www.dieuphap.com

 
Thư Thầy Tṛ
Lời Giới Thiệu
Lá thư thứ  1
Lá thư thứ  2
Lá thư thứ  3
Lá thư thứ  4
Lá thư thứ  5
Lá thư thứ  6
Lá thư thứ  7
Lá thư thứ  8
Lá thư thứ  9
Lá thư thứ  10
Lá thư thứ  11
Lá thư thứ  12
Lá thư thứ  13
Lá thư thứ  14
Lá thư thứ  15
Lá thư thứ  16
Lá thư thứ  17
Lá thư thứ  18
Lá thư thứ  19
Lá thư thứ  20
Lá thư thứ  21
Lá thư thứ  22
Lá thư thứ  23
Lá thư thứ  24
Lá thư thứ  25
Lá thư thứ  26
Lá thư thứ  27
Lá thư thứ  28
Lá thư thứ  29
Lá thư thứ  30
Lá thư thứ  31
Lá thư thứ  32
Lá thư thứ  33
Lá thư thứ  34
Lá thư thứ  35
Lá thư thứ  36
Lá thư thứ  37
Lá thư thứ  38
Lá thư thứ  39
Lá thư thứ  40
Lá thư thứ  41
Lá thư thứ  42
Lá thư thứ  43







Tuyển Tập Thư Thầy

Tỳ kheo Viên Minh



Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy

Lá Thư Thứ 34

thư thứ 34

 

Ngày… tháng… năm…

 

Con thương mến,

 

Thầy đă nhận được thư và ảnh của con chụp lúc con đang sinh hoạt tại thiền đường PZC phái Lâm Tế của một thiền sư người Đại Hàn. Thầy sắp đi Huế, sẽ đem thư và ảnh cho các sư thúc cùng xem.

 

Trong h́nh tuớng xuất gia con có vẻ chững chạc lắm, nhưng tính con th́ ưa phóng khoáng tự nhiên mà sinh hoạt thiền đường đó th́ có vẻ nghiêm túc và bài bản quá như vậy, không biết con có chịu được lâu không?

 

Con hỏi sau này thầy có viết ǵ thêm không và trong thời gian con xa quê hương, ở nhà thầy hướng dẫn Phật tử tu tập có ǵ mới mẻ không?

 

Về viết lách th́ thầy chỉ thỉnh thoảng viết VI TIẾU để tiêu khiển, và khi nào có thư th́ trả lời cho phật tử vậy thôi chứ chưa viết chuyên đề ǵ cả. Các sư thúc con có đề nghị thầy ghi lại thành sách những khóa giảng giáo lư tinh yếu ở Huyền Không, Bửu Long, Phật Bảo v.v… Để thầy xét lại xem.

 

C̣n về việc hướng dẫn phật tử th́ v́ phần đông không kham nổi tinh thần sống đạo một cách uyển chuyện tự nhiên và sáng tạo trong tự giác kiểu ‘vô môn’ như hồi con c̣n ở nhà, nên thầy đă tùy căn cơ của những phật tử mà chia quá tŕnh tu tập thành nhiều giai đoạn từ dễ đến khó, từ thấp đến cao khác nhau, để thầy dễ hướng dẫn mà phật tử cũng dễ thực hành.

 

Con đă biết, chung qui tất cả các phái thiền Phật giáo từ Nguyên Thủy đến Tiểu thừa, Đại thừa, Kim Cang thừa và Thiền tông đều lấy chánh niệm tỉnh giác làm yếu tố cơ bản, chỉ khác nhau ở cách vận dụng mà thôi. Nói như vậy có nghĩa là chánh niệm tỉnh giác có nhiều mức độ khác nhau tùy theo tŕnh độ của mỗi người.

 

Theo thiền tuệ quán Vipassanà Nguyên Thủy của Đức Phật th́ đối tượng của chánh niệm tỉnh giác phải là pháp có yếu tính là đệ nhất nghĩa đế (paramattha), thực tại hiện tiền (sanditthiko), phi thời gian (akàliko), hồi chiếu (ehipassiko), hướng nội (opanayiko), tự chứng (paccattam veditabbo) v.v….do đó, nh́n chung, phật tử ngày nay ít ai trực tiếp đi vào tuệ quán ngay được.

