www.dieuphap.com

 
Thư Thầy Tṛ
Lời Giới Thiệu
Lá thư thứ  1
Lá thư thứ  2
Lá thư thứ  3
Lá thư thứ  4
Lá thư thứ  5
Lá thư thứ  6
Lá thư thứ  7
Lá thư thứ  8
Lá thư thứ  9
Lá thư thứ  10
Lá thư thứ  11
Lá thư thứ  12
Lá thư thứ  13
Lá thư thứ  14
Lá thư thứ  15
Lá thư thứ  16
Lá thư thứ  17
Lá thư thứ  18
Lá thư thứ  19
Lá thư thứ  20
Lá thư thứ  21
Lá thư thứ  22
Lá thư thứ  23
Lá thư thứ  24
Lá thư thứ  25
Lá thư thứ  26
Lá thư thứ  27
Lá thư thứ  28
Lá thư thứ  29
Lá thư thứ  30
Lá thư thứ  31
Lá thư thứ  32
Lá thư thứ  33
Lá thư thứ  34
Lá thư thứ  35
Lá thư thứ  36
Lá thư thứ  37
Lá thư thứ  38
Lá thư thứ  39
Lá thư thứ  40
Lá thư thứ  41
Lá thư thứ  42
Lá thư thứ  43







Tuyển Tập Thư Thầy

Tỳ kheo Viên Minh



Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy

Lá Thư Thứ 41

Lá thư thứ  41

 

Ngày… tháng… năm…

 

T thân mến,

 

Những điều T băn khoăn về ư nghĩa của cuộc sống là vấn đề lớn của con người: ‘Ta có quyền tự do hành động hay chỉ là hành động theo một định mệnh đă an bài? Phải chăng thuận thiên lập mệnh là an phận để trả quả của nghiệp, hay phản kháng lại số mệnh cũng vẫn là nghiệp dĩ? Làm thế nào vượt lên và đâu là giải thoát?’

 

Định mệnh và tự do là một cặp mâu thuẫn khi ta chưa thấy rơ sự thật và khi vô minh dục vọng c̣n phân chia chúng thành hai đối cực phải loại trừ một. Đó chính là nhị nguyên, cái mà Đức Phật gọi là ‘Chẻ cái đầu ra làm hai’ (Muddham vipàtayam) tức là khởi trí phân biệt ưa-ghét, lấy-bỏ v.v… làm cho trí tuệ bị phân hóa.

 

Tất cả các pháp đều có đối cực, những đối cực ấy có thể sinh, khắc, hoán vị và biến đổi trong sự tương giao trùng trùng duyên khởi. V́ vậy lấy cái này bỏ cái kia là phân biệt, là nhị nguyên. Cầm lên một chiếc mể đay chúng ta chọn mặt đẹp, bỏ mặt xấu, nhưng thật ra khi lấy ta  phải lấy cả hai và khi bỏ cũng phải bỏ cả hai. Cũng như khi chúng ta mong muốn được ổn định, an toàn, hạnh phúc chúng ta vô t́nh mời gọi xáo trộn, bất an và đau khổ.

 

Định  mệnh phải chăng là đối nghịch với tự do? Và hành động theo ư muốn là đồng nghĩa với tự do? Nh́n kỹ ta thấy lắm lúc ngược lại. Người hành động chiều theo ư muốn của ḿnh thật ra đă bị ràng buộc trong chính ư muốn ấy, nên họ đă mất tự do ngay từ khởi điểm. Trái lại người từ bỏ tư dục và thuận theo sự sống chân thực, nghĩa là sống đúng quy luật tất nhiên của sự sống (thuận thiên) hay thuận pháp người ấy lại được hoàn toàn tự do.

 

Nếu định mệnh hiểu theo nghĩa một khuôn phép do ai đó áp đặt theo tư ư của họ, th́ đó chính là nghịch thiên hay phi pháp (trái với quy luật tự nhiên), định mệnh ấy tự nó sẽ bị đào thải.


Nhưng nếu định mệnh được hiểu như là quy luật tất yếu và tự nhiên của sự sống th́ thuận thiên hay thuận pháp chính là hành động của trí tuệ. V́ không có những quy luật tất yếu đó hoặc chống lại quy luật th́ sự sống liền trở nên bất an, xáo trộn và đau khổ.

 

Nhờ vận hành theo quy luật mà sự sống vốn rất trật tự, an toàn và hạnh phúc. Thấy và sống đúng quy luật ấy th́ không thể nào có xáo trộn, bất an và đau khổ được.

