AN VIII.39: Abhisanda Sutta

 

Thus have I heard:




Như vầy tôi nghe.

 

On one occasion the Blessed One was living in the abode of Alavaka, the Yakkha (demon), at Alavi.



Một thời Thế Tôn trú ở Àlavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavakka.

 

Then Alavaka approached the Blessed One and said:



Rồi Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

 

-"Get out, recluse (samana)." —



-"Này Sa-môn, hăy đi ra!"

 

-"Very well, friend"



-"Lành thay, Hiền giả."

 

So saying the Blessed One went out.



Thế Tôn nói và đi ra.

 

-"Come in, recluse." —



-"Này Sa-môn, hăy đi vào."

 

-"Very well, friend"



-"Lành thay, Hiền giả"

 

So saying the Blessed One entered.



Thế Tôn nói và đi vào.

 

"Get out, recluse," said Alavaka to the Blessed One a second time.



Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: này Sa-môn, hăy đi ra.

 

-"Very well, friend"



-"Lành thay, Hiền giả."

 

So saying the Blessed One went out.



Thế Tôn nói và đi ra.

 

"Come in, recluse." —



-"Này Sa-môn, hăy đi vào."

 

"Very well, friend



-"Lành thay, Hiền giả"

 

So saying the Blessed One entered.



Thế Tôn nói và đi vào.

 

"Get out, recluse," said Alavaka to the Blessed One a third time. —



Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn: này Sa-môn, hăy đi ra.

 

-"Very well, friend,"



-"Lành thay, Hiền giả."

 

So saying the Blessed One went out.



-"Thế Tôn nói và đi ra."

 

"Come in, recluse." —



-"Này Sa-môn, hăy đi vào."

 

-"Very well, friend,"



-"Lành thay, Hiền giả."

 

So saying the Blessed One entered.



-"Thế Tôn nói và đi vào."

 

"Get out recluse," said Alavaka to the Blessed One a fourth time. —



Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn: này Sa-môn, hăy đi ra.

 

-"No, O friend, I will not get out. Do what you will."



-"Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hăy làm ǵ Ông nghĩ là phải làm."

 

"I will ask you a question, recluse. If you do not answer me, I will confound your mind (thoughts), or cleave your heart, or take you by your feet and fling you over to the further shore of the ocean (para gangaya).



-"Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu hỏi. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng."

 

"Well, friend, I do not see anyone in the world of Devas, Maras, Brahmas, or among the generation of recluses, brahmanas, deities, and humans, who could either confound my mind or cleave my heart, or take me by the feet and fling me over to the further shore of the ocean; nevertheless, friend, ask what you will."



Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta hay nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, hăy hỏi đi như Ông muốn.

 

Then Alavaka addressed the Blessed One in verse:



Dạ-xoa:

 

Faith is the wealth here best for man;
Dhamma well practiced shall happiness bring;
Truth indeed all other tastes excels;
Life wisely lived they say is best.

[Alavaka:]


 How does one the currents1 cross?
How is ocean's2 existence crossed?
How is one's suffering quelled?
How is one purified?

[The Buddha:]


 By faith are currents crossed;
By diligence is the ocean crossed;
By effort is one's suffering quelled;
By wisdom is one purified;

[Alavaka:]


 How does one wisdom win?
How does one wealth obtain?
How does one come to fame?
How does one friendship win?
How does one without sorrow fare
When from this world to another he's gone?

[The Buddha:]


 The mindful and discerning one,
Who in the Dhamma plead his faith;
By his will to hear that Dhamma
Wins the wisdom of Nibbana.
Who is tactful and energetic,
And gains wealth by his own effort;
Fame will he acquire by truth,
And friendship by his giving.
He who has faith and is also truthful,
virtuous, firm, and fond of giving;
By virtue of these four conditions
Will never in the hereafter grieve.
Truth and Restraint,
Charity and Forbearance,
Are the great reformers of man;
If there be any better
Ask of other samanas and brahmanas.

[Alavaka:]


 Why should I now try to ask
From other samanas and brahmanas
When this day I came to learn
What weal is here and hereafter?

 This for my weal indeed
The Buddha to Alavi came;
A gift always bears a fruit;
This too I learned today.

 From village to village and town to town
I shall now wander along
Praising that Supreme Buddha
And the Dhamma well preached by him.

Ḷng tin đối người đời, 
Là tài sản tối thượng. 
Chánh pháp khéo hành tŕ, 
Đem lại chơn an lạc. 
Chân lư giữa các vị, 
Là vị ngọt tối thượng. 
Phải sống với trí tuệ, 
Được gọi sống tối thượng.

[Alavaka:]


Làm sao vượt bộc lưu? 
Làm sao vượt biển lớn?
Làm sao siêu khổ năo? 
Làm sao được thanh tịnh?

[The Buddha:]


Ḷng tin đối người đời, 
Là tài sản tối thượng. 
Chánh pháp khéo hành tŕ, 
Đem lại chơn an lạc. 
Chân lư giữa các vị, 
Là vị ngọt tối thượng. 
Phải sống với trí tuệ, 
Được gọi sống tối thượng.

[Alavaka:]


Làm sao được trí tuệ?
Làm sao được tài sản? 
Làm sao đạt danh xưng? 
Làm sao kết bạn hữu? 
Đời này qua đời khác, 
Làm sao không sầu khổ?

[The Buddha:]









Ai tin tưởng Chánh pháp
Của bậc A-la-hán, 
Pháp ấy khiến đạt được,
Niết-bàn (chơn an lạc), 
Khéo học, không phóng dật, 
Minh nhăn khéo phân biệt, 
Nhờ hành tŕ như vậy, 
Vị ấy được trí tuệ. 
Làm ǵ khéo thích hợp, 
Gánh vác các trách nhiệm, 
Phấn chấn, thích hoạt động, 
Như vậy được tài sản, 
Chơn thật đạt danh xưng, 
Bố thí kết bạn hữu, 
Đời này qua đời khác, 
Như vậy không sầu khổ. 
Tín nam gia chủ nào, 
T́m cầu bốn pháp này, 
Chơn thực và chế ngự, 
Kiên tŕ và xả thí, 
Vị ấy sau khi chết, 
Không c̣n phải sầu khổ. 
Đời này qua đời khác, 
Sau chết, không sầu khổ. 
Ta muốn Ông đến hỏi, 
Sa-môn, Bà-la-môn, 
Có những pháp nào khác,
Tốt hơn bốn pháp này: 
Chơn thực và chế ngự, 
Xả thí và kham nhẫn.

[Alavaka:]









Làm sao nay ta hỏi, 
Sa-môn, Bà-la-môn, 
Khi nay ta được biết, 
Nguyên nhân của đời sau. 
Phật đến Alavi, 
Thật lợi ích cho ta.
Nay ta được biết rơ, 
Cho ǵ được quả lớn. 
Nên ta sẽ bộ hành, 
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác, 
Đảnh lễ Phật Chánh Giác, 
Cùng đảnh lễ Chánh pháp,

 

Notes

1. "Current" stands for the Pali word 'ogha' which is fourfold — sense pleasures, becoming, wrong views and ignorance (kama-ogha, bhava-o., ditthi-o., avijja-o).

2. "Ocean" stands for the Pali word 'annavam' which is metaphorically used to signify repeated existence, or samsara.