www.dieuphap.com

 
Mục Lục

Kinh Pháp Cú


Kệ Ngôn

Giảng Giải & Thảo Luận

 

Kệ Ngôn  01

 

Kệ Ngôn  02a

 

Kệ Ngôn  02b

 

Kệ Ngôn  03

 

Kệ Ngôn  04

 





Kệ Ngôn Kinh Pháp Cú

Phẩm Tinh Cần - Appamaada Vagga - kệ ngôn 32

 

TT Giác Đẳng giảng ngày 24 tháng 4 năm 2003

[032]  Phật T ử Minh Hạnh nghe lại băng giảng và biên soạn ngày 18 tháng 12, 2003


TT Giác Đẳng giảng ngày 24 tháng 4, 2003


(Bản dịch của HT Minh Châu)

 

Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Không thể bị thối đọa,

Nhất định gần niết Bàn.

 

TT Giác Đẳng giảng: kính bạch quí Ngài và thưa quí vị, câu kệ ngôn kinh Pháp Cú số 32, thi` hai câu đầu cũng giống kệ ngôn số 31.

 

vui thích không phóng dật,

cái phóng dật nguy hại ,

không thể bị thối thất,

nhất định gần Niết Bàn.

 

Thưa qúi Phật tử, ở trong kệ ngôn Pali, chúng ta cũng có hai câu đầu giống như là câu kệ trên:

 

Appamaadarato bhikkhu pamaade bhayadassivaa

Abhabbo aprihaa.naaya nibbaa.nasseva santike.

 

Chữ Abhbbo aprihaa.naaya là vị này không co`n bị thối thất nữa, không bị thối chuyển, đạt được sự bất thối.  Tất cả chúng ta đọc ở trong kinh, nếu chúng ta có thi` giờ ngồi chiêm nghiệm nghĩa ly' và đặc biệt là duyên sự mà Đức Phật Ngài giảng kinh, có lẽ chúng ta sẽ thắm thía hơn, chúng tôi nhớ hồi nhỏ khi ở gần ông ngoại, thỉnh thoảng nghe ông ngoại nói một vài điều trong sách vở của Thánh Hiền, những lúc đó thi` nghe chỉ là nghe, nhưng sau này lớn lên đi ra ngoài, lâm vào những hoàn cảnh tương tự và nhi`n lại thi` chúng tôi cảm thấy rất là thắm thía.

 

Có thể rằng những câu kinh Pháp Cú đến với mỗi chúng ta, như những câu kinh rất ngắn và mang y' nghĩa rất giới hạn, điều đó không có sức hấp dẫn to lớn với chúng ta như những tác phẩm đồ sộ hay những bài kinh dài, hay những túc chuyện, tuy vậy thưa quí Phật tử, có lẽ chúng ta nên đọc kinh Pháp Cú bằng một cách đọc khác đi, bằng thái độ khác, chúng ta nên nghiền ngẫm kinh Pháp Cú như một thứ Tâm Kinh, tại sao lại là một thứ Tâm Kinh?. Chúng tôi lớn lên ở miền quê miền Nam nước Việt, chúng tôi biết ở đó dân chúng được nuôi dưỡng  bằng những câu ca dao, những điệu ḥ, và những câu ca dao này đôi khi rất mộc mạc, đôi khi rất hồn nhiên, rất giản dị, nhưng những câu ca dao này chuyên chở cả một kho tàng văn hoá, chuyên chở cả bao nhiêu y' tưởng thâm trầm.

 

Vi` vậy chúng tôi có dịp nhắc về kinh Pháp Cú, ở trong lo`ng không khỏi băng khoăn nghĩ rằng quí Phật tử những người nghe, có thể nghe những câu Phật ngôn này, như những câu Phật ngôn rất nhỏ được lượm nhặc ở đâu đó, và nó trở thành một thứ siêu tập về Phật ngôn giống như những câu danh ngôn chỉ để trang trí thôi, chỉ trang trí cho những bài giảng trong đời sống, chứ không có giá trị khai tâm thật sự.

 

Người Nhật Bản họ có một tập sách về thiền gọi là Thạch Sa tập, cụ Nguyễn Đ́nh Đồng dịch là Góp Nhặt Cát Đá, ở trong Thạch Sa Tập này đă gom những câu chuyện thiền rải rác đó đây trở thành một tập sách, tuy rằng rất nhỏ nhưng đă qua nhiều thế hệ, nó là những gợi y', nó là những đề tài, mà khiến cho nhiều người ti`m thấy ở đó một cái gi` rất y' nhị về thiền học, qua một lối tri`nh bày hết sức hàm xúc, hết sức ngắn gọn.