 

Như vậy cần phải có những giai đoạn chuẩn bị cho những phật tử chưa đạt tiêu chuẩn chánh niệm tỉnh giác, chưa có thể đi thẳng vào tuệ quán Vipassanà, như sau:

 

1. Giai đoạn nhất niệm.

 

- Nếu con là người thuộc căn cơ đức tin th́ con có thể niệm Phật. Ngày đêm giữ một câu niệm Phật cho đến khi các tạp niệm lắng dịu, ổn định và đưa đến nhất tâm bất loạn.

 

Đối với đức tin hướng về tự lực, như phần đông phật tử Nguyên Thủy th́ họ thường niệm một trong 10 ân đức Phật tính, điển h́nh như niệm: Araham (Arahatta) là bản lai thanh tịnh, Buddho (Buddhatà) là tính giác v.v…

 

Đối với đức tin hướng về tha lực, như phật tử Tịnh Độ tông th́ họ thường niệm danh hiệu A-di-đà-Phật, hay danh hiệu các Bồ Tát mà họ tin tưởng.

 

Đối với đức tin hướng về thần lực huyền bí, như phật tử Mật tông th́ học thường hành tŕ một câu chú.

 

Đối với đức tin hướng về bản thể tự tánh, như phật tử Thiền tông th́ học thường tham một công án hay một thoại đầu.

 

- Nếu con là người có căn cơ về thiền định th́ con có thể dùng một đề mục thiền định, như hơi thở chẳng hạn, để nhiếp phục tâm.

 

Mục đích của giai đoạn này là giúp tâm vượt qua các tạp niệm và phát triển khả năng chú tâm, một yếu tố cần thiết trong chánh niệm tỉnh giác.

 

2. Giai đoạn tánh niệm.

 

Trong các pháp môn phương tiện như niệm Phật, tŕ chú, tham công án, thiền định v.v… hành giả có thể bớt được tâm tán loạn nhưng cũng nhiều người lại bị kẹt vào ngay nơi phương tiện của ḿnh và trở thành bệnh bị ám ảnh bởi chính câu niệm Phật, câu thần chú v.v… không sao bỏ đi được. V́ vậy khi nào thầy tâm đă ổn định th́ phải bỏ phương tiện (hồng danh, thần chú v.v…) rồi soi chiếu lại tự tâm để nhận ra tánh sáng suốt, định tĩnh, trong lành tự nhiên của nó. Đó chính là giai đoạn thấy ra yếu tính của bản lai thanh tịnh hay tính giác sẵn có nơi mỗi người.

 

3. Giai đoạn danh tướng niệm

 

Nếu nhận ra được tính giác hay bản lai thanh tịnh mà không biết sử dụng th́ vẫn bị kẹt vào thể tánh, không phát huy được tướng dụng để phá vỡ khối tập nhiễm sâu dày của bản ngă sinh tử luân hồi. Cho nên ngài Huệ Khả sau khi ngộ tánh nơi Tổ Đạt Ma đă trở về ngày đêm mỗi mỗi tự biết ḿnh. Thể tánh của tính giác là tịch tịnh (sant́), tướng dụng của tính giác là soi chiếu (Jhàna, jhàyati). V́ vậy phải đem tính giác soi chiếu lại toàn bộ thân tâm trong quan hệ với thế giới trong ngoài. Trong thiền Tứ Niệm Xứ, tính giác tịch và chiếu được hóa thân thành chánh niệm tỉnh giác, và thế giới quan hêt trong ngoài của toàn bộ thân tâm chính là thân, thọ, tâm, pháp. Đây không c̣n là phương tiện tham công án để hy vọng thấy tánh, mà chính là sự dụng ngay tính giác soi chiếu để thâm nhập vào thực tại hiện tiền, xuyên phá mọi vọng tưởng ảo giác của vô minh ái dục để đương xứ hiện rơ bổn nguyên chân như thực tánh (Yathàbhùtà sabbhàva) của pháp.

 

Tuy nhiên nếu chưa phải là căn cơ bậc thượng, th́ tạm thời tập ghi nhận danh tướng của thực tại thân, thọ, tâm, pháp trước đă. V́ vậy trong giai đoạn này hành giả chỉ cần khi đang đi niệm là đi… đi…, khi đang đứng niệm đứng… đứng…, khi có cảm giác dễ chịu hay khó chịu niệm là thọ… thọ…, khi có tâm bứt rứt bực bội niệm là sân… sân… v.v…

 

Tâm thường dễ rơi vào hai trạng thái đối nghịch: hoặc là quá ức chế thụ động, hoặc là quá hưng phấn giao động, do đó không được sâu sắc vi tế, vậy muốn làm quen với công việc soi chiếu minh bạch (vipassanà), chánh niệm tỉnh giác phải tạm mượn đối tượng danh tướng để tự phát huy khả năng tịch và chiếu cho đến khi thật vững chăi tự nhiên.

