[Udayin:] "'Released through discernment, released through discernment,' it is said. To what extent is one described by the Blessed One as released through discernment?"


"Tuệ giải thoát, tuệ giải thoát", này Hiền giả, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, này Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến?

 

[Ananda:] "There is the case, my friend, where a monk, withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền; với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the stilling of directed thought & evaluation, enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này các Hiền giả, vị Tỷ kheo diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the fading of rapture, remains in equanimity, mindful & alert, is physically sensitive to pleasure, and enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này các Hiền giả, vị tỷ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này các Hiền giả, vị tỷ kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' enters & remains in the dimension of the infinitude of space. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này các Hiền giả, Tỷ-kheo vượt khỏi các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại tưởng, không tác ư đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô biên" chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' enters & remains in the dimension of the infinitude of consciousness. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này các Hiền giả, Tỷ-kheo vượt khỏi Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên" chứng và an trú Thức vô biên xứ. Với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' enters & remains in the dimension of nothingness. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này các Hiền giả, Tỷ-kheo vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có vật ǵ" chứng và an trú Vô sở hữu xứ. Với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of nothingness, enters & remains in the dimension of neither perception nor non-perception. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này các Hiền giả, Tỷ-kheo vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Với trí tuệ vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

Furthermore, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, he enters & remains in the cessation of perception & feeling. And as he sees with discernment, the mental fermentations go to their total end. And he knows it through discernment. It is to this extent that one is described in a non-sequential way by the Blessed One as released through discernment.


Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định; sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận. Với trí tuệ, vị ấy rơ biết. Cho đến như vậy, này Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với phi pháp môn.

 

See also: AN 9.43; AN 9.45.