www.dieuphap.com

 
Thư Thầy Tṛ
Lời Giới Thiệu
Lá thư thứ  1
Lá thư thứ  2
Lá thư thứ  3
Lá thư thứ  4
Lá thư thứ  5
Lá thư thứ  6
Lá thư thứ  7
Lá thư thứ  8
Lá thư thứ  9
Lá thư thứ  10
Lá thư thứ  11
Lá thư thứ  12
Lá thư thứ  13
Lá thư thứ  14
Lá thư thứ  15
Lá thư thứ  16
Lá thư thứ  17
Lá thư thứ  18
Lá thư thứ  19
Lá thư thứ  20
Lá thư thứ  21
Lá thư thứ  22
Lá thư thứ  23
Lá thư thứ  24
Lá thư thứ  25
Lá thư thứ  26
Lá thư thứ  27
Lá thư thứ  28
Lá thư thứ  29
Lá thư thứ  30
Lá thư thứ  31
Lá thư thứ  32
Lá thư thứ  33
Lá thư thứ  34
Lá thư thứ  35
Lá thư thứ  36
Lá thư thứ  37
Lá thư thứ  38
Lá thư thứ  39
Lá thư thứ  40
Lá thư thứ  41
Lá thư thứ  42
Lá thư thứ  43







Tuyển Tập Thư Thầy

Tỳ kheo Viên Minh



Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy

Lá Thư Thứ 33

Lá thư thứ 33

 

Ngày… tháng… năm…

 

D.T con,

 

Trong thư con có hỏi thầy về một triệu chứng khi chánh niệm tỉnhg giác là cảm thấy trơ cứng, khô khan và giả tạo trên đối tượng sở quán. Con đừng ngại, rất nhiều người có cảm tưởngđó, tất nhiên là có lư do, nhưng trước hết con đừng chán nản, giao động, cứ tiếp tục chánh niệm tỉnh giác rồi mọi sự sẽ được giải quyết và hiểu rơ.

 

Lư do sinh ra triệu chứng đó có thể là:

 

1/ Lúc đầu chưa quen nên thấy gượng gạo, giống như người mới tập lái xe có vẻ luống cuống, trơ cứng.

 

2/ Cố gắng quá mức đâm ra không được thoải mái nên dễ đưa đến căng thẳng, mỏi mệt và chán nản.

 

3/ Chú ư quá nhiều đến chi tiết hay ngoại tướng của đối tượng nên thấy nó có vẻ khô khan, giả tạo không tự nhiên.

 

Ví dụ như khi con quán sát hơi thở con có thể làm cho hơi thở mất tự nhiên, giả tạo và thô cứng. Do muốn thấy thật rơ con đă vô t́nh hay cố ư bắt hơi thở phải chậm lại, sâu hơn, mạnh hơn, thế là con nhanh chóng thấy tức ngực, khó chịu và mệt mỏi. Khi đi kinh hành cũng vậy, con dễ làm cho bước chân khựng lại và cảm thấy mất thăng bằng.

 

Thực ra trong quán niệm, con càng tự nhiên càng tốt. Và cần nhớ rằng chính yếu không phải là đối tượng ǵ mà là cái thấy sáng suốt, định tĩnh, trong lành của con trên đối tượng ấy. Đối tượng chỉ là trợ duyên cho cái thấy phát huy tính soi chiếu trong sáng trung thực của nó mà thôi. V́ vậy thấy rơ đối tượng không có nghĩa là phải nắm bắt chi tiết ngoại tướng của đối tượng mà là thấy tính chất phổ quát của nó, tức là chỉ cần thấy cốt lỏi tinh yếu là được.

 

Con nói ‘có những lúc con muốn buông ra hết, không cần nhớ, không cần niệm, không cần hiểu, không muốn biết ch cả cho đầu óc rỗng rang an nghỉ’. Chứng tỏ rằng con đă sử dụng chánh nệm tỉnh giác sai hướng và quá mức cần thiết để nhận rơ đối tượng. Chính v́ thiếu thoải mái tự nhiên trong chánh niệm tỉnh giác mà con cảm thấy căng thẳng mệt mỏi như vậy.

 

Tuy nhiên, vô t́nh con vẫn đi đúng đường, v́ chính ngay lúc con buông xả hết là con đang tu tập một yếu tố quan trọng trong thiền quán Tứ Niệm Xứ mà ít người để ư, đó là xả dưới h́nh thức ‘buông bỏ tham ưu ở đời’ (Vineyya loke abhijjhà domanassam). Khi đối tượng hấp dẫn con khiến con ưa thích và dính mắc, đó chính là tham. Nhưng khi đối tượng làm con bực ḿnh, chán nản, đó chính là sân. Hai tâm thái tham và sân này làm con mất quân b́nh. Chữ xả (uppekkhà) vốn có nghĩa là quân b́nh, vậy buông xả tham ưu chính là môi trường phẳng lặng cho chánh niệm tỉnh giác phát huy khả năng soi chiếu.

