Tuyển Tập Thư Thầy
Tỳ kheo Viên Minh
Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy
Lá Thư Thứ 31
Lá
thư thứ 31
Ngày…
tháng… năm…
L.
con,
Cách
đây gần một năm, khi con đến vấn đạo,
thầy nhớ là đă phân tích những nguyên nhân của phiền
năo khổ đau và con đường đi đến giải
thoát ra khỏi những trói buộc ấy. Một cách tóm tắt,
con đường đó là một đời sống sáng
suốt, định tĩnh và trong lành. Hôm nay thầy nhắc
lại một số nét chính yếu để con nắm vững
nguyên lư đời sống giác ngộ.
Đời
sống bao gồm hai phương diện: ngoại cảnh
và nội tâm. Có những tác động từ bên ngoài do những
định luật khách quan về vật lư, xă hội, thời
tiết, thiên nhiên, và cả siêu nhiên nữa. Có những tác
động từ bên trong do những định luật
khác về sinh lư, tâm lư, nghiệp báo v.v… Hai mặt trong và
ngoài tương giao qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ư. Khi sự tương giao
này diễn ra trong mê mờ (vô minh) th́ sẽ phát sinh vọng
động (ái dục, hành) và tạo thành một chuỗi
nhân quả liên quan (duyên khởi). Khi sự
tương giao này diễn ra trong sáng suốt (tuệ)
th́ nội tâm đựơc trầm tĩnh (định)
và đời sống trở nên trong lành (giới).
Có
hai loại người, một là người có nội tâm
phụ thuộc vào hoàn cảnh. Họ bị ngoại cảnh
thu hút, cuốn trôi, ràng buộc và nhận ch́m. Tất nhiên
là họ phải gặt lấy những hậu quả bất
an. Hai là người có nội tâm không lệ thuộc vào ngoại
cảnh. Họ sống tự chủ, tự tại, an
nhiên, thanh tịnh và dĩ nhiên hưởng được
đời sống thanh thoát.
Sự
tác động của ngoại cảnh gọi là duyên, chủ
định của nội tâm gọi là nhân. Với người
bị ngoại cảnh chi phối th́ duyên lôi cuốn nhân. Với
người không bị ngoại cảnh chi phối th́ nhân
thắng được duyên, tuy tùy duyên mà vẫn tự chủ.
Tùy
duyên có nghĩa là thuận theo hoàn cảnh. Như vậy phải
là một người có nhân vững vàng (nội tâm ổn
định, sáng suốt, tự chủ) th́ mới có thể
tùy duyên, bằng không sẽ bị duyên lôi cuốn, hoặc
chạy theo duyên, nghĩa là nhắm mắt đưa chân,
vui đâu chúc đó, thiện ác theo người, không phân tà
chánh, đó là người phóng dật.
Tùy
duyên c̣n có một nghĩa khác là tùy lúc tùy nơi mà xử sự
ứng tiếp, để có thể tùy sở trú xứ
thường an lạc. Khổng giáo cũng dạy ‘tùy
cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an’. Vậy tuy tùy duyên mà
vẫn bất biến mới là tùy duyên một cách đúng
đắn.
Hoàn
cảnh có xấu, có tốt, có thuận, có nghịch, phải
luôn luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành th́ mới
đủ sức bén nhạy để tùy cảm nhi ứng,
tùy ngộ nhi an. Chỉ cần thiếu tỉnh thức
(chánh niệm, tỉnh giác) là bị ch́m vào biển trùng
trùng duyên khởi ngay.
Nhưng
xấu tốt, thuận nghịch không căn cứ ở vừa
ḷng hay không vừa ḷng. Cái ǵ vừa ḷng chưa hẳn
đă tốt, cái ǵ trái ư chưa hẳn đă xấu.
Thường người đời xử sự theo
tư kiến, tư dục nên họ lấy thước
đo vừa ḷng và trái ư của họ để làm chuẩn,
và như thế th́ không thể tránh khỏi sự va chạm
với những người chung quanh, v́ tư kiến,
tư dục của mỗi người mỗi khác.
Cùng
một hoàn cảnh mà mỗi người xử sự mỗi
khác, đưa đến hậu quả, dĩ nhiên cũng
ở mỗi người khác nhau. Sở dĩ như vậy
là v́ sự tương giao giữa nội tâm và ngoại cảnh
diễn ra trong mê mờ (vô minh, không tỉnh thức)
đă phát sinh những vọng động (ái dục)
sai khác.
Không
thể điều chỉnh sự dị biệt, mâu thuẫn này giữa con người
bằng cách thay đổi hoàn cảnh, v́ nó chỉ là điều
kiện phụ (duyên), mà phải thay đổi nội
tâm (nhân).
Điều
chỉnh nội tâm không phải là ép buộc nó phải theo
một khuôn mẫu nào mà ta đă chủ định. V́
như thế là vẫn c̣n theo tư kiến, tư dục,
và chắc chắn vẫn tạo hố sâu cách biệt với
người khác.
Nội
tâm sẽ biết cách tự xử thích ứng với hoàn cảnh
khi ta để cho nó được tự do thư thái nhất,
nghĩa là để cho nó được sáng suốt -
định tĩnh - trong lành.
Đừng
hiểu tự do tâm linh theo nghĩa buông thả cho nó muốn
làm ǵ th́ làm, v́ như vậy có nghĩa là tự trói buộc
sâu dày vào vô minh, ái dục, đúng vậy không?
