TT Giác Đẳng giảng ngày 24 tháng 4, 2003
(Bản
dịch của HT Minh Châu)
Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng
dật,
Không thể bị thối
đọa,
Nhất định gần
niết Bàn.
TT Giác Đẳng giảng: kính bạch quí Ngài và
thưa quí vị, câu kệ ngôn kinh Pháp Cú số 32, thi` hai
câu đầu cũng giống kệ ngôn số 31.
vui thích không phóng dật,
cái phóng dật nguy hại ,
không thể bị thối
thất,
nhất định gần
Niết Bàn.
Thưa qúi Phật tử, ở trong
kệ ngôn Pali, chúng ta cũng có hai câu đầu giống
như là câu kệ trên:
Appamaadarato bhikkhu
pamaade bhayadassivaa
Abhabbo aprihaa.naaya
nibbaa.nasseva santike.
Chữ Abhbbo aprihaa.naaya là vị này không
co`n bị thối thất nữa, không bị thối
chuyển, đạt được sự bất
thối. Tất cả chúng ta
đọc ở trong kinh, nếu chúng ta có thi` giờ
ngồi chiêm nghiệm nghĩa ly' và đặc biệt là
duyên sự mà Đức Phật Ngài giảng kinh, có lẽ
chúng ta sẽ thắm thía hơn, chúng tôi nhớ hồi
nhỏ khi ở gần ông ngoại, thỉnh thoảng nghe
ông ngoại nói một vài điều trong sách vở của
Thánh Hiền, những lúc đó thi` nghe chỉ là nghe,
nhưng sau này lớn lên đi ra ngoài, lâm vào những hoàn
cảnh tương tự và nhi`n lại thi` chúng tôi cảm
thấy rất là thắm thía.
Có thể rằng những câu kinh Pháp Cú
đến với mỗi chúng ta, như những câu kinh
rất ngắn và mang y' nghĩa rất giới hạn,
điều đó không có sức hấp dẫn to lớn
với chúng ta như những tác phẩm đồ sộ
hay những bài kinh dài, hay những túc chuyện, tuy vậy
thưa quí Phật tử, có lẽ chúng ta nên đọc kinh
Pháp Cú bằng một cách đọc khác đi, bằng thái
độ khác, chúng ta nên nghiền ngẫm kinh Pháp Cú như
một thứ Tâm Kinh, tại sao lại là một thứ
Tâm Kinh?. Chúng tôi lớn lên ở miền quê miền Nam
nước Việt, chúng tôi biết ở đó dân chúng
được nuôi dưỡng
bằng những câu ca dao, những điệu ḥ, và
những câu ca dao này đôi khi rất mộc mạc, đôi
khi rất hồn nhiên, rất giản dị, nhưng
những câu ca dao này chuyên chở cả một kho tàng
văn hoá, chuyên chở cả bao nhiêu y' tưởng thâm
trầm.
Vi` vậy chúng tôi có dịp nhắc
về kinh Pháp Cú, ở trong lo`ng không khỏi băng
khoăn nghĩ rằng quí Phật tử những
người nghe, có thể nghe những câu Phật ngôn này,
như những câu Phật ngôn rất nhỏ
được lượm nhặc ở đâu đó, và nó
trở thành một thứ siêu tập về Phật ngôn
giống như những câu danh ngôn chỉ để trang
trí thôi, chỉ trang trí cho những bài giảng trong
đời sống, chứ không có giá trị khai tâm thật
sự.
Người Nhật Bản họ có
một tập sách về thiền gọi là Thạch Sa
tập, cụ Nguyễn Đ́nh Đồng dịch là Góp
Nhặt Cát Đá, ở trong Thạch Sa Tập này đă gom
những câu chuyện thiền rải rác đó đây
trở thành một tập sách, tuy rằng rất nhỏ
nhưng đă qua nhiều thế hệ, nó là những
gợi y', nó là những đề tài, mà khiến cho
nhiều người ti`m thấy ở đó một cái gi`
rất y' nhị về thiền học, qua một lối
tri`nh bày hết sức hàm xúc, hết sức ngắn
gọn.
Vi` vậy
khi chúng tôi đọc những câu kệ ngôn kinh Pháp Cú này,
chúng tôi cũng mong rằng quí Phật tử khi nghe kinh Pháp
Cú, khi đọc kinh Pháp Cú sẽ ti`m thấy những y'
tưởng chân thật.
Đôi lúc chúng ta hăy đặt mi`nh vào trong bối
cảnh thời đó Đức Phật Ngài đă
giảng kinh như thế nào.
