Suppose there was a mountain cow — foolish, inexperienced, unfamiliar with her pasture, unskilled in roaming on rugged mountains — and she were to think:


Ví như, này các Tỷ-kheo, một con ḅ cái sống ở rừng núi, ngu si, không thông minh, không biết đồng ruộng, không thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở. Nó suy nghĩ:

 

"What if I were to go in a direction I have never gone before, to eat grass I have never eaten before, to drink water I have never drunk before!"


"Ta hăy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hăy ăn cỏ trước kia chưa được ăn, ta sẽ uống nước trước kia chưa được uống"

 

She would lift her hind hoof without having placed her front hoof firmly and [as a result] would not get to go in a direction she had never gone before, to eat grass she had never eaten before, or to drink water she had never drunk before. And as for the place where she was standing when the thought occurred to her, 'What if I were to go where I have never been before, to eat grass I have never eaten before, to drink water I have never drunk before,' she would not return there safely.


Và con ḅ cái ấy đă giơ chân sau lên, trước khi nó khéo đặt một cách tốt đẹp bàn chân trước, và nó không có thể đi đến phương hướng trước kia chưa đi, không có thể ăn cỏ trước kia chưa được ăn, và không có thể uống nước trước kia chưa được uống. Tại chỗ mà trước kia nó đặt chân, nó nghĩ: "Ta hăy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hăy ăn cỏ trước kia chưa ăn ta sẽ uống nước trước kia chưa uống", nó không có thể trở lui chỗ ấy một cách an toàn.

 

Why is that? Because she is a foolish, inexperienced mountain cow, unfamiliar with her pasture, unskilled in roaming on rugged mountains.


V́ sao? Ở đây, này các Tỷ-kheo, v́ con ḅ cái ấy sống ở rừng núi, ngu si, không biết chỗ đồng ruộng, không thiện xảo đi đến các núi con hiểm trở.

 

In the same way, there are cases where a monk — foolish, inexperienced, unfamiliar with his pasture, unskilled in being quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, and entering & remaining in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation — doesn't stick with that theme, doesn't develop it, pursue it, or establish himself firmly in it.


Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có một số Tỷ-kheo ngu si, không thông minh, không biết chỗ đồng ruộng, không thiện xảo, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm , có tứ. Vị ấy không thực hành, không tu tập tướng ấy không làm cho sung măn, không trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if, with the stilling of directed thought & evaluation, were to enter & remain in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. He is not able stilling of directed thought & evaluation, were not to enter & remain in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation.


Vị ấy lại suy nghĩ: "Ta hăy diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy không có thể diệt các tầm và tứ, không có thể chứng và trú Thiền thứ hai. một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.

 

The thought occurs to him, 'What if I were quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, were to enter & remain in the first jhana, rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He is not able quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, not to enter & remain in the first jhana, rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation.


Dầu cho vị ấy có suy nghĩ: "Ta hăy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Vị ấy cũng không thể ly dục, ly bất thiện pháp,chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ.

 

This is called a monk who has slipped & fallen from both sides, like the mountain cow, foolish, inexperienced, unfamiliar with her pasture, unskilled in roaming on rugged mountains.


Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo rơi vào cả hai phía, đọa vào cả hai phía, ví như con ḅ cái ấy sống ở rừng núi, ngu si , không thông minh, không biết chỗ đồng ruộng, không thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở.

 

But suppose there was a mountain cow — wise, experienced, familiar with her pasture, skilled in roaming on rugged mountains — and she were to think, 'What if I were to go in a direction I have never gone before, to eat grass I have never eaten before, to drink water I have never drunk before!'


Ví như, này các Tỷ-kheo, một con ḅ cái sống ở rừng núi, hiền trí, thông minh, biết đồng ruộng, biết thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở. Nó suy nghĩ: "Ta hăy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hăy ăn cỏ trước kia chưa được ăn, ta sẽ uống nước trước kia chưa được uống"

 

She would lift her hind hoof only after having placed her front hoof firmly and [as a result] would get to go in a direction she had never gone before, to eat grass I have never eaten before, to drink water she had never drunk before.


