Tuyển Tập Thư Thầy
Tỳ kheo Viên Minh
Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy
Lá Thư Thứ 41
Lá
thư thứ 41
Ngày…
tháng… năm…
T
thân mến,
Những
điều T băn khoăn về ư nghĩa của cuộc
sống là vấn đề lớn của con người:
‘Ta có quyền tự do hành động hay chỉ là hành
động theo một định mệnh đă an bài? Phải
chăng thuận thiên lập mệnh là an phận
để trả quả của nghiệp, hay phản kháng
lại số mệnh cũng vẫn là nghiệp dĩ? Làm
thế nào vượt lên và đâu là giải thoát?’
Định
mệnh và tự do là một cặp mâu thuẫn khi ta
chưa thấy rơ sự thật và khi vô minh dục vọng
c̣n phân chia chúng thành hai đối cực phải loại trừ
một. Đó chính là nhị nguyên, cái mà Đức Phật
gọi là ‘Chẻ cái đầu ra làm hai’ (Muddham
vipàtayam) tức là khởi trí phân biệt ưa-ghét, lấy-bỏ
v.v… làm cho trí tuệ bị phân hóa.
Tất
cả các pháp đều có đối cực, những
đối cực ấy có thể sinh, khắc, hoán vị
và biến đổi trong sự tương giao trùng trùng
duyên khởi. V́ vậy lấy cái này bỏ cái kia là phân biệt,
là nhị nguyên. Cầm lên một chiếc mể đay
chúng ta chọn mặt đẹp, bỏ mặt xấu,
nhưng thật ra khi lấy ta
phải lấy cả hai và khi bỏ cũng phải bỏ
cả hai. Cũng như khi chúng ta mong muốn được
ổn định, an toàn, hạnh phúc chúng ta vô t́nh mời gọi
xáo trộn, bất an và đau khổ.
Định mệnh phải chăng là đối
nghịch với tự do? Và hành động theo ư muốn
là đồng nghĩa với tự do? Nh́n kỹ ta thấy
lắm lúc ngược lại. Người hành động
chiều theo ư muốn của ḿnh thật ra đă bị
ràng buộc trong chính ư muốn ấy, nên họ đă mất
tự do ngay từ khởi điểm. Trái lại người
từ bỏ tư dục và thuận theo sự sống
chân thực, nghĩa là sống đúng quy luật tất
nhiên của sự sống (thuận thiên) hay thuận pháp
người ấy lại được hoàn toàn tự do.
Nếu
định mệnh hiểu theo nghĩa một khuôn phép do
ai đó áp đặt theo tư ư của họ, th́ đó
chính là nghịch thiên hay phi pháp (trái với quy luật tự
nhiên), định mệnh ấy tự nó sẽ bị
đào thải.
Nhưng nếu định mệnh được hiểu
như là quy luật tất yếu và tự nhiên của sự
sống th́ thuận thiên hay thuận pháp chính là hành động
của trí tuệ. V́ không có những quy luật tất yếu
đó hoặc chống lại quy luật th́ sự sống
liền trở nên bất an, xáo trộn và đau khổ.
Nhờ
vận hành theo quy luật mà sự sống vốn rất
trật tự, an toàn và hạnh phúc. Thấy và sống
đúng quy luật ấy th́ không thể nào có xáo trộn, bất
an và đau khổ được.
V́
không thấy và không sống đúng quy luật đích thực
của sự sống nên chúng ta mới khởi tạo vọng
nghiệp, bản ngă, luân hồi và đau khổ. Đói th́
ăn là quy luật của sự sống, nhưng tham
ăn, giành ăn là vọng nghiệp và tất nhiên phải
đưa đến kết quả bệnh khổ. Bởi
vậy y học mới có nguyên tắc ‘thống tắc bất
thông, thông tắc bất thống’. Thông tức là thuận
quy luật vậy.
Khi
con người muốn thoát khỏi quy luật v́ một ư
muốn tự do nào đó th́ vọng nghiệp bắt đầu
và đó là khởi điểm của sự trói buộc. Cũng vậy, khi người ta
tự đặt ra một chân lư lư tưởng rồi buộc
ḿnh vào nỗ lực hành động để đạt
đến lư tưởng đó th́ vô t́nh người ta bắt
đầu những bước đi ra khỏi chân lư thực
tại và dấn thân vào cơi luân hồi sinh tử. Cuộc phiêu lưu mạo hiểm
này được thực hiện bằng cái gọi là ư
chí tự do của vọng nghiệp. Thế rồi khi bị
chính nghiệp ấy trói buộc người ta cho rằng
có một định mệnh áp đặt lên đời sống
tự do của họ, và họ muốn thoát ra.