 

Phái thiền Vipassanà của Ngài Mahasi Sayadaw người Myanmar dạy hành giả niệm phồng à… xẹp à… khi quán niệm hơi thở chẳng hạn, chính là vận dụng Danh Tướng Niệm như một giai đoạn chuyển tiếp để chuẩn bị cho tâm có đủ chánh niệm tỉnh giác khả dĩ thâm nhập thực tại như thị của đệ nhất nghĩa đế.

 

Như vậy 3 giai đoạn trên chỉ là dự bị cho hành giả trước khi vào thiền Vipassanà, chúng ta tạm gọi là ‘giai đoạn tiền Vipassanà’. Khi nào hành tướng của hầu hết thân, thọ, tâm, pháp đều được gọi đúng tên ngay khi nó diễn ra, không trước không sau, th́ hành giả bắt đầu có khả năng đi thẳng vào thiền Vipassanà như giai đoạn sau đây:

 

4. Giai đoạn thực tướng niệm.

 

Đây là giai đoạn thiền Vipassanà thực thụ. Ở đây hành giả không cần gọi tên sự kiện như giai đoạn trước mà chỉ soi chiếu vào chính sự sự diễn biến của sự kiện mà thôi. Như khi đi chỉ cần chú tâm tỉnh thức trên mọi biến chuyển của cử động đi, khi ngồi chỉ lặng lẽ soi chiếu toàn bộ tư thế ngồi cùng với những hiện tượng động tĩnh, sinh diệt, thô tế đang diễn ra nơi thân. Khi có một cảm giác chỉ lắng nghe trọn vẹn diễn tŕnh sinh diệt của cảm thọ ấy. Khi một tư tưởng khởi lên thấy rơ tâm đang sinh khởi, khi tư tưởng ấy chấm dứt thấy rơ tâm đang diệt. Khi tâm tịch tịnh vô sinh biết rơ tâm tịch tịnh vô sinh v.v…

 

Con có để ư là những cụm từ thầy vừa dùng trên như chú tâm tỉnh thức, lặng lẽ chiếu soi, lắng nghe trọn vẹn, thấy rơ, biết rơ, liễu tri, tịch chiếu, quán chiếu, chiếu kiến v.v . đều đồng nghĩa với chánh niệm tỉnh giác không? Tên gọi không quan trọng mà chính yếu là con cần phải thể nghiệm thực chất nội dung của nó sao cho vừa đủ để thấy đúng thực tướng của quán xứ là được.

 

Nói là thực tướng niệm, thật ra trong giai đoạn này thực tại tự diễn bày đầy đủ tánh tướng thể dụng v.v…. một cách toàn diện như thị như thực dưới cái nh́n trí tuệ soi chiếu minh bạch (Vipassanà-nàna) chứ không phải chỉ thực tướng mà thôi.

 

Đến đây, khi hội đủ nhân duyên thích hợp tâm trí sẽ tự bừng nở những đóa hoa tuệ giác vô cùng vi diệu mà thuật ngữ thiền Vipassanà gọi là 16 tuệ giác. Đức Phật đă mô tả tŕnh tự 16 tuệ giác này mà không giảng giải chi tiết v́ Ngài muốn để cho hành giả tự ḿnh chứng nghiệm và liễu giải. Về sau các nhà chú giải và các vị thiền sư cũng có giảng rơ, nhưng theo thầy, tốt hơn là để mỗi người tự chứng sự nhiệm mầu của pháp vị mới hứng thú, phải không con?

 

Thầy cũng xin lưu ư con mấy điểm quan trọng là mặc dù chánh niệm tỉnh giác chính là hai yếu tố tích và chiếu của tính giác, nhưng tịch chiếu trong thiền Vipassanà Nguyên Thuỷ của Đức Phật (Như Lai Thiền) không hoàn toàn giống với pháp môn tịch chiếu trong phái Tào Động của Thiền Tông (Tổ Sư Thiền). Nói đúng ra, giống hay không là tùy hành giả. Nếu hành giả tịch chiếu theo phái Tào Động nhưng lại đúng với Vipassanà như thầy vừa nói trong giai đoạn 4 th́ chẳng có ǵ khác nhau, nhưng nếu tịch chiếu chỉ là trụ tâm quán tịnh th́ dù có đúng hướng cũng chỉ tương đương với giai đoạn 1 và 2 tiền Vipassanà mà thôi. C̣n nếu không đúng hướng th́ chỉ là ‘bệnh chứ chẳng phải thiền’ như Ngài Huệ Năng quở trách Chí Thành vậy.

