Tuyển Tập Thư Thầy
Tỳ kheo Viên Minh
Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy
Lá Thư Thứ 34
Lá
thư thứ 34
Ngày…
tháng… năm…
Con
thương mến,
Thầy
đă nhận được thư và ảnh của con chụp
lúc con đang sinh hoạt tại thiền đường
PZC phái Lâm Tế của một thiền sư người
Đại Hàn. Thầy sắp đi Huế, sẽ đem thư và ảnh cho các sư thúc cùng xem.
Trong h́nh tuớng xuất gia con có vẻ
chững chạc lắm, nhưng tính con th́ ưa phóng khoáng
tự nhiên mà sinh hoạt thiền đường đó th́
có vẻ nghiêm túc và bài bản quá như vậy, không biết
con có chịu được lâu không?
Con hỏi sau này thầy có viết ǵ thêm
không và trong thời gian con xa quê hương, ở nhà thầy
hướng dẫn Phật tử tu tập có ǵ mới mẻ
không?
Về
viết lách th́ thầy chỉ thỉnh thoảng viết VI
TIẾU để tiêu khiển, và khi nào có thư
th́ trả lời cho phật tử vậy thôi chứ
chưa viết chuyên đề ǵ cả. Các sư thúc con có
đề nghị thầy ghi lại thành sách những khóa
giảng giáo lư tinh yếu ở Huyền Không, Bửu Long,
Phật Bảo v.v… Để thầy xét lại
xem.
C̣n
về việc hướng dẫn phật tử th́ v́ phần
đông không kham nổi tinh thần sống đạo một
cách uyển chuyện tự nhiên và sáng tạo trong tự
giác kiểu ‘vô môn’ như hồi con c̣n ở nhà, nên thầy
đă tùy căn cơ của những phật tử mà chia quá tŕnh tu tập thành nhiều
giai đoạn từ dễ đến khó, từ thấp
đến cao khác nhau, để thầy dễ hướng
dẫn mà phật tử cũng dễ thực hành.
Con
đă biết, chung qui tất cả các
phái thiền Phật giáo từ Nguyên Thủy đến Tiểu
thừa, Đại thừa, Kim Cang thừa và Thiền tông
đều lấy chánh niệm tỉnh giác làm yếu tố
cơ bản, chỉ khác nhau ở cách vận dụng mà
thôi. Nói như vậy có nghĩa là chánh niệm tỉnh giác
có nhiều mức độ khác nhau tùy theo
tŕnh độ của mỗi người.
Theo
thiền tuệ quán Vipassanà Nguyên Thủy của Đức
Phật th́ đối tượng của chánh niệm tỉnh
giác phải là pháp có yếu tính là đệ nhất nghĩa
đế (paramattha), thực tại hiện tiền
(sanditthiko), phi thời gian (akàliko), hồi chiếu
(ehipassiko), hướng nội (opanayiko), tự chứng
(paccattam veditabbo) v.v….do đó, nh́n chung, phật tử ngày nay
ít ai trực tiếp đi vào tuệ quán ngay được.
Như
vậy cần phải có những giai đoạn chuẩn
bị cho những phật tử chưa đạt tiêu chuẩn
chánh niệm tỉnh giác, chưa có thể đi thẳng
vào tuệ quán Vipassanà, như sau:
1. Giai đoạn nhất niệm.
-
Nếu con là người thuộc căn cơ đức
tin th́ con có thể niệm Phật. Ngày đêm giữ một
câu niệm Phật cho đến khi các tạp niệm lắng
dịu, ổn định và đưa đến nhất
tâm bất loạn.
Đối
với đức tin hướng về tự lực,
như phần đông phật tử Nguyên Thủy th́ họ thường niệm
một trong 10 ân đức Phật tính, điển h́nh
như niệm: Araham (Arahatta) là bản lai thanh tịnh,
Buddho (Buddhatà) là tính giác v.v…
Đối
với đức tin hướng về tha lực, như
phật tử Tịnh Độ tông th́ họ thường
niệm danh hiệu A-di-đà-Phật, hay danh hiệu các Bồ
Tát mà họ tin tưởng.
Đối với đức tin hướng
về thần lực huyền bí, như phật tử Mật
tông th́ học thường hành tŕ một câu chú.