 

 Vi` vậy khi chúng tôi đọc những câu kệ ngôn kinh Pháp Cú này, chúng tôi cũng mong rằng quí Phật tử khi nghe kinh Pháp Cú, khi đọc kinh Pháp Cú sẽ ti`m thấy những y' tưởng chân thật.  Đôi lúc chúng ta hăy đặt mi`nh vào trong bối cảnh thời đó Đức Phật Ngài đă giảng kinh như thế nào.

 

Ở đây câu kinh Pháp Cú này được Đức Phật Ngài dạy ở trong trường hợp các vị Tỳ Kheo bàn tán với nhau về trường hợp của vị Tỳ kheo tên Tissa.  Tissa là một thanh niên lớn lên trong một ngôi làng nhỏ gần thành Xá Vệ, sau khi đi xuất gia rồi thi` Thầy Tỳ kheo Tissa chỉ chuyên tâm vào chuyện tu hành, không nghĩ đến chuyện đi vân du đó đây, mặc dầu kế bên là thành Xá Vệ, ở nơi này có hội chúng Chư Tăng đông đảo và cũng có những đại thí chủ cúng dường, như là vua Ba Tư Nặc, như là ông Cấp Cô Độc v.v...Nghĩa là đời sống ở thành Xá Vệ phải nói rất là ly' tưởng cho sự tu tập.  Quí Phật tử nào sang bên Ấn Độ rồi, thi` quí vị biết rằng Xá Vệ ngày xưa, hôm nay là một bi`nh nguyên rất êm đềm, thời tiết khác hẳn với Vương Xá, khác hẳn với Rajagaha, Xá Vệ là một nơi mà thời tiết ấm áp quanh năm, chúng ta có thể nói rằng đó là nơi mưa thuận gió hoà. 

 

Cho dù cuộc sống ở Xá Vệ ly' tưởng như vậy nhưng thầy Tỳ kheo Tissa vẫn chỉ sống ở khu làng nơi mi`nh đă lớn lên, khi những vị Tỳ kheo nghe chuyện Thầy Tissa như vậy thi` nghĩ rằng Thầy Tỳ kheo Tissa vi` quyến luyến với thân bằng quyến thuộc, vi` một ly' do nào đó mà không dám rời nơi cố hương của mi`nh để đi đến một nơi ly' tưởng hơn là thành Xá Vệ.  Thi` ở đây thưa quí vị, Đức Phật nhân dịp đó Ngài dạy các vị Tỳ kheo rằng, Tissa không phải là một người tầm thường, và cũng không thể nhận Tissa trong những nhận định tầm thường, bởi vi` Thầy Tỳ kheo Tissa là người đă hoàn tất những cái gi` mà cần phải làm, vị này là vị sống đời sống tri túc, một đời sống giản dị khiêm tốn, và vị này đă thành tựu được con đường mà Đức Phật Ngài truyền dạy, vi` vậy đối với Thầy Tỳ kheo Tissa cho dù đến thành Xá Vệ, hay là cho dù đến tận ngôi làng nơi mi`nh đă sanh ra, hay là bất cứ nơi nào khác thi` cũng giống như nhau, bởi v́ sao?, bởi vi` những ngoại cảnh đó nó không co`n quan trọng với Tissa, mà nó thật sự không có một cái giá trị nào lớn hơn, vi` Tissa đă ti`m thấy được nhiều giá trị thật sự là đáng quí ở đó là giá trị của sự không phóng dật, cái giá trị của sự tinh cần.

 

Thi` thưa quí vị, nhân trong câu chuyện này, Đức Phật Ngài cũng nhắc về câu chuyện tiền thân, trong đời quá khứ xa xưa có một con vẹt, và con vẹt này sống ở trên một ngọn cây, trong khi những cây sung này bị mưa gió băo bùng, và làm cho cây sung bị trốc gốc, bị tàn phá hư hại rất nặng, nhưng con vẹt không vi` đó mà bỏ cây sung ra đi, và con vẹt vẫn ở đó và sống với cây sung như từ bao giờ.  Cái tấm lo`ng thủy chung với cây sung đó, bởi vi` con vẹt thấy rằng trong lúc cây sung sinh đẹp thi` vẫn cho nó có bóng mát, cho nó thức ăn, cho một nơi tạm trú, bây giờ cây sung không co`n như ngày xưa nữa, nhưng những giá trị cố hữu, những giá trị gi` mà cây sung đă ban cho con vẹt này thi` vẫn không thay đổi, cái đẹp ở bên ngoài, những cái tơi tả của nhánh lá sau một cơn giông không có nghĩa vi` vậy mà khiến cho con vẹt rời bỏ cây sung đó ra đi.

