn sách này soạn ra ngừơi ta có tán thành hay không,
ngừơi ta có hưởng ứng hay không, ḿnh có phát hành những cuốn sách này
nhiều hay không chúng tôi lại không nghĩ như vậy chúng tôi nghĩ rằng
trong lúc mà chúng tôi đầu tư cái trí tuệ và thời gian để mà chúng tôi
nghiên cứu và chúng tôi viết hay là chúng tôi dịch ra những cuốn sách
th́ chúng tôi nghĩ rằng những lúc đó th́ chúng tôi đang đào tạo cái trí
tuệ Ba La Mật.
Khi mà chúng tôi làm đựơc những cái công đức các phước báu đó, thí dụ
như vừa dạy cho Chư Tăng mà trong khi đó chúng tôi phải đi hoằng pháp
chỗ này chỗ kia để mà t́m kiếm để có được phát sanh những cái lợi lộc
đem về cung cấp nuôi dưỡng cho Chư Tăng, để cho Chư Tăng khỏi bận rộn
trong việc nuôi sống , chúng tôi hy sinh cái điều đó chúng tôi không
nghĩ rằng Chư Tăng sẽ khen thưởng hay là sẽ đáp lại bằng một cái ǵ
khác, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đang tạo, đang củng cố cái thiện
nghiệp Ba La Mật của ḿnh chúng tôi nghĩ như vậy thôi, mà thưa quí vị
qủa thật vậy khi mà chúng tôi đă có một cái tiêu chuẩn như thế đó rồi
th́ từ đó về sau chúng tôi cảm thấy nhẹ nhàng, nghĩa là mổi khi mà có
danh có lợi mổi khi có được người ta áp đặc cho ḿnh vào một cái quyền
thế một cái cương vị nào đó th́ tự nhiên chúng tôi cảm thấy cái này
không phải nhằm cái mục đích của ḿnh, do vây cho nên chúng tôi cảm thấy
nhẹ nhàng lắm và đó chỉ là cái kinh nghiệm của bản thân chúng tôi thôi,
th́ ở đây mỗi chúng ta đều có thể tự tạo cho ḿnh một cái sắc thái một
cái tư tưởng tu tập để tự ḿnh làm cho ḿnh nhẹ nhàng , th́ trong trường
hợp đó chúng tôi chỉ xin có một vài ư kiến nho nhỏ thiển cận để góp ư
trong cái câu hỏi của TT Giác Đẳng, chúng tôi xin dứt lời ở đây.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.