Đối
với đức tin hướng về bản thể tự
tánh, như phật tử Thiền tông th́ học thường
tham một công án hay một thoại
đầu.
-
Nếu con là người có căn cơ về thiền
định th́ con có thể dùng một đề mục thiền
định, như hơi thở chẳng hạn, để
nhiếp phục tâm.
Mục đích của giai đoạn này
là giúp tâm vượt qua các tạp niệm và phát triển khả
năng chú tâm, một yếu tố cần thiết trong
chánh niệm tỉnh giác.
2.
Giai đoạn tánh niệm.
Trong
các pháp môn phương tiện như niệm Phật, tŕ
chú, tham công án, thiền định v.v… hành giả có thể
bớt được tâm tán loạn nhưng cũng nhiều
người lại bị kẹt vào ngay nơi
phương tiện của ḿnh và trở thành bệnh bị
ám ảnh bởi chính câu niệm Phật, câu thần chú v.v…
không sao bỏ đi được. V́ vậy khi nào thầy
tâm đă ổn định th́ phải bỏ phương
tiện (hồng danh, thần chú v.v…) rồi soi chiếu lại
tự tâm để nhận ra tánh sáng suốt, định
tĩnh, trong lành tự nhiên của nó. Đó chính là giai
đoạn thấy ra yếu tính của bản lai thanh tịnh
hay tính giác sẵn có nơi mỗi người.
3. Giai đoạn danh tướng niệm
Nếu
nhận ra được tính giác hay bản lai thanh tịnh
mà không biết sử dụng th́ vẫn bị kẹt vào thể
tánh, không phát huy được tướng dụng để
phá vỡ khối tập nhiễm sâu dày của bản ngă
sinh tử luân hồi. Cho nên ngài Huệ Khả
sau khi ngộ tánh nơi Tổ Đạt Ma đă trở về
ngày đêm mỗi mỗi tự biết ḿnh. Thể tánh của tính giác là tịch tịnh
(sant́), tướng dụng của tính giác là soi chiếu (Jhàna,
jhàyati). V́ vậy phải đem tính giác
soi chiếu lại toàn bộ thân tâm trong quan hệ với
thế giới trong ngoài. Trong thiền Tứ Niệm
Xứ, tính giác tịch và chiếu được hóa thân
thành chánh niệm tỉnh giác, và thế giới quan hêt trong
ngoài của toàn bộ thân tâm chính là thân, thọ, tâm, pháp.
Đây không c̣n là phương tiện tham công án để hy
vọng thấy tánh, mà chính là sự dụng ngay tính giác soi
chiếu để thâm nhập vào thực tại hiện
tiền, xuyên phá mọi vọng tưởng ảo giác của
vô minh ái dục để đương xứ hiện rơ
bổn nguyên chân như thực tánh (Yathàbhùtà sabbhàva) của
pháp.
Tuy
nhiên nếu chưa phải là căn cơ bậc thượng,
th́ tạm thời tập ghi nhận danh tướng của
thực tại thân, thọ, tâm, pháp trước đă. V́ vậy
trong giai đoạn này hành giả chỉ cần khi đang
đi niệm là đi… đi…, khi đang đứng
niệm đứng… đứng…, khi có cảm giác dễ
chịu hay khó chịu niệm là thọ… thọ…, khi
có tâm bứt rứt bực bội niệm là sân… sân…
v.v…
Tâm
thường dễ rơi vào hai trạng thái đối nghịch:
hoặc là quá ức chế thụ động, hoặc là
quá hưng phấn giao động, do đó không được
sâu sắc vi tế, vậy muốn làm quen với công việc
soi chiếu minh bạch (vipassanà), chánh niệm tỉnh giác
phải tạm mượn đối tượng danh
tướng để tự phát huy khả năng tịch
và chiếu cho đến khi thật vững chăi tự nhiên.
Phái
thiền Vipassanà của Ngài Mahasi Sayadaw người Myanmar dạy
hành giả niệm phồng à… xẹp à… khi quán niệm
hơi thở chẳng hạn, chính là vận dụng Danh
Tướng Niệm như một giai đoạn chuyển
tiếp để chuẩn bị cho tâm có đủ chánh niệm
tỉnh giác khả dĩ thâm nhập thực tại như
thị của đệ nhất nghĩa đế.