Ở đây câu kinh Pháp Cú này
được Đức Phật Ngài dạy ở trong
trường hợp các vị Tỳ Kheo bàn tán với nhau
về trường hợp của vị Tỳ kheo tên
Tissa. Tissa là một thanh niên
lớn lên trong một ngôi làng nhỏ gần thành Xá Vệ,
sau khi đi xuất gia rồi thi` Thầy Tỳ kheo Tissa
chỉ chuyên tâm vào chuyện tu hành, không nghĩ đến
chuyện đi vân du đó đây, mặc dầu kế bên
là thành Xá Vệ, ở nơi này có hội chúng Chư
Tăng đông đảo và cũng có những đại
thí chủ cúng dường, như là vua Ba Tư Nặc,
như là ông Cấp Cô Độc v.v...Nghĩa là đời
sống ở thành Xá Vệ phải nói rất là ly'
tưởng cho sự tu tập.
Quí Phật tử nào sang bên Ấn Độ rồi,
thi` quí vị biết rằng Xá Vệ ngày xưa, hôm nay là
một bi`nh nguyên rất êm đềm, thời tiết khác
hẳn với Vương Xá, khác hẳn với Rajagaha, Xá
Vệ là một nơi mà thời tiết ấm áp quanh
năm, chúng ta có thể nói rằng đó là nơi mưa
thuận gió hoà.
Cho dù cuộc sống ở Xá Vệ ly'
tưởng như vậy nhưng thầy Tỳ kheo Tissa
vẫn chỉ sống ở khu làng nơi mi`nh đă
lớn lên, khi những vị Tỳ kheo nghe chuyện
Thầy Tissa như vậy thi` nghĩ rằng Thầy
Tỳ kheo Tissa vi` quyến luyến với thân bằng
quyến thuộc, vi` một ly' do nào đó mà không dám
rời nơi cố hương của mi`nh để
đi đến một nơi ly' tưởng hơn là
thành Xá Vệ. Thi` ở
đây thưa quí vị, Đức Phật nhân dịp
đó Ngài dạy các vị Tỳ kheo rằng, Tissa không
phải là một người tầm thường, và
cũng không thể nhận Tissa trong những nhận
định tầm thường, bởi vi` Thầy Tỳ
kheo Tissa là người đă hoàn tất những cái gi` mà
cần phải làm, vị này là vị sống đời
sống tri túc, một đời sống giản dị
khiêm tốn, và vị này đă thành tựu được
con đường mà Đức Phật Ngài truyền
dạy, vi` vậy đối với Thầy Tỳ kheo
Tissa cho dù đến thành Xá Vệ, hay là cho dù đến
tận ngôi làng nơi mi`nh đă sanh ra, hay là bất cứ
nơi nào khác thi` cũng giống như nhau, bởi v́ sao?,
bởi vi` những ngoại cảnh đó nó không co`n quan
trọng với Tissa, mà nó thật sự không có một cái
giá trị nào lớn hơn, vi` Tissa đă ti`m thấy
được nhiều giá trị thật sự là đáng
quí ở đó là giá trị của sự không phóng dật,
cái giá trị của sự tinh cần.
Thi` thưa quí vị, nhân trong câu
chuyện này, Đức Phật Ngài cũng nhắc về
câu chuyện tiền thân, trong đời quá khứ xa
xưa có một con vẹt, và con vẹt này sống ở
trên một ngọn cây, trong khi những cây sung này bị
mưa gió băo bùng, và làm cho cây sung bị trốc gốc,
bị tàn phá hư hại rất nặng, nhưng con
vẹt không vi` đó mà bỏ cây sung ra đi, và con vẹt
vẫn ở đó và sống với cây sung như từ
bao giờ. Cái tấm lo`ng
thủy chung với cây sung đó, bởi vi` con vẹt
thấy rằng trong lúc cây sung sinh đẹp thi` vẫn cho
nó có bóng mát, cho nó thức ăn, cho một nơi tạm
trú, bây giờ cây sung không co`n như ngày xưa nữa,
nhưng những giá trị cố hữu, những giá
trị gi` mà cây sung đă ban cho con vẹt này thi` vẫn
không thay đổi, cái đẹp ở bên ngoài, những
cái tơi tả của nhánh lá sau một cơn giông không có
nghĩa vi` vậy mà khiến cho con vẹt rời bỏ
cây sung đó ra đi.