 

V́ không thấy và không sống đúng quy luật đích thực của sự sống nên chúng ta mới khởi tạo vọng nghiệp, bản ngă, luân hồi và đau khổ. Đói th́ ăn là quy luật của sự sống, nhưng tham ăn, giành ăn là vọng nghiệp và tất nhiên phải đưa đến kết quả bệnh khổ. Bởi vậy y học mới có nguyên tắc ‘thống tắc bất thông, thông tắc bất thống’. Thông tức là thuận quy luật vậy.

 

Khi con người muốn thoát khỏi quy luật v́ một ư muốn tự do nào đó th́ vọng nghiệp bắt đầu và đó là khởi điểm của sự trói buộc.  Cũng vậy, khi người ta tự đặt ra một chân lư lư tưởng rồi buộc ḿnh vào nỗ lực hành động để đạt đến lư tưởng đó th́ vô t́nh người ta bắt đầu những bước đi ra khỏi chân lư thực tại và dấn thân vào cơi luân hồi sinh tử.  Cuộc phiêu lưu mạo hiểm này được thực hiện bằng cái gọi là ư chí tự do của vọng nghiệp. Thế rồi khi bị chính nghiệp ấy trói buộc người ta cho rằng có một định mệnh áp đặt lên đời sống tự do của họ, và họ muốn thoát ra.

 

Nhưng ngay khi chúng ta nóng ḷng muốn thoát ra khỏi số mệnh ấy là chúng ta muốn tắt lửa mà lại thêm dầu, v́ ư muốn giải thoát này là tự thân của sự bất an. Người ta nói ma cao nhất  trượng chính v́ sự biến hóa muôn mặt của vô minh ái dục. Bất an là nó, muốn thoát khỏi bất an cũng  chính là nó.


Con người tự dựng lên một bản ngă để thực hiện ước vọng của vô minh, ái dục. Thế rồi cũng chính bản ngă ấy nhận lấy hậu quả mà nó tạo ra. Bấy giờ khi kết quả không như ư muốn, bản ngă đ̣i giải thoát ra khỏi t́nh trạng này và ngay khi đó tạo ra nhân khác và cứ thế chồng chất thêm những trói buộc mà nó muốn thoát khỏi.

 

Bản ngă muốn giải thoát, nhưng đó là giải thoát của bản ngă hay giải thoát chính bản ngă? Giải thoát của bản ngă là giải thoát ra khỏi cái mà bản ngă không thích để mong đạt đến cái sở thích, c̣n cái nó đang thích th́ chẳng bao giờ nó muốn giải thoát cả. Nhưng khi giữ lại cái ưa thích, bản ngă quên rằng chính cái nó thích tạo ra cái nó không thích. Nghĩa là trên thực tế bản ngă chỉ có hể chạy qua chạy lại trong sợi dây ràng buộc của chính ḿnh chứ chẳng bao giờ có sự giải thoát thật sự, bởi v́ bản ngă chính là trói buộc!

 

Bản ngă phát sinh cùng một lúc với số mệnh, bản ngă chính là số mệnh. Bản ngă muốn thoát ra khỏi số mệnh là một nghịch lư, trừ phi bản ngă tự hủy diệt ḿnh, Nhưng khổ thay chẳng bao giờ bản ngă có thể làm được điều đó, cũng như nó chẳng bao giờ có được tự do. Nó càng được tự do nó càng bị ràng buộc!

 

Có một anh sinh viên khi sống ở Việt Nam th́ muốn mau chóng rời khỏi Việt Nam để qua Mỹ. Nhưng khi qua Mỹ anh lại nói rằng bây giờ anh không được thanh thản như lúc c̣n ở Việt Nam. Đời sống ở Mỹ luôn luôn chạy đua với thời gian, mà để đuổi kịp thời gian th́ phải khẩn trương, không làm thế nào thanh thản được. Nhưng anh không biết rằng chính ư muốn được thanh thản đă làm cho anh mất hết thanh thản.


Thanh thản không phải là nhàn hạ nên không đối nghịch với khẩn trương, cũng không phải là phóng túng nên không phản lại nề nếp sinh hoạt có kỷ cương nhất định.


Chính sự lựa chọn của bản ngă giữa phóng túng và kỷ cương, giữa thanh nhàn và bận rộn, giữa khổ cực và sung sướng, giữa tự do và ràng buộc v.v… đă tạo ra mâu thuẫn, đấu tranh, phân vân, căng thẳng và dĩ nhiên thanh thản phải biến mất.


Thanh thản thật sự là có thể thanh thản cả trong ràng buộc lẫn tự do, trong thong thả hoặc cấp bách, trong lúc vui cùng khi khổ. V́ thanh thản đích thực th́ vượt ngoài điều kiện.