Và con ḅ cái ấy, sau khi nó khéo đặt một cách tốt đẹp bàn chân trước rồi giơ chân sau lên, và nó có thể đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ăn cỏ trước kia chưa được ăn, và uống nước trước kia chưa được uống.

 

And as for the place where she was standing when the thought occurred to her, 'What if I were to go in a direction I have never gone before, to eat grass I have never eaten before, to drink water I have never drunk before,' she would return there safely.


Tại chỗ mà trước kia nó đặt chân, nó nghĩ: "Ta hăy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hăy ăn cỏ trước kia chưa ăn ta sẽ uống nước trước kia chưa uống", nó có thể trở lui chỗ ấy một cách an toàn.

 

Why is that? Because she is a wise, experienced mountain cow, familiar with her pasture, skilled in roaming on rugged mountains.


V́ sao? Ở đây, này các Tỷ-kheo, v́ con ḅ cái ấy sống ở rừng núi, hiền trí, thông minh, biết chỗ đồng ruộng, thiện xảo đi đến các núi con hiểm trở.

 

In the same way, there are some cases where a monk — wise, experienced, familiar with his pasture, skilled in being quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, and entering & remaining in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation — sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.


Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có một số Tỷ-kheo hiền trí, thông minh, biết chỗ đồng ruộng, biết thiện xảo, ly dục, ly ác pháp, ly bất thiện pháp, có thể chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if, with the stilling of directed thought & evaluation, I were to enter & remain in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.'


Vị ấy lại suy nghĩ: "Ta hăy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.".

 

Without jumping at the second jhana, he — with the stilling of directed thought & evaluation — enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.


Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ hai, diệt các tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.

 

He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.


Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if, with the fading of rapture, I were to enter & remain in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.Without jumping at the third jhana, with the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive to pleasure, entering & remaining in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.


Vị ấy suy nghĩ: "Ta hăy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba ". Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ ba, ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.". Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if I with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — were to enter & remain in the fourth jhana, purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. Without jumping at the fourth jhana, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.


Vị ấy suy nghĩ: "Ta hăy đoạn lạc, đoạn khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ tư, đoạn lạc, đoạn khổ,diệt hỷ ưu đă cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if I,with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,were to enter & remain in the dimension of the infinitude of space.' Without jumping at the dimension of the infinitude of space, he, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' enters & remains in the dimension of the infinitude of space. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.


Vị ấy suy nghĩ: "Ta hăy vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại tưởng, không tác ư đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy không lẫn lộn Không vô biên xứ, vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn,chấm dứt các chướng ngại tưởng,không tác ư đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if Iwith the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,were to enter & remain in the dimension of the infinitude of consciousness.' Without jumping at the dimension of the infinitude of consciousness, he, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' enters & remains in the dimension of the infinitude of consciousness. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.


Vị ấy suy nghĩ: "Ta hăy vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ". Vị ấy không lẫn lộn Thức vô biên xứ, vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if Iwith the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' were to enter & remain in the dimension of nothingness.' Without jumping at the dimension of nothingness, he, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' enters & remains in the dimension of nothingness. He sticks with that theme, develops it, pursues, it & establishes himself firmly in it.


Vị ấy suy nghĩ: "Ta hăy vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn", biết rằng "Không có vật ǵ", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy không lẫn lộn Vô sở hữu xứ, vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có vật ǵ", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if Iwith the complete transcending of the dimension of nothingness, were to enter & remain in the dimension of neither perception nor non-perception.' Without jumping at the dimension of neither perception nor non-perception, he, with the complete transcending of the dimension of nothingness, enters & remains in the dimension of neither perception nor non-perception. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.


Vị ấy suy nghĩ: "Ta hăy vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn", chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy không lẫn lộn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung măn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

The thought occurs to him, 'What if I, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, were to enter & remain in the cessation of perception & feeling.' Without jumping at the cessation of perception & feeling, he, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, enters & remains in the cessation of perception & feeling.