Chúng ta nghe
câu chuyện này, nghe bằng cảm giác nào cũng
được, nghe bằng cách suy nghĩ nào cũng
được, tuy nhiên ở đây có một gợi y', có
một điều mà chúng ta phải suy nghĩ rằng,
một khi một con người đă nhi`n thấy
được cái giá trị nội tại rồi, thi`
ở đâu cũng giống nhau hết, "trong trời
đất nơi nào không quán trọ, tâm tư vô danh lai
khứ cũng vô danh," thi`
thấy ở trong lo`ng con người mà đă ti`m
được giá trị cho chính mi`nh, thi` thưa quí vị
dù ở trong rừng sâu hay thị thành, ở nơi thâm
sơn cùng cốc hay ở chốn phồn hoa đô
hội, thi` sự việc này nó cũng chỉ là ngoại
cảnh chứ nó không nhất thiết ảnh hưởng
khi mà một người đă ti`m thấy được
giá trị, và giá trị này Đức Phật Ngài nói
rất rơ, giá trị mà vị Tỳ kheo này đă ưa thích
trong sự tinh cần và
thấy được sợ hăi trong cuộc sống
phóng dật.
Đôi khi chúng ta bắt gặp một
vài h́nh ảnh một vị Tỳ kheo, như Tôn Giả
Ananda dẫn 500 vị Tỳ kheo trẻ đệ tử
của Ngài đi du hành, và trong chuyến du hành đó, đi
đến những nơi mà những vị Tỳ kheo này
hoan hỷ gặp được Tôn Giả Đại Ca
Diếp, Ngài Ca Diếp nhân đó Ngài quở Tôn Giả Ananda
và Ngài quở các vị Tỳ kheo, khi những vị này
đă chỉ nhi`n thấy những hạnh phúc ở bên
ngoài, nhưng không có ti`m thấy được cái giá
trị chân thật của nội tại. Nhiều lúc chúng ta nhi`n Ngài Ca
Diếp có vẻ khắc khổ, có vẻ nghiêm khắc,
mặc dầu Tôn Giả Ananda là một vị đệ
tử gọi là đệ nhất đa văn, đa
văn là vị thủ kho của chánh pháp, nhưng trong cách
dạy đệ tử thi` Tôn Giả Ananda có một cái
nhi`n rộng răi hơn, có một cái nhi`n không có khắc khe
như Ngài Ca Diếp.
Nhưng rồi nhi`n qua nhi`n lại chúng
ta thấy rằng Tôn Giả Ca Diếp cũng có một cái
nhận định về sự giáo dục của vị
Tỳ kheo rằng: "một vị Tỳ kheo thật
sự trưởng thành trong giáo pháp, là vị này có thể
đạt tới cái tâm bất thối". Tâm bất
thối có nghĩa là tâm không có suy suyển, không có giao
động vi` những thay đổi từ ở bên ngoài.
Ngày xưa Khổng Tử có nói một
điều là một người làm nông giỏi, không vi`
mất mùa mà vị này bỏ các công việc đồng áng
sinh kế của mi`nh, một người đi buôn
thạo nghề cũng không vi` một vài lần lỗi lă
mà bỏ nghề, và một người quân tử hiểu
đạo thi` cho dù có sự thăng trầm trong
đời sống cũng không bỏ đạo. Cái thủy chung đối
với đạo nó là một cái gi` thưa quí vị,
rất khó, nhưng nếu chúng ta đă giữ
được nó, thi` chúng ta sẽ ti`m thấy ở đó
có phần thưởng rất lớn.
Chúng tôi nhớ rằng những tháng ngày
đầu khi sang trại tỵ nạn, chúng tôi có gặp
một số người họ tuyên truyền như
vầy, nếu mi`nh sống ở trại tỵ nạn,
mi`nh bỏ Đạo Phật để theo đạo
Thiên Chúa giáo, thi` những người bảo trợ ở
bên Mỹ, bên Âu Châu họ sẽ bảo trợ mi`nh nhanh
chóng hơn. Điều này
hoàn toàn sai, và có một số người sang đây,
họ được nhà thờ bảo trợ, và những
Mục Sư và những hội viên trong nhà thờ cũng
muốn họ đổi đạo, nhưng chúng tôi
gặp rất nhiều người, họ nhất định
khư khư không bỏ đạo, và những khi nghe
những câu chuyện như vậy, chúng tôi rất thích thú
để nghe những kinh nghiệm họ giữ
đạo như thế nào, họ đă ti`m như thế nào để
một mực thủy chung với một niềm tin. Chúng
tôi không nói rằng những vị đó là những vị
Tu Đà Hườn, không nói rằng những vị đó
thành tựu được niềm tin bất thối,
những vị đó có thể là những người
rất bi`nh thường, nhưng mà khi các vị đó
đă cảm nhận được ở Phật, ở
Pháp, ở Tăng, một cái gi` đó mà các vị không
bỏ được thi` những vị này quả
thật giống như trường hợp mà Đức
Phật Ngài đă dạy ở trong kinh điển: "
Một vị Tỳ kheo đă ti`m thấy được
giá trị chân thật ở trong lo`ng mi`nh, không vi` hoàn
cảnh ở bên ngoài, mà làm cho mi`nh thay đổi đi
cuộc sống".