Nhưng
ngay khi chúng ta nóng ḷng muốn thoát ra khỏi số mệnh ấy
là chúng ta muốn tắt lửa mà lại thêm dầu, v́ ư muốn
giải thoát này là tự thân của sự bất an. Người
ta nói ma cao nhất trượng
chính v́ sự biến hóa muôn mặt của vô minh ái dục.
Bất an là nó, muốn thoát khỏi bất an cũng chính là nó.
Con người tự dựng lên một bản ngă để
thực hiện ước vọng của vô minh, ái dục.
Thế rồi cũng chính bản ngă ấy nhận lấy
hậu quả mà nó tạo ra. Bấy giờ khi kết quả
không như ư muốn, bản ngă đ̣i giải thoát ra khỏi
t́nh trạng này và ngay khi đó tạo ra nhân khác và cứ thế
chồng chất thêm những trói buộc mà nó muốn thoát
khỏi.
Bản
ngă muốn giải thoát, nhưng đó là giải thoát của
bản ngă hay giải thoát chính bản ngă? Giải thoát của
bản ngă là giải thoát ra khỏi cái mà bản ngă không
thích để mong đạt đến cái sở thích, c̣n
cái nó đang thích th́ chẳng bao giờ nó muốn giải
thoát cả. Nhưng khi giữ lại cái ưa thích, bản
ngă quên rằng chính cái nó thích tạo ra cái nó không thích. Nghĩa
là trên thực tế bản ngă chỉ có hể chạy qua
chạy lại trong sợi dây ràng buộc của chính ḿnh
chứ chẳng bao giờ có sự giải thoát thật sự,
bởi v́ bản ngă chính là trói buộc!
Bản
ngă phát sinh cùng một lúc với số mệnh, bản ngă
chính là số mệnh. Bản ngă muốn thoát ra khỏi số
mệnh là một nghịch lư, trừ phi bản ngă tự hủy
diệt ḿnh, Nhưng khổ thay chẳng bao giờ bản
ngă có thể làm được điều đó, cũng
như nó chẳng bao giờ có được tự do. Nó
càng được tự do nó càng bị ràng buộc!
Có
một anh sinh viên khi sống ở Việt Nam th́ muốn
mau chóng rời khỏi Việt Nam để qua Mỹ.
Nhưng khi qua Mỹ anh lại nói rằng bây giờ anh
không được thanh thản như lúc c̣n ở Việt
Nam. Đời sống ở Mỹ luôn luôn chạy đua với
thời gian, mà để đuổi kịp thời gian th́
phải khẩn trương, không làm thế nào thanh thản
được. Nhưng anh không biết rằng chính ư muốn
được thanh thản đă làm cho anh mất hết
thanh thản.
Thanh thản không phải là nhàn hạ nên không đối nghịch
với khẩn trương, cũng không phải là phóng túng
nên không phản lại nề nếp sinh hoạt có kỷ
cương nhất định.
Chính sự lựa chọn của bản ngă giữa phóng
túng và kỷ cương, giữa thanh nhàn và bận rộn,
giữa khổ cực và sung sướng, giữa tự do
và ràng buộc v.v… đă tạo ra mâu thuẫn, đấu
tranh, phân vân, căng thẳng và dĩ nhiên thanh thản phải
biến mất.
Thanh thản thật sự là có thể thanh thản cả
trong ràng buộc lẫn tự do, trong thong thả hoặc cấp
bách, trong lúc vui cùng khi khổ. V́ thanh thản đích thực
th́ vượt ngoài điều kiện.
T.
thân mến,
Tinh
tấn, chánh niệm, tỉnh giác là con đường giác
ngộ. Đạo Phật thường nói đến con
đường, như con đường thanh tịnh, con
đường chơn chánh, con đường giác ngộ,
con đường giải thoát v.v… và v́ vậy Đạo
Phật thường bị hiểu lầm.