 

T. thân mến,

 

Tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác là con đường giác ngộ. Đạo Phật thường nói đến con đường, như con đường thanh tịnh, con đường chơn chánh, con đường giác ngộ, con đường giải thoát v.v… và v́ vậy Đạo Phật thường bị hiểu lầm.

 

Nói đến con đường người ta nghĩ ngay đến chỗ khởi điểm, chỗ chung cùng, nơi đi, nơi đến, cái lấy, cái bỏ… như đi từ tướng đến tánh, từ sinh tử đến Niết Bàn, từ vô thường, khổ năo, vô ngă, bất tịnh đến thường, lạc, ngă, tịnh v.v.. và họ tưởng tượng ra một con đường thật b́nh yên dẫn đến ‘Miền đất hứa’. Thế là người ta hy vọng từ bỏ được cảnh khổ này và hướng cầu đến một tương lai đầy lạc phúc. Đó thật ra vẫn là một thứ vô minh ái dục lớn nhất trong các vô minh ái dục.

 

Đức Phật chẳng bao giờ nói đến một con đường đi đến Niết bàn. Niết bàn không phải là một nơi chốn, nên không có khoảng cách để đi đến. Bát thánh đạo, tứ niệm xứ, thất giác chi v.v… không phải là con đường chiếm một thời gian, không gian nào đó để dẫn đến niết bàn. Mặt khác niết bàn không phải là một sự thành tựu hay một kết quả rốt ráo do điều kiện hội đủ một số pháp môn tu tập. Đạo đế đựơc mô tả là con đường chấm dứt nguyên nhân đau khổ (Dukkha samudaya nirodhammagga). Nguyên nhân đau khổ là vô minh ái dục. Khi vô minh ái dục (tham, sân, si) chấm dứt th́ bản ngă chấm dứt và toàn bộ khổ uẩn cùng với luân hồi, sinh tử, sầu-bi-khổ-ưu-năo đều chấm dứt. Chấm dứt là niết bàn v́ vậy được gọi là diệt đế (Nirodha sacca).

 

Bản ngă rất sợ sự chấm dứt, sự diệt tận, sự đoạn trừ, sự xả ly này cho nên nó vội vàng tô điểm cho niết bàn những ư niệm thường hằng, vĩnh cửu, cực lạc, chơn ngă v.v… nhưng tất cả ư niệm đó đều là sản phẩm của vô minh ái dục.

 

Có thể chứng ngộ niết bàn (Nibbàna Sacchikiriyà) chứ không thể đi đến niết bàn v́ niết bàn không có đến và đi. Nhưng tham, sân, si chấm dứt th́ sự sống cũng đựơc mở bày. Niết bàn không phải là cái ǵ xa lạ, để ta phải hướng vọng về phía trước, mà chính là ở ngay nơi chỗ hồi đầu.

 

Đức Phật day: ‘V́ thắng tri niết bàn là niết bàn, Như Lai không nghĩ đến niết bàn, không nghĩ đến tự ngă đối chiếu với niết bàn, không nghĩ đến tự ngă như là niết bàn, không nghĩ đến niết bàn là của ta, không dục hỷ niết bàn. V́ sao vậy? V́ Như Lai biết rằng dục hỷ là căn bản của khổ đau, từ hữu,  sanh khởi lên, và già chết đến với loài hữu t́nh. Do vậy ta nói Như Lai với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ  bỏ hoàn toàn các ái đă chơn chánh giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác.’

 

Con đường là con đường giác ngộ giải thoát, là chấm dứt mọi nguyên nhân đau khổ. Con đường ấy được Đức Phật giới thiệu với 37 đạo phẩm. Tất cả các pháp môn phương tiện vận dụng về sau đều phát xuất từ đó. Có thể tóm lại trong giới, định, tuệ hay tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Nói cho dễ hiểu là sáng suốt, định tĩnh, trong lành nơi chính thực tại hiện tiền (Sanditthiko dhammo) tức là sự tỉnh thức nơi chính sự sống đang là. Ngay khi đó bản ngă với toàn bộ sự lăng xăng của nó đều chấn dứt: niết bàn.

 

T thân mến,

 

Đừng nói đến an phận hay phản kháng, hăy im lặng lắng nghe hay chú tâm nh́n thẳng vào sự sống đang là. Đó mới chính là tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Đói bụng hăy im lặng tỉnh giác đi nấu cơm, đừng quan tâm đến số mệnh hay tự do, việc đó hăy nhường cho các triết gia, các nhà tư tưởng và những người suy tư mơ mộng.

 

Chào T nhé!

 

Thầy

-ooOoo-