Tuyển Tập Thư Thầy
Tỳ kheo Viên Minh
Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy
Lá Thư Thứ 33
Lá
thư thứ 33
Ngày…
tháng… năm…
D.T
con,
Trong
thư con có hỏi thầy về một triệu chứng
khi chánh niệm tỉnhg giác là cảm thấy trơ cứng,
khô khan và giả tạo trên đối tượng sở
quán. Con đừng ngại, rất nhiều người có
cảm tưởngđó, tất
nhiên là có lư do, nhưng trước hết con đừng
chán nản, giao động, cứ tiếp tục chánh niệm
tỉnh giác rồi mọi sự sẽ được giải
quyết và hiểu rơ.
Lư
do sinh ra triệu chứng đó có thể là:
1/ Lúc đầu chưa quen nên thấy
gượng gạo, giống như người mới tập
lái xe có vẻ luống cuống, trơ cứng.
2/ Cố gắng quá mức đâm ra
không được thoải mái nên dễ đưa đến
căng thẳng, mỏi mệt và chán nản.
3/ Chú ư quá nhiều đến chi tiết
hay ngoại tướng của đối tượng nên
thấy nó có vẻ khô khan, giả tạo không tự nhiên.
Ví
dụ như khi con quán sát hơi thở con có thể làm cho
hơi thở mất tự nhiên, giả tạo và thô cứng.
Do muốn thấy thật rơ con đă vô t́nh hay cố ư bắt
hơi thở phải chậm lại, sâu hơn, mạnh
hơn, thế là con nhanh chóng thấy tức ngực, khó chịu
và mệt mỏi. Khi đi kinh hành cũng vậy, con dễ
làm cho bước chân khựng lại và cảm thấy mất
thăng bằng.
Thực
ra trong quán niệm, con càng tự
nhiên càng tốt. Và cần nhớ rằng chính yếu
không phải là đối tượng ǵ mà là cái thấy
sáng suốt, định tĩnh, trong lành của con trên
đối tượng ấy. Đối tượng chỉ
là trợ duyên cho cái thấy phát huy tính soi chiếu trong sáng
trung thực của nó mà thôi. V́ vậy thấy rơ đối
tượng không có nghĩa là phải nắm bắt chi tiết
ngoại tướng của đối tượng mà là thấy
tính chất phổ quát của nó, tức là chỉ cần
thấy cốt lỏi tinh yếu là được.
Con
nói ‘có những lúc con muốn buông ra hết, không cần nhớ,
không cần niệm, không cần hiểu, không muốn biết
ch cả cho đầu óc rỗng rang an nghỉ’. Chứng tỏ
rằng con đă sử dụng chánh nệm tỉnh giác sai
hướng và quá mức cần thiết để nhận
rơ đối tượng. Chính v́ thiếu thoải mái tự
nhiên trong chánh niệm tỉnh giác mà con cảm thấy
căng thẳng mệt mỏi như vậy.
Tuy
nhiên, vô t́nh con vẫn đi đúng đường, v́ chính
ngay lúc con buông xả hết là con đang tu tập một yếu
tố quan trọng trong thiền quán Tứ Niệm Xứ
mà ít người để ư, đó là xả dưới
h́nh thức ‘buông bỏ tham ưu ở đời’
(Vineyya loke abhijjhà domanassam). Khi đối tượng hấp
dẫn con khiến con ưa thích và dính mắc, đó chính là
tham. Nhưng khi đối tượng làm con bực ḿnh,
chán nản, đó chính là sân. Hai tâm thái tham và sân này làm con mất
quân b́nh. Chữ xả (uppekkhà) vốn có nghĩa là quân
b́nh, vậy buông xả tham ưu chính là môi trường phẳng
lặng cho chánh niệm tỉnh giác phát huy khả năng
soi chiếu.
V́
trong khi quán niệm con quá ham nắm bắt đối
tượng (tham) cho nên dễ sinh ra trạng thái đối
nghịch là chán nản (sân), do đó tâm con mất quân b́nh
không c̣n là môi trường thích hợp cho chánh niệm tỉnh
giác soi chiếu được nữa.
Con
cũng cần nhớ một điều: buông xả là lập
lại quân b́nh giữa hai thái cực tham và sân, chứ không
phải là buông xuôi v́ chán nản, hay cố gắng loại
bỏ tham sân.