 

 Chúng ta nghe câu chuyện này, nghe bằng cảm giác nào cũng được, nghe bằng cách suy nghĩ nào cũng được, tuy nhiên ở đây có một gợi y', có một điều mà chúng ta phải suy nghĩ rằng, một khi một con người đă nhi`n thấy được cái giá trị nội tại rồi, thi` ở đâu cũng giống nhau hết, "trong trời đất nơi nào không quán trọ, tâm tư vô danh lai khứ cũng vô danh,"  thi` thấy ở trong lo`ng con người mà đă ti`m được giá trị cho chính mi`nh, thi` thưa quí vị dù ở trong rừng sâu hay thị thành, ở nơi thâm sơn cùng cốc hay ở chốn phồn hoa đô hội, thi` sự việc này nó cũng chỉ là ngoại cảnh chứ nó không nhất thiết ảnh hưởng khi mà một người đă ti`m thấy được giá trị, và giá trị này Đức Phật Ngài nói rất rơ, giá trị mà vị Tỳ kheo này đă ưa thích trong sự tinh cần và  thấy được sợ hăi trong cuộc sống phóng dật.

 

Đôi khi chúng ta bắt gặp một vài h́nh ảnh một vị Tỳ kheo, như Tôn Giả Ananda dẫn 500 vị Tỳ kheo trẻ đệ tử của Ngài đi du hành, và trong chuyến du hành đó, đi đến những nơi mà những vị Tỳ kheo này hoan hỷ gặp được Tôn Giả Đại Ca Diếp, Ngài Ca Diếp nhân đó Ngài quở Tôn Giả Ananda và Ngài quở các vị Tỳ kheo, khi những vị này đă chỉ nhi`n thấy những hạnh phúc ở bên ngoài, nhưng không có ti`m thấy được cái giá trị chân thật của nội tại.  Nhiều lúc chúng ta nhi`n Ngài Ca Diếp có vẻ khắc khổ, có vẻ nghiêm khắc, mặc dầu Tôn Giả Ananda là một vị đệ tử gọi là đệ nhất đa văn, đa văn là vị thủ kho của chánh pháp, nhưng trong cách dạy đệ tử thi` Tôn Giả Ananda có một cái nhi`n rộng răi hơn, có một cái nhi`n không có khắc khe như Ngài Ca Diếp. 

 

Nhưng rồi nhi`n qua nhi`n lại chúng ta thấy rằng Tôn Giả Ca Diếp cũng có một cái nhận định về sự giáo dục của vị Tỳ kheo rằng: "một vị Tỳ kheo thật sự trưởng thành trong giáo pháp, là vị này có thể đạt tới cái tâm bất thối". Tâm bất thối có nghĩa là tâm không có suy suyển, không có giao động vi` những thay đổi từ ở bên ngoài.

 

Ngày xưa Khổng Tử có nói một điều là một người làm nông giỏi, không vi` mất mùa mà vị này bỏ các công việc đồng áng sinh kế của mi`nh, một người đi buôn thạo nghề cũng không vi` một vài lần lỗi lă mà bỏ nghề, và một người quân tử hiểu đạo thi` cho dù có sự thăng trầm trong đời sống cũng không bỏ đạo.  Cái thủy chung đối với đạo nó là một cái gi` thưa quí vị, rất khó, nhưng nếu chúng ta đă giữ được nó, thi` chúng ta sẽ ti`m thấy ở đó có phần thưởng rất lớn.

 

