www.dieuphap.com

 
Thư Thầy Trò
Lời Giới Thiệu
Lá thư thứ  1
Lá thư thứ  2
Lá thư thứ  3
Lá thư thứ  4
Lá thư thứ  5
Lá thư thứ  6
Lá thư thứ  7
Lá thư thứ  8
Lá thư thứ  9
Lá thư thứ  10
Lá thư thứ  11
Lá thư thứ  12
Lá thư thứ  13
Lá thư thứ  14
Lá thư thứ  15
Lá thư thứ  16
Lá thư thứ  17
Lá thư thứ  18
Lá thư thứ  19
Lá thư thứ  20
Lá thư thứ  21
Lá thư thứ  22
Lá thư thứ  23
Lá thư thứ  24
Lá thư thứ  25
Lá thư thứ  26
Lá thư thứ  27
Lá thư thứ  28
Lá thư thứ  29
Lá thư thứ  30
Lá thư thứ  31
Lá thư thứ  32
Lá thư thứ  33
Lá thư thứ  34
Lá thư thứ  35
Lá thư thứ  36
Lá thư thứ  37
Lá thư thứ  38
Lá thư thứ  39
Lá thư thứ  40
Lá thư thứ  41
Lá thư thứ  42
Lá thư thứ  43







Thư Thầy Tro`

Tỳ kheo Viên Minh



Phật tử Ngọc Mai đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy Tro`

Lá Thư Thứ 6

thư thứ 6

 

Ngày…. thángnăm

 

Con thương mến,

 

Tối hôm qua mẹ con H.T. đem thư ảnh của con đến cho thầy. Đó thư thầy nhận được từ khi con đi. Dường như thư con không mất thư thầy viết cho con thì thất lạc hết rồi.

 

Ảnh chụp trông buồn quá, buồn cũng phải, nhưng con nhớ phảitùy sở trụ xứ thường an lạcmới được.

 

Ngày xưa, khi con chưa biết đạo, lẽ con đã nhập cuộc không một chút dặt. Nhưng ngày nay sau khi con biết đạo đã chuẩn bị cho mình một hàng rào đạo đức thì vẻ như con hơi lúng túng trước sự phức tạp của cuộc đời, phải thế không?

 

Con ạ, đó hai cực đoan người ta thường vấp phải khi đối diện với cuộc đời. Nếu con tùy thuộc không một chút tỉnh thức thì con bị cuốn trôi trong dòng thác của những ảo hóa trần gian. Nhưng nếu con quá cẩn thận e thì con se bị bỏ rơi bên bờ cuộc sống. Đáng thương thay cho những ai lặn hụp trong biển đời không tìm thấy đâu một phút giây tự tại. Cũng đáng thương thay cho những ai trang bị cho mình quá nhiều giá trị để chỉ đào thêm hố ngăn cách với cuộc đời.

 

Vậy phải làm sao? Không phải làm sao cả. Mọi vấn đề chỉ giải quyết ngay chính nơi con không cần thêm bớt nữa. Con không cần phải tập luyện yoga, thiền định hay thái cực quyền tới một mức thâm hậu nào mới khả đối phó với đời. Bao lâu con còn cầu viện tới một sở đắc nào, một điều kiện nào, một trang bị nào, một kiến thức nào, thì con vẫn còn hướng ngoại cầu huyền, hay ít ra con vẫn còn bị lệ bởi những triền phược do chính những sở đắc ấy tạo nên.

 

Con sẽ phải đối phó với đời bằng hai bàn tay trắng hay bằng những con đã sẵn thôi. lần thầy đã nói với con :

 

Học đạo quý tâm

Làm nghĩ nói không lầm

Sáng trong lặng lẽ

Giản dị mới uyên thâm

 

khí của con sự giản dị. Giản dị thì không vấn đề. Không vấn đề thì con sáng suốt, trong lành tĩnh lặng. như thế con mới hành động, nói năng, suy nghĩ thích ứng hồn nhiên.

 

Thăng-trầm, động-tịnh, khổ-vuiđều hồn nhiên trong sáng tức tự tại, tâm, giải đất bình an muôn đờinơi con.

 

Con thương mến,

 

Viết đến đây, thầy nhớ trong thư con nói: Trở về quê hương việc quá xa vời trở về quê hương của Phật còn gian khó vàn. Nhưng nếu con nhận ra rằng quê hương nào cũngchính nơi con thì lẽ con sẽ thốt lên câu: Nhiên khứ lai hề thiên thu giả mộng!” như trong bài thơ Lai Khứ của thầy vậy.

 

Chắc con đã lần đọc bài thơ Thiên để nguyệt của thầy không để ý. Nhân đây thầy chép lại dịch cho con nghe ý của bài thơ đó:

 

Viễn viễn phong đầu phi

Vong xứ điểu qui

Hốt phùng thiên để nguyệt

Qui , qui vi!

 

Hai câu đầu thầy tả một con chim mất xứ sở (vong xứ điểu) đang bay càng lúc càng xa (viễn viễn) trước ngọn gió cuốn đi định (phong đầu phi), chẳng biết nơi nào chốn quê nhà thì làm sao tìm đựơc lối về. Câu thứ ba đột biến của cuộc đời giữa khi con chim đơn mất hướng đang bay vào chân trời định, giữa lúc thuyền tâm lạc giữa trận tiền phong ba thì bỗng gặp một mảnh trăng vàng minh linh chiếu diệu, lồng lộng bên trời (hốt phùng thiên để nguyệt), thì ra:

Quê hương vẫn đây

Trăng vẫn mảnh trăng này

Ngàn sau ngàn sau nữa

Lồng lộng giữa trời mây.

 

câu thứ , từ khi con chim bỗng gặp Thiên để nguyệt thì không còn vấn đề đi hay về nữa. Đâu cũng quê hương, đâu cũng viễn xứ thì về đâu? Về làm (qui , qui vi!)?

 

Hốt phùng thiên để nguyệt một cách nói thi vị thay cho thuật ngữ hoát nhiên đại ngộ của nhà thiền. Cũng như ngộ, thiên để nguyệt không thể tìm thấybất cứ chân trời góc biển nào, chỉ tìm thấy ngay nơi chính mình, nơi vẫn muôn đời chiếu diệu.

 

Hễ ngay đây bây giờ con không vấn đề với thực tại hiện tiền tức con thấy tánh, hốt phùng thiên để nguyệt. Niết bàn không xa, chỉ tiếc con người cứ mãi cố gắng đi xa Niết-bàn. Quê hương của Phật nơi gần con nhất, sao con lại phải về đâu nữa để rồi tự thấy khó khăn trở ngại.

 

Khi Đức Phật dạy : Chớ buông lung trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy làm cho sung mãn huệ xả, hãy tu học tịch tịnh Ngài muốn dạy chúng ta không nên vọng động hướng ngoại cầu huyền, không nên tìm kiếm thêm bất cứ cái ngoài, chỉ nên thấy các pháp như thật (chân đế), không vấn đề (sung mãn huệ xả), tức nhiên tâm ta sẽ điềm đạm trong sáng (tu học tịch tịnh)

 

Nói thì rắc rối nhưng sự thật còn giản dị hơn nhiều, con phải tự chứng nghiệm sự thật giản dị ấy, thầy không cách nào nói nhiều hơn được.

 

Thầy ngừng bút chúc con tự tại ngại trong mọi hoàn cảnh.


Thầy.

 

 

Phật Tử Ngọc Mai đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy Tro`

-ooOoo-