Vị ấy suy nghĩ: "Ta hăy vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định". Vị ấy không lẫn lộn Diệt thọ tưởng định, vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.

 

When a monk enters & emerges from that very attainment, his mind is pliant & malleable. With his pliant, malleable mind, limitless concentration is well developed. With his well-developed, limitless concentration, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.


Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo nhập vào và xuất ra khỏi Thiền chứng ấy, tâm vị ấy trở thành nhu nhuyến, dễ xử dụng. Với tâm nhu nhuyến, dễ xử dụng , định được khéo tu tập, trở thành vô lượng. Vị ấy với định vô lượng khéo tu tập, tùy theo pháp ǵ, pháp ǵ cần được chứng ngộ với thắng trí, vị ấy hướng tâm về sự chứng ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he wields manifold supranormal powers. Having been one he becomes many; having been many he becomes one. He appears. He vanishes. He goes unimpeded through walls, ramparts, and mountains as if through space. He dives in and out of the earth as if it were water. He walks on water without sinking as if it were dry land. Sitting crosslegged he flies through the air like a winged bird. With his hand he touches and strokes even the sun and moon, so mighty and powerful. He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu muốn, vị ấy chứng được các loại thần thông! Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; vị ấy hiện h́nh, biến h́nh đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang hư không, vị ấy độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; vị ấy đi trên nước không ch́m như trên đất liền; vị ấy ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, vị ấy chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; vị ấy có thể, thân vị ấy có thần thông bay cho đến Phạm Thiên!". Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he hears — by means of the divine ear-element, purified and surpassing the human — both kinds of sounds: divine and human, whether near or far. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu muốn, với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần! Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he knows the awareness of other beings, other individuals, having encompassed it with his own awareness. He discerns a mind with passion as a mind with passion, and a mind without passion as a mind without passion. He discerns a mind with aversion as a mind with aversion, and a mind without aversion as a mind without aversion. He discerns a mind with delusion as a mind with delusion, and a mind without delusion as a mind without delusion. He discerns a restricted mind as a restricted mind, and a scattered mind as a scattered mind. He discerns an enlarged mind as an enlarged mind, and an unenlarged mind as an unenlarged mind. He discerns an excelled mind [one that is not at the most excellent level] as an excelled mind, and an unexcelled mind as an unexcelled mind. He discerns a concentrated mind as a concentrated mind, and an unconcentrated mind as an unconcentrated mind. He discerns a released mind as a released mind, and an unreleased mind as an unreleased mind. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu muốn, vị ấy với tâm của vị ấy , vị ấy biết được tâm của các chúng sanh và loài Người. Tâm có tham, vị ấy biết tâm có tham. Tâm không tham, vị ấy biết tâm không tham. Tâm có sân, vị ấy biết tâm có sân. Tâm không sân, vị ấy biết tâm không sân. Tâm có si, vị ấy biết tâm có si. Tâm không si, vị ấy biết tâm không si. Tâm chuyên chú, vị ấy biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, vị ấy biết tâm tán loạn. Tâm đại hành, vị ấy biết tâm đại hành. Tâm không đại hành, vị ấy biết tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, vị ấy biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, vị ấy biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, vị ấy biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định, vị ấy biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát, vị ấy biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, vị ấy biết tâm không giải thoát! Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he recollects his manifold past lives (lit: previous homes), i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction and expansion, [recollecting], 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he remembers his manifold past lives in their modes and details. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu muốn, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp, vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây! Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he sees — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, and mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, and mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — he sees beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu muốn,với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng. Chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, về lời và về ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ!" Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, then through the ending of the mental fermentations, he remains in the fermentation-free awareness-release and discernment-release, having known and made them manifest for himself right in the here and now. He can witness this for himself whenever there is an opening."


Nếu muốn, vị ấy có thể, do đoạn tận các lậu hoặc, sau khi chứng ngộ, chứng đạt, vị ấy an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc!. Tại đấy, tại đấy, vị ấy có khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.