Chúng tôi nhớ rằng những tháng ngày đầu khi sang trại tỵ nạn, chúng tôi có gặp một số người họ tuyên truyền như vầy, nếu mi`nh sống ở trại tỵ nạn, mi`nh bỏ Đạo Phật để theo đạo Thiên Chúa giáo, thi` những người bảo trợ ở bên Mỹ, bên Âu Châu họ sẽ bảo trợ mi`nh nhanh chóng hơn.  Điều này hoàn toàn sai, và có một số người sang đây, họ được nhà thờ bảo trợ, và những Mục Sư và những hội viên trong nhà thờ cũng muốn họ đổi đạo, nhưng chúng tôi gặp rất nhiều người, họ nhất định khư khư không bỏ đạo, và những khi nghe những câu chuyện như vậy, chúng tôi rất thích thú để nghe những kinh nghiệm họ giữ đạo như thế nào, họ đă  ti`m như thế nào để một mực thủy chung với một niềm tin. Chúng tôi không nói rằng những vị đó là những vị Tu Đà Hườn, không nói rằng những vị đó thành tựu được niềm tin bất thối, những vị đó có thể là những người rất bi`nh thường, nhưng mà khi các vị đó đă cảm nhận được ở Phật, ở Pháp, ở Tăng, một cái gi` đó mà các vị không bỏ được thi` những vị này quả thật giống như trường hợp mà Đức Phật Ngài đă dạy ở trong kinh điển: " Một vị Tỳ kheo đă ti`m thấy được giá trị chân thật ở trong lo`ng mi`nh, không vi` hoàn cảnh ở bên ngoài, mà làm cho mi`nh thay đổi đi cuộc sống".

 

Thật ra thái độ của Tỳ kheo Tissa, không phải là một thái độ cố chấp.  Thái độ Tỳ kheo Tissa, chỉ nói lên một điều rằng đối với một người đă vượt qua những lôi cuốn từ những giá trị phù du ở bên ngoài, thi` đến hay đi chỗ này hay chỗ khác nó không phải là vấn đề khiến cho tâm hồn vị này giao động, và chỉ có Đức Phật vị Đạo Sư Từ Phụ của chúng ta Ngài với Phật nhăn, Ngài thấy biết được tri`nh độ của vị Tỳ kheo này, Ngài mới dạy cho vị Tỳ kheo hiểu rằng có những sự thật mà không thể đánh giá hời hợt ở bên ngoài.

 

Chúng tôi không biết rằng nghe câu chuyện về con vẹt sống ở dưới cây sung, sau một cơn băo cây sung đă bị tơi tả trước những ngọn cuồng phong, đă bị nằm bẹp xuống trốc gốc, nhưng vẫn cho con vẹt một nơi dung thân,  con vẹt không bỏ nơi đó đi, không hiểu quí vị nghe câu chuyện đó, quí vị có thấy một chút gi` rung động trong lo`ng không.  Nhưng phải nói rằng khi chúng tôi đọc câu chuyện đó, chúng tôi cũng cảm nhận ở đó có một cái gi` rất đẹp. 

 

Thật ra ở trong thế giới loài vật, thỉnh thoảng có những con vật rất lạ, ví dụ như con voi từ nhỏ lớn lên suốt cả hơn 50 năm, tuổi thọ của con voi nếu không có tai nạn nào khác thi` nó luôn luôn sống ở trong bầy, trong bầy đó có cha, có mẹ, cũng có thể là thế hệ trước nữa có 5, 7 con, quần tụ một bầy như vậy, không bao giờ đi hoang bên ngoài.  Và chúng tôi biết rằng có một loại hạc, khi chúng tôi về thăm Hắc Long Giang ở bên Trung Quốc, người ta nói những loại hạc này rất đặc biệt, tuổi thọ cũng trên dưới 50 năm, và khi những con hạc này lớn lên, con trống và con mái nó đă sống chung với nhau rồi suốt cuộc đời như vậy, cho dù con trống có chết đi thi` con mái dần dà sẽ chết theo hay nó sẽ sống cô lẻ một mi`nh chứ không có bước sang thuyền khác. 

 

Ở trong cảnh giới của loài vật thỉnh thoảng những nhà nghiên cứu về sinh vật học, cho chúng ta biết những cái bí mật, những bí mật này lại khiến chúng ta liên tưởng đến câu chuyện ở trong Túc Sanh truyện, và chúng tôi hoàn toàn hiểu rằng những câu chuyện nói về những con vật nó trung thành với một nơi ở, hay có những con chó bị thất lạc nhiều tháng vẫn cố gắng để ti`m về ngôi nhà của mi`nh, là những chuyện hoàn toàn thật sự xảy ra trong kiếp sống chúng ta được biết ngày hôm nay. 

