www.dieuphap.com

 
Thư Thầy Tṛ
Lời Giới Thiệu
Lá thư thứ  1
Lá thư thứ  2
Lá thư thứ  3
Lá thư thứ  4
Lá thư thứ  5
Lá thư thứ  6
Lá thư thứ  7
Lá thư thứ  8
Lá thư thứ  9
Lá thư thứ  10
Lá thư thứ  11
Lá thư thứ  12
Lá thư thứ  13
Lá thư thứ  14
Lá thư thứ  15
Lá thư thứ  16
Lá thư thứ  17
Lá thư thứ  18
Lá thư thứ  19
Lá thư thứ  20
Lá thư thứ  21
Lá thư thứ  22
Lá thư thứ  23
Lá thư thứ  24
Lá thư thứ  25
Lá thư thứ  26
Lá thư thứ  27
Lá thư thứ  28
Lá thư thứ  29
Lá thư thứ  30
Lá thư thứ  31
Lá thư thứ  32
Lá thư thứ  33
Lá thư thứ  34
Lá thư thứ  35
Lá thư thứ  36
Lá thư thứ  37
Lá thư thứ  38
Lá thư thứ  39
Lá thư thứ  40
Lá thư thứ  41
Lá thư thứ  42
Lá thư thứ  43







Tuyển Tập Thư Thầy

Tỳ kheo Viên Minh



Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy

Lá Thư Thứ 30

Lá thư thứ 30

 

Ngày… tháng… năm…

 

H.C. con,

 

Thầy đă nhận đươc thư con qua chị HN, và nhất là được xem một số h́nh con chụp chung với chị LT và các sư.

 

Rất tiếc là qua thư từ thầy không làm được công việc của một nhà phân tâm học để giúp con giải tỏa một số stress do quá tŕnh phấn đấu nội tâm của con gây ra. Nhưng thầy nghĩ rằng quá tŕnh sống đạo giữa cuộc đời phức tạp tất nhiên lúc đầu không sao tránh khỏi những khó khăn nào đó. Con có quyền vận dụng cách tu tập tùy ư miễn là phải tự tin, trầm tĩnh và sáng suốt.

 

Thầy nói tự tin là v́ không nên sợ hăi khi thấy ḿnh phải đối diện với những mâu thuẫn nội tâm. Mặc dù con người th́ đều có bản năng, t́nh cảm, tính dục và mâu thuẫn dồn nén như nhau, nhưng giữa chúng ta, những người sống đạo với người không sống đạo khác xa nhau lắm. Một bên là mê mờ, một bên là tỉnh thức. Hăy tin vào sự tỉnh thức của ḿnh như vị thầy dẫn đường luôn luôn có mặt bên ta. Sở dĩ những người bạn của con đang bị biến chứng của dồn nén là v́ họ chỉ sống với bản năng, t́nh cảm, ư chí và lư trí mà chưa bao giờ tỉnh thức, chưa bao giờ thắp lên ngọn đuốc của trí tuệ để soi sáng chính ḿnh. Chúng ta cũng như họ thôi, nhưng nếu chúng ta thắp sáng chính ḿnh th́ không phải là biến chứng của dồn nén mà lại là giác ngộ giải thoát và diệu dụng đấy con ạ.

Thế tại sao con phải sợ. Một vị thiền sư nói rằng ‘đừng sợ vọng khởi chỉ sợ không giác kịp’, nghĩa là chỉ sợ không sáng suốt, tỉnh giác mà thôi. Con đừng nghĩ rằng thầy có một phương pháp phi thường nào đó đầy bí ẩn hay rất phức tạp khó khăn để trở thành một con người siêu việt, chung qui pháp hành hàng ngày của thầy ch́ là sáng suốt, định tĩnh, trong lành trong mọi sinh hoạt của đời sống từ ngoại giới đến nội tâm, từ hành động đến ư nghĩ để không tự ḿnh nhận ch́m ḿnh vào trong thế giới huyễn hóa do ḿnh tạo ra.

 

Con thích thiền định? Đó là một ư hướng tốt nhưng cũng có thể là một trong những mâu thuẫn đưa đến dồn nén của con hiện nay. Thiền định phải hiểu và hành đúng mức bằng không sẽ là con dao hai lưỡi: một là thăng hoa thành diệu dụng, hai là dồn nén và sinh ra biến chứng tâm thần.