 

Mặt khác, nhiều người ngộ nhận chữ quán trong thiền tụê quán Tứ Niệm Xứ là quán tưởng, nên khi định nghĩa thiền Tứ Niệm Xứ họ đơn giản cho đó chỉ là quán tưởng thân là bất tịnh, quán tưởng thọ là khổ, quán tưởng tâm là vô thường và quán tưởng pháp là vô ngă, như một công thức tiêu chuẩn để dễ bề suy tưởng.

 

Nhưng như thầy đă tŕnh bày ở trên, điều kiện tất yếu của chánh niệm tỉnh giác trong thiền tuệ quán Vipassanà là vắng bặt mọi ư niệm, suy nghĩ, tư lường, tưởng tượng v.v… hay nói một cách khác là ‘ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành ư diệt’, nghĩa là hoàn toàn vắng bóng thế giới khái niệm (pannatti) để bầu trời tâm trong sáng và mặt trời tuệ chiếu soi, như tấm gương trung thực phản ánh thực tánh đệ nhất nghĩa đế (paramattha) của pháp giới hiện tiền. Cho nên mọi h́nh thức sản phẩm của tưởng như tự kỷ ám thị chẳng hạn đều nằm ngoài tuệ quán Vipassanà.

 

Một điểm quan trọng nữa là ở giai đoạn 4 thực thụ Vipassanà này người ta có thể hành một cách tự nhiên hoặc theo bài bản qui định đều được và đều có kết quả giống nhau như một vài trung tâm thiền đă thí nghiệm. Họ chia hành giả thành 2 nhóm, để hành giả tự do lựa chọn theo sở thích của ḿnh, một nhóm hành theo giờ giấc và cách thức qui định nghiêm nhặt, c̣n nhóm kia th́ sau khi nắm vững yếu tính của thiền họ tự vận dụng lấy tùy theo điều kiện riêng của ḿnh. Kết quả được trắc nghiệm là hai bên đều tiến triển như nhau, kể cả trường hợp áp dụng thiền để chữa bệnh ở một vài trung tâm y khoa ở Mỹ, Pháp v.v…

 

Đến đây hành giả bước vào một chân trời hoàn toàn mới mẻ nhưng lại hiện đúng bản nguyên, như một người nằm mơ chợt tỉnh, mới mẻ, nghĩa là không c̣n chiêm bao, mà là hoàn lại con người thực đầy đủ bộ mặt xưa này của ḿnh, đó chính là giai đoạn thứ 5 trên hành tŕnh tuệ quán.

 

5. Giai đoạn bất động niệm

 

Khi những đóa hoa tuệ giác bừng nở, như những hoa sen ra khỏi bùn nhơ nước đục, bừng nở dưới ánh nắng mai giữa bầu trời cao rộng, th́ hành giả cũng ung dung tự tại giữa cuộc đời phiền năo. Chính v́ tự ḿnh thoát ly phiền năo, nên dù cuộc đời có phiền năo bao nhiêu th́ tâm thiền vẫn an nhiên bất động. Lúc đó chánh niệm tỉnh giác không cần đến một nỗ lực cố gắng nào mà vẫn tịch tịnh soi chiếu một cách hồn nhiên trọn vẹn. Và chỉ đến lúc đó hành giả mới có thể làm công việc giác tha một cách hoàn toàn vô ngă.

 

Con thương mến,

 

Nhân con hỏi sinh hoạt thiền của thầy ở quê này, thầy tŕnh bày đại khái vài nét như vậy, hy vọng rằng những nét cương yếu ấy có thể giúp con soi sáng thêm chương tŕnh hành thiền: tụng kinh, tụng chú, lạy hồng danh, tọa thiền, qua đường và hỏi đáp cơ phong do thiền sư Seung Sahn hướng dẫn tại thiền đường PZC mà con đă kể cho thầy nghe trong thư trước.

 

Chúc con mạnh khoẻ và hưởng được thiền vị trong đời sống của một người tăng sĩ.

 

Thầy

 

-ooOoo-