Thật ra thái độ của Tỳ
kheo Tissa, không phải là một thái độ cố chấp. Thái độ Tỳ kheo Tissa,
chỉ nói lên một điều rằng đối với
một người đă vượt qua những lôi
cuốn từ những giá trị phù du ở bên ngoài, thi`
đến hay đi chỗ này hay chỗ khác nó không phải
là vấn đề khiến cho tâm hồn vị này giao
động, và chỉ có Đức Phật vị
Đạo Sư Từ Phụ của chúng ta Ngài với
Phật nhăn, Ngài thấy biết được tri`nh
độ của vị Tỳ kheo này, Ngài mới dạy
cho vị Tỳ kheo hiểu rằng có những sự
thật mà không thể đánh giá hời hợt ở bên
ngoài.
Chúng tôi không biết rằng nghe câu
chuyện về con vẹt sống ở dưới cây
sung, sau một cơn băo cây sung đă bị tơi tả
trước những ngọn cuồng phong, đă bị
nằm bẹp xuống trốc gốc, nhưng vẫn cho
con vẹt một nơi dung thân,
con vẹt không bỏ nơi đó đi, không hiểu
quí vị nghe câu chuyện đó, quí vị có thấy
một chút gi` rung động trong lo`ng không. Nhưng phải nói rằng khi
chúng tôi đọc câu chuyện đó, chúng tôi cũng
cảm nhận ở đó có một cái gi` rất đẹp.
Thật ra ở trong thế giới loài
vật, thỉnh thoảng có những con vật rất
lạ, ví dụ như con voi từ nhỏ lớn lên
suốt cả hơn 50 năm, tuổi thọ của con
voi nếu không có tai nạn nào khác thi` nó luôn luôn sống
ở trong bầy, trong bầy đó có cha, có mẹ, cũng
có thể là thế hệ trước nữa có 5, 7 con,
quần tụ một bầy như vậy, không bao giờ
đi hoang bên ngoài. Và chúng tôi
biết rằng có một loại hạc, khi chúng tôi về
thăm Hắc Long Giang ở bên Trung Quốc, người
ta nói những loại hạc này rất đặc
biệt, tuổi thọ cũng trên dưới 50 năm, và
khi những con hạc này lớn lên, con trống và con mái nó
đă sống chung với nhau rồi suốt cuộc
đời như vậy, cho dù con trống có chết đi
thi` con mái dần dà sẽ chết theo hay nó sẽ sống
cô lẻ một mi`nh chứ không có bước sang
thuyền khác.
Ở trong cảnh giới của loài
vật thỉnh thoảng những nhà nghiên cứu về
sinh vật học, cho chúng ta biết những cái bí mật,
những bí mật này lại khiến chúng ta liên
tưởng đến câu chuyện ở trong Túc Sanh
truyện, và chúng tôi hoàn toàn hiểu rằng những câu
chuyện nói về những con vật nó trung thành với
một nơi ở, hay có những con chó bị thất
lạc nhiều tháng vẫn cố gắng để ti`m
về ngôi nhà của mi`nh, là những chuyện hoàn toàn
thật sự xảy ra trong kiếp sống chúng ta
được biết ngày hôm nay.
Tuy vậy cái đẹp của câu
chuyện là con vẹt đó có thể bay đi và ti`m
đến một khung trời hoa mộng, có thể ti`m
đến những cây sung tàng cao bóng mát, cảnh trí
đẹp đẽ hơn là cây sung đă bị trốc
gốc, nhưng bởi vi` con hạc đó đă y' thức
rằng đây là cây sung mà mi`nh đă sống, và cái gi` cây
sung cho mi`nh vẫn là giá trị trước sau như
một, đây cũng là nơi nương thân, và thật
sự nó không nở bỏ cây sung mà đi. Chúng ta thấy hi`nh ảnh đó
đẹp quá, nó đẹp như là một bài thơ, nó
đẹp như một câu chuyện ngụ ngôn, và chúng tôi
tin rằng nếu chúng ta có thể đem những câu
chuyện đó trở thành một đề tài, trở
thành một công án để chiêm nghiệm trong đời
sống của chúng ta, thi` mi`nh hiểu rằng ngày hôm nay
cuộc sống quả là thay đổi rất
nhiều.