Như vậy 3 giai đoạn trên chỉ
là dự bị cho hành giả trước khi vào thiền
Vipassanà, chúng ta tạm gọi là ‘giai đoạn tiền
Vipassanà’. Khi nào hành
tướng của hầu hết thân, thọ, tâm, pháp
đều được gọi đúng tên ngay khi nó diễn
ra, không trước không sau, th́ hành giả bắt đầu
có khả năng đi thẳng vào thiền Vipassanà như
giai đoạn sau đây:
4. Giai đoạn thực tướng
niệm.
Đây là giai đoạn thiền Vipassanà
thực thụ. Ở đây hành giả không cần gọi tên sự
kiện như giai đoạn trước mà chỉ soi chiếu
vào chính sự sự diễn biến của sự kiện
mà thôi. Như khi đi chỉ cần chú tâm tỉnh thức
trên mọi biến chuyển của cử động
đi, khi ngồi
chỉ lặng lẽ soi chiếu toàn bộ tư thế
ngồi cùng với những hiện tượng động
tĩnh, sinh diệt, thô tế đang diễn ra nơi thân.
Khi có một cảm giác chỉ lắng nghe trọn
vẹn diễn tŕnh sinh diệt của cảm thọ ấy.
Khi một tư tưởng khởi lên thấy
rơ tâm đang sinh khởi, khi tư tưởng ấy chấm
dứt thấy rơ tâm đang diệt. Khi tâm tịch tịnh
vô sinh biết rơ tâm tịch tịnh vô sinh v.v…
Con
có để ư là những cụm từ thầy vừa dùng
trên như chú tâm tỉnh thức, lặng lẽ chiếu
soi, lắng nghe trọn vẹn, thấy rơ, biết rơ, liễu
tri, tịch chiếu, quán chiếu, chiếu kiến v.v… . đều đồng nghĩa với chánh niệm
tỉnh giác không? Tên gọi không quan trọng mà chính yếu
là con cần phải thể nghiệm thực chất nội
dung của nó sao cho vừa đủ để thấy
đúng thực tướng của quán xứ là được.
Nói là thực tướng niệm, thật
ra trong giai đoạn này thực tại tự diễn bày
đầy đủ tánh tướng thể dụng v.v…. một
cách toàn diện như thị như thực dưới cái
nh́n trí tuệ soi chiếu minh bạch (Vipassanà-nàna) chứ
không phải chỉ thực tướng mà thôi.
Đến
đây, khi hội đủ nhân duyên thích hợp tâm trí sẽ
tự bừng nở những đóa hoa tuệ giác vô cùng vi diệu mà thuật ngữ thiền Vipassanà
gọi là 16 tuệ giác. Đức Phật
đă mô tả tŕnh tự 16 tuệ giác này mà không giảng
giải chi tiết v́ Ngài muốn để cho hành giả tự
ḿnh chứng nghiệm và liễu giải. Về sau các
nhà chú giải và các vị thiền sư cũng có giảng
rơ, nhưng theo thầy, tốt hơn là để mỗi
người tự chứng sự nhiệm mầu của
pháp vị mới hứng thú, phải không con?
Thầy
cũng xin lưu ư con mấy điểm quan trọng là mặc
dù chánh niệm tỉnh giác chính là hai yếu tố tích và chiếu
của tính giác, nhưng tịch chiếu trong thiền Vipassanà
Nguyên Thuỷ của Đức Phật (Như Lai Thiền)
không hoàn toàn giống với pháp môn tịch chiếu trong
phái Tào Động của Thiền Tông (Tổ Sư Thiền).
Nói đúng ra, giống hay không là tùy hành giả.
Nếu hành giả tịch chiếu theo phái Tào Động
nhưng lại đúng với Vipassanà như thầy vừa
nói trong giai đoạn 4 th́ chẳng có ǵ khác nhau, nhưng nếu
tịch chiếu chỉ là trụ tâm quán tịnh th́ dù có
đúng hướng cũng chỉ tương
đương với giai đoạn 1 và 2 tiền Vipassanà
mà thôi. C̣n nếu không đúng hướng th́ chỉ là ‘bệnh
chứ chẳng phải thiền’ như Ngài Huệ Năng quở
trách Chí Thành vậy.