Khi
con không thích hợp với ngoại cảnh, với những
người chung quanh, không có nghĩa là hoàn cảnh nghịch
với con (nghịch duyên). Khi con thích hợp với ngoại
cảnh, với những người xung quanh, cũng không
có nghĩa là hoàn cảnh thuận với con (thuận duyên).
Tác
động từ ngoại cảnh đựơc đánh
giá thuận hay nghịch theo hai cách:
1.
Theo cách nh́n của tư kiến, tư dục, tức
như thầy đă nói, cái ǵ vừa ḷng là thuận, cái ǵ
trái ư là nghịch. Đó là cách nh́n thế tục.
2. Theo cách nh́n của đạo
th́ tác động ngoại giới nào làm tăng trưởng
điều bất thiện như dục, ái, tham, sân, hận,
oán thù, giao động, xáo trộn, phóng dật, ích kỷ,
ngă mạn v.v… nói chung là tham, sân, si th́ đó là nghịch
duyên, dù nó có đem lại cho ta cái gọi là hạnh phúc, an
lạc trần thế. Với nghịch duyên này ta phải
thận trọng, cảnh giác, pḥng hộ, giữ ǵn đừng
để nó lôi cuốn ta vào bất thiện và hậu quả
là bất an, đau khổ.
Tác
động ngoại giới nào làm tăng trưởng thiện
pháp như không tham, không sân, không si, từ, bi, hỷ, xả,
vị tha, định tĩnh, thiền thiện, khinh an,
thư thái, chánh trực, nhu ḥa v.v…. th́ đó là thuận
duyên, dù nó có đem lại thiệt tḥi đau khổ về
mặt vật chất.
Có
những hạnh phúc trần thế chỉ làm cho ta mất
đi niềm an lạc thật sự của tâm hồn.
Trái lại có những thiệt tḥi đối với thế
giới bên ngoài lại là niềm hạnh phúc của nội
tâm. V́ không thấy chân lư này con người luôn chạy theo
sự vừa ḷng đối với ngoại cảnh mà họ
cho là hạnh phúc. Nhưng như Nikos Kazantzaki nói ‘mảnh
đất b́nh an chỉ có trong tâm hồn’ th́ quả
đúng là ‘tâm hồn tịch tịnh là hạnh phúc tối
thượng’ (Sant́ paramam sukham).
Như
vậy vấn đề không phải ở chỗ làm thế
nào để thích hợp với hoàn cảnh, với những
nguời chung quanh, mà vấn đề là nội tâm ta có thật
sự tự do, nghĩa là có thật sự sáng suốt,
định tĩnh, trong lành hay không mà thôi.
Khi
ta không cần cố gắng t́m cách thích ứng với hoàn
cảnh, mà chỉ cần một nội tâm ổn định,
trong sáng và tỉnh thức, th́ lúc đó ta lại thấy dễ
dàng thích ứng với hoàn cảnh một cách chính xác và tự
nhiên hơn. Nghĩa là tâm ta sẽ biết cách thích ứng
tùy theo hoàn cảnh thuận hay nghịch. Tuy thích ứng
nhưng không nhất thiết phải thuận theo hoàn cảnh,
v́ dù thuận hay nghịch th́ nội tâm vẫn
đươc tự do.
Nhân
(nội tâm) tốt có nghĩa là không bị lệ thuộc
vào duyên (hoàn cảnh), độc lập trong mọi điều
kiện, v́ vậy mà ở trong điều kiện (thuận
hay nghịch) nào cũng không mất tự tánh. Nếu thích ứng
được hiểu theo nghĩa này th́ mới nên thích ứng.
Tóm
lại, con muốn thích ứng với hoàn cảnh, với
những nguời chung quanh, th́ trước hết con phải:
1. Sáng suốt biết rơ thân tâm
ḿnh trong mọi hành vi động tịnh, từng giây từng
phút. Nếu quên ḿnh th́ phải sớm tự tỉnh thức.
2. Trầm tĩnh và chú tâm vào chính
ḿnh đừng để tâm buông lung vọng động
theo ngoại cảnh, vẫn giữ sự chú tâm định
tĩnh bên trong. Nếu có vọng động th́ chú tâm vào
chính vọng động đó, sẽ định tĩnh lại
ngay.
3. Khi hành động, nói năng, suy
nghĩ hay không th́ thân khẩu ư đều phải hiền
thiện, chánh trực hợp đạo lư. Nếu có tà
ư liền tinh tấn chú tâm tỉnh giác th́ tâm sẽ tự
trở về đường ngay.
Nếu
con giữ được tâm b́nh hạnh trực
như thế, th́ con sẽ thấy dù cho không cần thích ứng,
nó vẫn thích ứng dễ dàng và chính xác. Trái lại nếu
con chỉ cố gắng thích ứng bên ngoải th́ con sẽ
bị tha hóa, tự đánh mất ḿnh.
Ngoại
cảnh tuy là duyên, là phụ, nhưng với người nội
tâm (nhân) không vững, th́ nó vẫn có một sức cuốn
hút (cả thuận lẫn nghịch) rất mănh liệt có
thể làm xáo trộn, hủ hóa, tha hóa hoặc hỗn loạn
nội tâm. Chính v́ thế mà nội tâm phải luôn luôn sáng suốt,
định tĩnh, trong lành. Mong con thấy ra điều
đó.
Chúc
con mạnh khỏe và sống một đời sống nội
tâm vững vàng trong thời gian công tác ở hải ngoại.
Thầy.
-ooOoo-