Xả
cũng c̣n là một trong bảy yếu tố giác ngộ
(thất giác chi):
1/
Niệm: là chú tâm trên đối
tượng hiện quán, tức đương xứ của
thực tại thân, thọ,
tâm, pháp, để tâm khônglănh đạm quên ḿnh hay tán tâm
hướng ngoại.
2/ Trạch pháp: là chú ư sâu sát hơn trên đối tượng
thiền quán để t́m thấy tính chất tinh yếu của
pháp mà niệm chỉ mới ghi nhận. Trạch pháp giúp ta
soi rọi khối thân tâm qua cái nh́n tách bạch rơ ràng và vi tế,
nhưng không phải bằng lư trí mà là trí tuệ trực kiến
(nanadassana). Chính nhờ trạch pháp mà ta thấy rơ tính sinh
diệt, tính vô thường-khổ-vô ngă của pháp, thấy
rơ yếu tố đất, lửa, gió v.v… trong sắc, hoặc
yếu tố thọ, tưởng, hành, thức trong danh
để không c̣n chấp lầm thân tâm này là bản ngă.
3/
Tinh tấn: là phát động
sự chuyên cần, hăng hái trong thiện pháp nhất là
chánh niệm tỉnh giác. Tinh tấn giúp ta không c̣n giải
đăi thối thất, không tiêu cực lười biếng,
không buông trôi hờ hững. Tuy nhiên tinh tấn phải
đúng mức và tự nhiên, nghĩa là không quá yếu ớt,
không quá gắng gượng hăng say.
4/ Hỷ: là yếu tố làm cho tâm hân hoan, phấn khởi, vui
vẻ khi tiếp xúc với đối tượng, dù thuận
hay nghịch. Hỷ giúp tâm vượt qua trạng thái bực
ḿnh, chán nản, bức xúc, khó chịu, và giúp cho hành giả
cảm thấy hứng thú trong thời gian hành tŕ lâu dài mà
không mỏi mệt. Ví dụ, lúc ngồi thấy tê chân hay
nhức mỏi mà có yếu tố hỷ th́ vẫn thấy
dễ chịu chứ không bị bức xúc, bực bội.
5/ Khinh an: là lắng dịu, thư thái và thư giăn. Yếu tố
này giúp ta vượt qua trạng thái căng thẳng, phấn
khích, dồn nén hoặc cố gắng quá sức, giống
như đang bị một áp lực đè nặng mà tự
nhiên nhẹ hẳn đi. Khi đi kinh hành với tâm khinh an
con sẽ cảm thấy thật thanh thản, thong dong, ung
dung, tự tại.
6/ Định: là trạng thái nhất tâm, tĩnh lặng
và an chỉ khi tâm an trú vững vàng trên đối tượng,
do đó không c̣n giao động, trạo cử, hay tán loạn. Định giúp tâm nghỉ ngơi
hoàn toàn và có khả năng tập trung được
năng lực. Nhưng nếu định là cố gắng
tập trung tư tưởng vào một mục đích sở
đắc th́ nó có thể không c̣n là chánh định nữa.
7/ Xả: là trạng thái quân b́nh của tâm buông bỏ hai thái cực
tham và sân, tức là không ưa không ghét mà chỉ thản
nhiên trầm tĩnh. Có thể nói lúc xả là lúc sáng suốt
nhất chứ không phải rơi vào trạng thái buông xuôi
theo nghĩa vô kư, một t́nh trạng si mê tiêu cực.
Như
vậy, khi con cảm thấy chán nản, mệt mỏi, thụ
động, tiêu cực th́ con nên tu chánh niệm tỉnh giác
kèm với các giác chi trạch pháp, tinh tấn hoặc hỷ
để tâm con hưng phấn lên, thoát khỏi t́nh trạng
tŕ trệ.
Khi
con cảm thấy bồn chồn, giao động, trạo
cử th́ nên tu chánh niệm tỉnh giác kèm với các giác chi
khinh an, định hoặc xả để tâm lắng dịu
xuống, thoát khỏi t́nh trạng phấn khích.
Tất
nhiên việc tu hành c̣n khó khăn gấp ngàn lần công việc
chân tay hay trí óc, v́ vậy mà đôi lúc con thấy mệt mỏi
chán chường, nhưng đừng v́ vậy mà buông lung bất
định. Sống theo pháp th́ tự nhiên pháp sẽ đem
lại cho con nhiều an lạc trong cuộc đời phiền
năo này.
Chúc
con vượt qua được t́nh trạng khó khăn hiện
tại.
Thầy
-ooOoo-