 

Thiền định là một mức sống tâm linh cao nhưng nó có nhiều hướng tùy theo người thực hiện nó. Nói chung có ba hướng (mục đích):

 

- Để giữ ǵn sức khỏe (như hatha yoga, thiền dưỡng sinh., luyện đan, khí công v.v…)

 

- Để đạt được một số tạng thái tâm linh: hỷ lạc, xuất thần v.v.. (như ràja yoga, tu tiên, thiền xuất hồn….)

 

- Để đạt được một số khả năng, pháp thuật, hoặc thần thông (như một số phái thiền của Mật tông, chú thuật, thôi miên v.v…)

 

Những mục đích trên dù tốt hay xấu cũng không phải mục đích chân chính của Đạo Phật. V́ vậy mà Thiền Tông đă loại thiền định ra ngoài xem đó như đá đè cỏ, hoặc mài gạch thành gương, không bao giờ thấy tánh.

 

Nhưng Đức Phật v́ hiểu rất rơ tính chất của thiền định nên Ngài không loại trừ nó. Ngài chỉ cảnh giác rằng đừng quá đam mê, đắm ch́m trong đó mà thôi. Ngài vẫn đặt nó vào tŕnh tự của đạo v́ đối với Ngài phương tiện này nếu khéo sử dụng vào mục đích chân chính sẽ là lợi ích lớn cho hành tŕnh giác ngộ giải thoát.

 

Thiền Định trong Đạo Phật không chấp nhận ba mục đích nêu trên nhưng xem đó như là kết quả phụ tùy. Chánh định có ba mục đích khác:

 

1/ Làm lắng dịu và hóa giải những vọng động che lấp tâm khiến tâm mê mờ, mất khả năng và khó sử dụng. Đây là yếu tố Chánh Tinh Tấn trong thiền định.

 

2/ Trở về chính ḿnh, không hướng ngoại, không để ngoại cảnh lôi cuốn và chi phối. Đây là yếu tố Chánh Niệm trong thiền định, thuờng đi đôi với tỉnh giác.

 

3/ An chỉ nhất tâm, giải thoát khỏi ngũ dục (sắc định) hoặc giải thoát khỏi sắc tưởng (vô sắc định) nhờ vậy tâm được buông xả, nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, ổn định và kiên cố.

 

Sở dĩ chúng ta bị phiền năo, khổ đau, căng thẳng, dồn nén là do tâm bị lôi cuốn ra ngoài quá nhiều (thất niệm), sinh ra phóng dật, vọng động (thiếu tinh tấn), không giữ được quân b́nh thư thái, an ổn (thiếu định). V́ vậy thiền định trước tiên là trở về với chính ḿnh (chánh niệm), thắp sáng chính ḿnh (tỉnh giác), để phát hiện sự sinh diệt của các vọng động (5 triền cái), chế ngự, ổn định chúng (tinh tấn) và an chỉ ở đó (chánh định). Khi nguời ta có tham vọng tập trung tư tưởng vào một đối tượng nào đó với mục đích đạt được một sở đắc th́ đó chỉ là một h́nh thức khác của tham lam, muốn được an lạc, chạy trốn đau khổ, hoặc muốn có một uy lực siêu việt, và như thế chỉ tạo mâu thuẫn và dồn nén, có thể thay đổi bộ mặt nhưng không thay đổi bản chất của tính dục. V́ vậy bước đầu dùng tinh tấn - chánh niệm - tỉnh giác để khám phá ra tánh tướng (bản chất và hiện tượng) của các vọng động (triền cái) hay nói theo phân tâm học là các khuynh hướng của tính dục, tức là ta làm được công việc hữu thức hóa vô thức mà các nhà phân tâm học dùng để chữa trị các chứng bệnh tâm thần do sự mâu thuẫn dồn nén giữa các khuynh hướng tính dục mang lại. Như vậy thiền định đúng là cách tốt nhất để hóa giải và thăng hoa các dồn nén, ngăn ngừa tiến tŕnh vô thức hóa của ẩn ức.

 

Con hăy tự chiêm nghiệm (lắng nghe, soi chiếu) sự sinh diệt của các vọng động che lấp tâm dưới 5 h́nh thức:

 

1. Tham dục: tâm ham muốn, đam mê, đuổi bắt sắc tướng, âm thanh, mùi vị và sự xúc chạm của thân tạo ra cảm thọ lạc.

 

2. Sân nhuế: tâm bất măn, bực bội, bức rức, nôn nóng đối với những cảm thọ khổ.

 

3. Hôn trầm thụy miên: tâm thụ động, thiếu hăng hái, không quyết tâm, không chịu khởi tâm hướng đến hành xứ (đề mục, đối tượng hay công án thiền), lơ đễnh hoặc quên lăng hành xứ, xuất hiện rơ nét nhất là buồn ngủ, dă dượi, uể oải, tiêu cực.