 

Tuy vậy cái đẹp của câu chuyện là con vẹt đó có thể bay đi và ti`m đến một khung trời hoa mộng, có thể ti`m đến những cây sung tàng cao bóng mát, cảnh trí đẹp đẽ hơn là cây sung đă bị trốc gốc, nhưng bởi vi` con hạc đó đă y' thức rằng đây là cây sung mà mi`nh đă sống, và cái gi` cây sung cho mi`nh vẫn là giá trị trước sau như một, đây cũng là nơi nương thân, và thật sự nó không nở bỏ cây sung mà đi.  Chúng ta thấy hi`nh ảnh đó đẹp quá, nó đẹp như là một bài thơ, nó đẹp như một câu chuyện ngụ ngôn, và chúng tôi tin rằng nếu chúng ta có thể đem những câu chuyện đó trở thành một đề tài, trở thành một công án để chiêm nghiệm trong đời sống của chúng ta, thi` mi`nh hiểu rằng ngày hôm nay cuộc sống quả là thay đổi rất nhiều. 

 

Quí vị thấy rằng trong một trăm năm trước đây, từ thời Đức Phật cho đến một trăm năm trước đây, thật ra sự thay đổi của thế giới, thay đổi của văn hoá, sự thay đổi của xă hội, sự thay đổi của sinh hoạt Phật Giáo không nhiều bằng một trăm năm qua, một trăm năm qua thôi, thế kỷ 20 là  thế kỷ con người từ bước chân rất chậm răi ở dưới trái đất này đă có thể chế ra những chiếc máy bay, mà bay gấp ba gấp bốn lần vận tốc của ánh sáng, đời sống hoàn toàn thay đổi.

Ngày hôm nay chúng ta ngồi đây có thể nói chuyện với mọi người ở khắp năm châu bốn biển, một điều mà chúng ta không thể tưởng tượng được cách đây 30 năm, chỉ cần nói chuyện với một người từ lục tỉnh mà lên Sài G̣n thi` nó đă là một cú điện thoại tốn tiền nhiều rồi, đừng nói chi là chuyện chúng ta có thể ngồi nói chuyện với nhiều người ở khắp nơi như vậy. 

 

Do vậy cuộc sống thay đổi không ngừng, ở trong cái thay đổi không ngừng đó, chúng ta làm cái gi` đó mà chúng ta có thể giữ lại được cái gốc của mi`nh, giữ được bản chất của mi`nh, khiến chúng ta không bị thai hóa, khiến chúng ta không bị biến dạng đi, khiến chúng ta không bị mất cội nguồn của mi`nh đi. Thi` điều đó ở đây Đức Phật Ngài dậy rằng: Vị Tỳ kheo ưa chuộng sự không phóng dật, thấy được cái nguy hiểm, thấy được cái nguy hại trong sự phóng dật và vị này thành tựu được tâm bất thối và nhất định vị đó sẽ gần Niết Bàn.  Dĩ nhiên là đạo tâm của chúng ta có đôi lúc cũng không thể so sánh với trạng thái tâm bất thối của một vị Tu Đà Hườn, một người đă thật sự bước vào trong gio`ng thánh vức, gio`ng suốt dẫn đến giác ngộ. 

 

Nhưng mà thưa quí vị, chúng ta cũng ti`m thấy được nhiều sự kiên tâm, và chính vi` vậy ở đây chúng ta lại được nghe hai hi`nh ảnh, hi`nh ảnh của một vị Tỳ Kheo lớn lên từ ngôi làng nhỏ bé của mi`nh và ở đó đă ti`m thấy được cái đẹp của chánh pháp, đă chứng đạt được giá trị chân thật của chánh pháp, và vị này không thấy cần thiết phải đến Xá Vệ, phải đến nơi này, phải sang nơi khác.  Và cũng một câu chuyện khác, gần với đời sống phàm tục của chúng ta hơn và có thể là  ở trong một cảnh giới ḥan toàn khác, cảnh giới đó là cảnh giới của một con vẹt sống ở trong cây sung, không vi` cây sung trốc gốc, không vi` cây sung ngày hôm nay đă tả tơi truớc những cuộc cuồng phong, giông băo mà bỏ cây sung này để ti`m đến một cây sung khác đẹp hơn, cao lớn hơn, mà vẫn ở lại cây sung. 

 

Một hi`nh ảnh nửa xưa, nửa nay, một hi`nh ảnh thế giới loài người, một là thế giới loài vật, một hi`nh ảnh của một vị thánh, và một hi`nh ảnh phàm, nhưng tất cả những hi`nh ảnh đó gom chung lại đều là những bài học không phải có giá trị về luân ly' mà có giá trị lớn về tâm linh của chúng ta.  Những người cầu đạo giải thoái, chúng tôi luôn luôn tin rằng, chúng ta sẽ phải ti`m thấy một giá trị chân thật, mà qua đó chúng ta có thể sống có thủy có chung với những gi` mà mi`nh đang theo đuổi. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh biên soạn