Nói
đến con đường người ta nghĩ ngay
đến chỗ khởi điểm, chỗ chung cùng,
nơi đi, nơi đến, cái lấy, cái bỏ…
như đi từ tướng đến tánh, từ sinh tử
đến Niết Bàn, từ vô thường, khổ năo, vô
ngă, bất tịnh đến thường, lạc, ngă, tịnh
v.v.. và họ tưởng tượng ra một con
đường thật b́nh yên dẫn đến ‘Miền
đất hứa’. Thế là người ta hy vọng từ
bỏ được cảnh khổ này và hướng cầu
đến một tương lai đầy lạc phúc.
Đó thật ra vẫn là một thứ vô minh ái dục lớn
nhất trong các vô minh ái dục.
Đức
Phật chẳng bao giờ nói đến một con
đường đi đến Niết bàn. Niết bàn
không phải là một nơi chốn, nên không có khoảng
cách để đi đến. Bát thánh đạo, tứ
niệm xứ, thất giác chi v.v… không phải là con
đường chiếm một thời gian, không gian nào
đó để dẫn đến niết bàn. Mặt
khác niết bàn không phải là một sự thành tựu
hay một kết quả rốt ráo do điều kiện hội
đủ một số pháp môn tu tập. Đạo
đế đựơc mô tả là con đường
chấm dứt nguyên nhân đau khổ (Dukkha samudaya
nirodhammagga). Nguyên nhân đau khổ là vô minh ái dục. Khi vô
minh ái dục (tham, sân, si) chấm dứt th́ bản ngă chấm
dứt và toàn bộ khổ uẩn cùng với luân hồi,
sinh tử, sầu-bi-khổ-ưu-năo đều chấm dứt.
Chấm dứt là niết bàn v́ vậy được gọi
là diệt đế (Nirodha sacca).
Bản
ngă rất sợ sự chấm dứt, sự diệt tận,
sự đoạn trừ, sự xả ly này cho nên nó vội
vàng tô điểm cho niết bàn những ư niệm thường
hằng, vĩnh cửu, cực lạc, chơn ngă v.v…
nhưng tất cả ư niệm đó đều là sản phẩm
của vô minh ái dục.
Có
thể chứng ngộ niết bàn (Nibbàna Sacchikiriyà) chứ
không thể đi đến niết bàn v́ niết bàn không
có đến và đi. Nhưng tham, sân, si chấm dứt th́
sự sống cũng đựơc mở bày. Niết bàn
không phải là cái ǵ xa lạ, để ta phải hướng
vọng về phía trước, mà chính là ở ngay nơi chỗ
hồi đầu.
Đức
Phật day: ‘V́ thắng tri niết bàn là niết bàn,
Như Lai không nghĩ đến niết bàn, không nghĩ
đến tự ngă đối chiếu với niết
bàn, không nghĩ đến tự ngă như là niết bàn,
không nghĩ đến niết bàn là của ta, không dục
hỷ niết bàn. V́ sao vậy? V́ Như Lai biết rằng
dục hỷ là căn bản của khổ đau, từ
hữu, sanh khởi lên, và già
chết đến với loài hữu t́nh. Do vậy ta nói
Như Lai với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự
ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái đă chơn
chánh giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác.’
Con
đường là con đường giác ngộ giải
thoát, là chấm dứt mọi nguyên nhân đau khổ. Con
đường ấy được Đức Phật
giới thiệu với 37 đạo phẩm. Tất cả
các pháp môn phương tiện vận dụng về sau
đều phát xuất từ đó. Có thể tóm lại
trong giới, định, tuệ hay tinh tấn,
chánh niệm, tỉnh giác. Nói cho dễ hiểu là sáng suốt,
định tĩnh, trong lành nơi chính thực tại hiện
tiền (Sanditthiko dhammo) tức là sự tỉnh thức
nơi chính sự sống đang là. Ngay khi đó bản
ngă với toàn bộ sự lăng xăng của nó đều
chấn dứt: niết bàn.
T
thân mến,
Đừng
nói đến an phận hay phản kháng, hăy im lặng lắng
nghe hay chú tâm nh́n thẳng vào sự sống đang là. Đó
mới chính là tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Đói
bụng hăy im lặng tỉnh giác đi nấu cơm, đừng
quan tâm đến số mệnh hay tự do, việc đó
hăy nhường cho các triết gia, các nhà tư tưởng
và những người suy tư mơ mộng.
Chào
T nhé!
Thầy
-ooOoo-