 

4. Trạo hối: tâm nghĩ tưởng (suy nghĩ và tưởng tượng) quá khứ, vị lai, phóng ngoại, quá phấn khích. Nếu tham dục phóng ngoại trên các đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc th́ trạo hối chạy theo pháp trần (hồi tưởng quá khứ, tưởng tượng tương lai, ư tưởng, ư niệm, tư tưởng và sự hối tiếc). Nếu như hôn trầm thụy miên là thụ động tiêu cực, th́ trạo hối lại quá tích cực giao động. V́ vậy nó chính là tâm viên ư mă.

 

5. Nghi: tâm không yên, hoang mang, bất định, phân vân, thiếu xác tín, thiếu trầm ổn, không biết an trú nơi đâu.

 

Khi bắt đầu thiền định con chọn một hành xứ, nên chọn một hành xứ trên chính ḿnh, chẳng hạn hơi thở. Con ngồi ngay nắn nhưng thư giăn, thoải mái, buông xả nghỉ ngơi hoàn toàn, giống như khi con làm xong một việc ǵ, tự cho phép ḿnh buông xả nghỉ ngơi thoải mái vậy. Khi thấy thân tâm đă thư giăn thoải mái, con bắt đầu hướng tâm đến hơi thở (từ chuyên môn gọi là tầm), kèm theo một sự chú tâm, gắn bó vào thơi thở như là đối tượng độc nhất (thuật ngữ thiền gọi là tứ). Con để ư sẽ thấy nếu tầm được khởi đúng mức th́ không có hôn trầm thụy miên, như vậy hôn trầm thụy miên đă được hóa giải, thăng hoa thành một chi thiền. Nếu tứ đươc khởi đúng mức th́ tâm duy tŕ, đứng vững trên đối tượng (hành xứ) và nghi đă được hóa giải, thăng hoa thành chi thiền thứ hai. Nếu hai chi thiền tầm và tứ đươc ổn định th́ liền phát sinh một số trạng thái hỷ như nổi ốc khắp toàn thân, nhẹ nhàng như bay lơ lửng, cảm thấy lắc lư rất đều đặn như đưa vơng hoặc ngồi trên thuyền, cảm thấy mát lạnh dễ chịu như khi nóng mà đươc trầm ḿnh trong nước, thấy ánh sáng trước mặt hoặc bao quanh ḿnh. Nếu có những trạng thái khác những trạng thái trên, chẳng hạn thấy một cảnh tượng đẹp đẽ hoặc ghê rợn là không đúng. Cảm thọ hỷ phải là những phản ứng trên thân do ly dục hoặc do định tâm đem lại. Nếu không chỉ có thể là:

 

1. Ảo tưởng hoặc ảo giác đối với nguời quá tham vọng và giàu tưởng tượng.

 

2. Một h́nh thức chiêm bao xuất hiện từ vô thức do dồn nén.

 

3. Một lực tác động từ bên ngoài đối với người mê tín (người ta gọi nôm na là điển nhập).

 

Thiền định phải loại bỏ 3 loại ấn chứng giả này, nếu không có thể đưa đến bệnh tâm thần hoặc là thiền bệnh.

 

Khi ấn chứng hỷ đúng đắn phát sinh th́ sân nhuế đựơc hóa giải và thăng hoa thành thiền chi thứ ba. Nó giúp cho hành giả hưởng được hỷ duyệt của thiền định và duy tŕ thiền định lâu dài không chán nản, không khó chịu như lúc đầu.

 

Dần dần lắng dịu và đi đến một trạng thái an lạc thư thái, hành giả cảm thấy như khi đói mà được một món ăn vừa ư, thỏa măn, no đủ. Hỷ (piti) khác với lạc (sukha): một bên có cảm thọ mạnh làm cho thân tâm phấn chấn, một bên có cảm thọ khinh nhu làm cho thân tâm lắng dịu để bước váo ổn định. Khi ấn chứng an lạc này phát sinh th́ trạo cử được hóa giải và thăng hoa thành thiền chi thứ tư, tâm không giao động (trạo hối) nữa.