 

V́ trong khi quán niệm con quá ham nắm bắt đối tượng (tham) cho nên dễ sinh ra trạng thái đối nghịch là chán nản (sân), do đó tâm con mất quân b́nh không c̣n là môi trường thích hợp cho chánh niệm tỉnh giác soi chiếu được nữa.

 

Con cũng cần nhớ một điều: buông xả là lập lại quân b́nh giữa hai thái cực tham và sân, chứ không phải là buông xuôi v́ chán nản, hay cố gắng loại bỏ tham sân.

 

Xả cũng c̣n là một trong bảy yếu tố giác ngộ (thất giác chi):

 

1/ Niệm: là chú tâm trên đối tượng hiện quán, tức đương xứ của thực tại thân, thọ, tâm, pháp, để tâm khônglănh đạm quên ḿnh hay tán tâm hướng ngoại.

 

2/ Trạch pháp: là chú ư sâu sát hơn trên đối tượng thiền quán để t́m thấy tính chất tinh yếu của pháp mà niệm chỉ mới ghi nhận. Trạch pháp giúp ta soi rọi khối thân tâm qua cái nh́n tách bạch rơ ràng và vi tế, nhưng không phải bằng lư trí mà là trí tuệ trực kiến (nanadassana). Chính nhờ trạch pháp mà ta thấy rơ tính sinh diệt, tính vô thường-khổ-vô ngă của pháp, thấy rơ yếu tố đất, lửa, gió v.v… trong sắc, hoặc yếu tố thọ, tưởng, hành, thức trong danh để không c̣n chấp lầm thân tâm này là bản ngă.

 

3/ Tinh tấn: là phát động sự chuyên cần, hăng hái trong thiện pháp nhất là chánh niệm tỉnh giác. Tinh tấn giúp ta không c̣n giải đăi thối thất, không tiêu cực lười biếng, không buông trôi hờ hững. Tuy nhiên tinh tấn phải đúng mức và tự nhiên, nghĩa là không quá yếu ớt, không quá gắng gượng hăng say.

 

4/ Hỷ: là yếu tố làm cho tâm hân hoan, phấn khởi, vui vẻ khi tiếp xúc với đối tượng, dù thuận hay nghịch. Hỷ giúp tâm vượt qua trạng thái bực ḿnh, chán nản, bức xúc, khó chịu, và giúp cho hành giả cảm thấy hứng thú trong thời gian hành tŕ lâu dài mà không mỏi mệt. Ví dụ, lúc ngồi thấy tê chân hay nhức mỏi mà có yếu tố hỷ th́ vẫn thấy dễ chịu chứ không bị bức xúc, bực bội.

 

5/ Khinh an: là lắng dịu, thư thái và thư giăn. Yếu tố này giúp ta vượt qua trạng thái căng thẳng, phấn khích, dồn nén hoặc cố gắng quá sức, giống như đang bị một áp lực đè nặng mà tự nhiên nhẹ hẳn đi. Khi đi kinh hành với tâm khinh an con sẽ cảm thấy thật thanh thản, thong dong, ung dung, tự tại.

 

6/ Định: là trạng thái nhất tâm, tĩnh lặng và an chỉ khi tâm an trú vững vàng trên đối tượng, do đó không c̣n giao động, trạo cử, hay tán loạn. Định giúp tâm nghỉ ngơi hoàn toàn và có khả năng tập trung được năng lực. Nhưng nếu định là cố gắng tập trung tư tưởng vào một mục đích sở đắc th́ nó có thể không c̣n là chánh định nữa.

 

7/ Xả: là trạng thái quân b́nh của tâm buông bỏ hai thái cực tham và sân, tức là không ưa không ghét mà chỉ thản nhiên trầm tĩnh. Có thể nói lúc xả là lúc sáng suốt nhất chứ không phải rơi vào trạng thái buông xuôi theo nghĩa vô kư, một t́nh trạng si mê tiêu cực.

 

Như vậy, khi con cảm thấy chán nản, mệt mỏi, thụ động, tiêu cực th́ con nên tu chánh niệm tỉnh giác kèm với các giác chi trạch pháp, tinh tấn hoặc hỷ để tâm con hưng phấn lên, thoát khỏi t́nh trạng tŕ trệ.

 

Khi con cảm thấy bồn chồn, giao động, trạo cử th́ nên tu chánh niệm tỉnh giác kèm với các giác chi khinh an, định hoặc xả để tâm lắng dịu xuống, thoát khỏi t́nh trạng phấn khích.

 

Tất nhiên việc tu hành c̣n khó khăn gấp ngàn lần công việc chân tay hay trí óc, v́ vậy mà đôi lúc con thấy mệt mỏi chán chường, nhưng đừng v́ vậy mà buông lung bất định. Sống theo pháp th́ tự nhiên pháp sẽ đem lại cho con nhiều an lạc trong cuộc đời phiền năo này.

 

Chúc con vượt qua được t́nh trạng khó khăn hiện tại.

 

Thầy

 

-ooOoo-