Quí vị thấy rằng trong một
trăm năm trước đây, từ thời
Đức Phật cho đến một trăm năm
trước đây, thật ra sự thay đổi của
thế giới, thay đổi của văn hoá, sự thay
đổi của xă hội, sự thay đổi của
sinh hoạt Phật Giáo không nhiều bằng một
trăm năm qua, một trăm năm qua thôi, thế
kỷ 20 là thế kỷ con
người từ bước chân rất chậm răi ở
dưới trái đất này đă có thể chế ra
những chiếc máy bay, mà bay gấp ba gấp bốn
lần vận tốc của ánh sáng, đời sống
hoàn toàn thay đổi.
Ngày hôm nay chúng ta ngồi đây có
thể nói chuyện với mọi người ở
khắp năm châu bốn biển, một điều mà
chúng ta không thể tưởng tượng được
cách đây 30 năm, chỉ cần nói chuyện với
một người từ lục tỉnh mà lên Sài G̣n thi` nó
đă là một cú điện thoại tốn tiền
nhiều rồi, đừng nói chi là chuyện chúng ta có
thể ngồi nói chuyện với nhiều người
ở khắp nơi như vậy.
Do vậy cuộc sống thay
đổi không ngừng, ở trong cái thay đổi không
ngừng đó, chúng ta làm cái gi` đó mà chúng ta có thể
giữ lại được cái gốc của mi`nh,
giữ được bản chất của mi`nh,
khiến chúng ta không bị thai hóa, khiến chúng ta không
bị biến dạng đi, khiến chúng ta không bị
mất cội nguồn của mi`nh đi. Thi` điều
đó ở đây Đức Phật Ngài dậy rằng:
Vị Tỳ kheo ưa chuộng sự không phóng dật,
thấy được cái nguy hiểm, thấy
được cái nguy hại trong sự phóng dật và
vị này thành tựu được tâm bất thối và
nhất định vị đó sẽ gần Niết
Bàn. Dĩ nhiên là đạo
tâm của chúng ta có đôi lúc cũng không thể so sánh
với trạng thái tâm bất thối của một
vị Tu Đà Hườn, một người đă
thật sự bước vào trong gio`ng thánh vức, gio`ng
suốt dẫn đến giác ngộ.
Nhưng mà thưa quí vị, chúng ta
cũng ti`m thấy được nhiều sự kiên tâm,
và chính vi` vậy ở đây chúng ta lại được
nghe hai hi`nh ảnh, hi`nh ảnh của một vị Tỳ
Kheo lớn lên từ ngôi làng nhỏ bé của mi`nh và ở
đó đă ti`m thấy được cái đẹp
của chánh pháp, đă chứng đạt được
giá trị chân thật của chánh pháp, và vị này không
thấy cần thiết phải đến Xá Vệ,
phải đến nơi này, phải sang nơi khác. Và cũng một câu chuyện
khác, gần với đời sống phàm tục của
chúng ta hơn và có thể là
ở trong một cảnh giới ḥan toàn khác, cảnh
giới đó là cảnh giới của một con vẹt
sống ở trong cây sung, không vi` cây sung trốc gốc,
không vi` cây sung ngày hôm nay đă tả tơi truớc
những cuộc cuồng phong, giông băo mà bỏ cây sung này
để ti`m đến một cây sung khác đẹp
hơn, cao lớn hơn, mà vẫn ở lại cây sung.
Một hi`nh ảnh nửa xưa,
nửa nay, một hi`nh ảnh thế giới loài
người, một là thế giới loài vật, một
hi`nh ảnh của một vị thánh, và một hi`nh
ảnh phàm, nhưng tất cả những hi`nh ảnh
đó gom chung lại đều là những bài học không
phải có giá trị về luân ly' mà có giá trị lớn
về tâm linh của chúng ta.
Những người cầu đạo giải thoái,
chúng tôi luôn luôn tin rằng, chúng ta sẽ phải ti`m
thấy một giá trị chân thật, mà qua đó chúng ta có
thể sống có thủy có chung với những gi` mà mi`nh
đang theo đuổi. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Minh Hạnh biên soạn