Mặt
khác, nhiều người ngộ nhận chữ quán trong
thiền tụê quán Tứ Niệm Xứ là quán tưởng,
nên khi định nghĩa thiền Tứ Niệm Xứ họ
đơn giản cho đó chỉ là quán tưởng thân
là bất tịnh, quán tưởng thọ là khổ,
quán tưởng tâm là vô thường và quán tưởng pháp
là vô ngă, như một công thức tiêu chuẩn để
dễ bề suy tưởng.
Nhưng
như thầy đă tŕnh bày ở trên, điều kiện
tất yếu của chánh niệm tỉnh giác trong thiền
tuệ quán Vipassanà là vắng bặt mọi ư niệm, suy nghĩ, tư lường,
tưởng tượng v.v… hay nói một cách khác là ‘ngôn
ngữ đạo đoạn tâm hành ư diệt’, nghĩa
là hoàn toàn vắng bóng thế giới khái niệm
(pannatti) để bầu trời tâm trong sáng và mặt trời
tuệ chiếu soi, như tấm gương trung thực
phản ánh thực tánh đệ nhất nghĩa đế
(paramattha) của pháp giới hiện tiền. Cho nên mọi h́nh thức sản phẩm của
tưởng như tự kỷ ám thị chẳng hạn
đều nằm ngoài tuệ quán Vipassanà.
Một
điểm quan trọng nữa là ở giai đoạn 4 thực
thụ Vipassanà này người ta có thể hành một cách tự
nhiên hoặc theo bài bản qui định
đều được và đều có kết quả giống
nhau như một vài trung tâm thiền đă thí nghiệm. Họ
chia hành giả thành 2 nhóm, để hành giả tự do lựa
chọn theo sở thích của ḿnh, một
nhóm hành theo giờ giấc và cách thức qui định
nghiêm nhặt, c̣n nhóm kia th́ sau khi nắm vững yếu tính
của thiền họ tự vận dụng lấy tùy theo
điều kiện riêng của ḿnh. Kết quả
được trắc nghiệm là hai bên đều tiến
triển như nhau, kể cả trường hợp áp dụng
thiền để chữa bệnh ở một vài trung tâm
y khoa ở Mỹ, Pháp v.v…
Đến
đây hành giả bước vào một chân trời hoàn toàn
mới mẻ nhưng lại hiện đúng bản nguyên,
như một người nằm mơ chợt tỉnh, mới
mẻ, nghĩa là không c̣n chiêm bao, mà là hoàn lại con người
thực đầy đủ bộ mặt xưa này của
ḿnh, đó chính là giai đoạn thứ 5 trên hành tŕnh tuệ
quán.
5. Giai đoạn bất động
niệm
Khi những đóa hoa tuệ giác bừng
nở, như những hoa sen ra khỏi bùn nhơ nước
đục, bừng nở dưới ánh nắng mai giữa
bầu trời cao rộng, th́ hành giả cũng ung dung tự
tại giữa cuộc đời phiền năo. Chính v́ tự ḿnh thoát ly phiền năo, nên
dù cuộc đời có phiền năo bao nhiêu th́ tâm thiền vẫn
an nhiên bất động. Lúc
đó chánh niệm tỉnh giác không cần đến một
nỗ lực cố gắng nào mà vẫn tịch tịnh
soi chiếu một cách hồn nhiên trọn vẹn. Và chỉ đến lúc đó hành giả mới có
thể làm công việc giác tha một cách hoàn toàn vô ngă.
Con
thương mến,
Nhân
con hỏi sinh hoạt thiền của thầy ở quê này,
thầy tŕnh bày đại khái vài nét như vậy, hy vọng
rằng những nét cương yếu ấy có thể giúp
con soi sáng thêm chương tŕnh hành thiền: tụng kinh, tụng
chú, lạy hồng danh, tọa thiền, qua đường
và hỏi đáp cơ phong do thiền sư Seung Sahn hướng
dẫn tại thiền đường PZC mà con đă kể
cho thầy nghe trong thư trước.
Chúc
con mạnh khoẻ và hưởng được thiền
vị trong đời sống của một người
tăng sĩ.
Thầy
-ooOoo-