An lạc làm lắng dịu tâm và đưa vào ổn định, lúc đó trạng thái nhất tâm, kiên định và cảm thọ quân b́nh (xả) phát sinh, tâm được hoàn toàn an chỉ. Khi định xả phát sinh th́ tham dục đươc hóa giải và thăng hoa thành thiền chi thứ năm.

 

Như vậy với tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác, con có thể thực hiện được ba mục đích của thiền định: sáng suốt trở về với chính ḿnh để thấy rơ sự sinh diệt của các triền cái, hóa giải các triền cái, và thăng hoa thành các thiền chi (yếu tố của tâm định). Định như vậy mới phát sinh trí tuệ, mới được đặt vào tŕnh tự của con đường giác ngộ giải thoát.

 

Có một trường hợp hành giả có thể lấy tâm không làm hành xứ (tâm không là trạng thái tâm sáng suốt định tĩnh trong lành chứ không phải vô tâm trống rỗng), ngồi buông xả hoàn toàn không nghĩ ngợi ǵ cả, không chú tâm vào một đề mục hữu tướng nào (nhưng thật ra có chú tâm vào tâm không). Thiền như vậy nếu tŕnh độ tâm và tuệ đă cao th́ hay, nhưng nếu tâm và tuệ c̣n kém th́ sẽ rơi vào một thiền bệnh khá nguy hiểm là trầm không trệ tịch, tức bị kẹt vào không, chấp không, tưởng vô tâm trống rỗng là cứu cánh, v́ vậy mà một số vị Tổ phái Trúc Lâm Yên Tử phải cảnh cáo: ‘Mạc vị vô tâm vân thị đạo, vô tâm do cách nhất trùng quan’ (đừng bảo vô tâm là chính đạo, vô tâm c̣n cách một ngăn rào). Có người đạt được vô tâm tưởng là kiến tánh lại càng là thiền bệnh nặng hơn. Cho nên các thiền sư phải cảnh cáo ‘thức đắc bổn tâm bổn tánh, chính thị tông môn đại bệnh’ (thấy ḿnh đă đạt bổn tâm bổn tánh chính là đại bệnh của thiền).

 

Tốt hơn con không nên lấy đề mục tâm không làm hành xứ trừ phi con dùng nó như một lối thư giăn nghỉ ngơi (relaxation) th́ được. C̣n thiền định th́ nên lấy hơi thở làm hành xứ là tốt nhất, nhớ là chỉ theo dơi hơi thở tự nhiên, không cố gắng điều khiển hơi thở như yoga, khí công ǵ cả. Và nhớ đừng vẽ vời thêm bất cứ ǵ bên cạnh hơi thở gần gũi và giản dị của ḿnh.

 

Nếu áp dụng những yếu tố tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác và chánh định th́ con nên thực hiện thế này:

 

1. Lúc động, tức lúc sinh hoạt b́nh thường: tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác nhiều hơn, định ít hơn.

 

2. Lúc tịnh, tức lúc có điều kiện ngồi thiền th́ chánh niệm, tỉnh giác, định nhiều hơn, tinh tấn ít hơn.

 

Tuy nhiên nếu không đủ điều kiện th́ không nên cố gắng định tâm một cách gượng gạo, đừng dùng ư chí quá nhiều. Tốt hơn chỉ nên ngồi dưỡng thần (nhưng cũng phải đúng theo phương pháp thiền định nói trên).

 

Kiểm tra thành quả con đừng y cứ trên sở đắc những trạng thái mà chỉ nên xem lại:

 

- Đă thấy rơ và chủ động được 5 triền cái và 5 thiền chi chưa?

 

- Có ĺa bớt những lôi cuốn, ràng buộc, đam mê trong 5 trần (ngoại cảnh) không?

 

- Có đoạn giảm được các ác pháp như tham, sân, si, ngă mạn, ích kỷ, tà kiến không?

 

- Có thấy được các tiến tŕnh sinh diệt của tâm sinh lư không?

 

Bởi v́ con nhớ rằng chữ Thiền (Jhàna) có nghĩa là soi sáng hay đốt cháy phiền năo; là ly huyễn, là nhật tổn (càng ngày càng bớt ngă chấp và bất thiện pháp) chứ không phải là ‘tôi đă đựơc trạng thái này, tôi đă đắc trạng thái kia’ để làm giàu cho bản ngă, để thoả măn tham vọng của tính dục.

 

Nếu trong khi hành có biến chuyển ǵ con nên cho thầy biết sớm.

 

Chúc con an vui.

 

Thầy

 

-ooOoo-