Tuyển Tập Thư Thầy
Tỳ kheo Viên Minh
Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy
Lá Thư Thứ 30
Lá
thư thứ 30
Ngày…
tháng… năm…
H.C.
con,
Thầy
đă nhận đươc thư con qua chị HN, và nhất
là được xem một số h́nh con chụp chung với
chị LT và các sư.
Rất
tiếc là qua thư từ thầy không làm được
công việc của một nhà phân tâm học để giúp
con giải tỏa một số stress do quá tŕnh phấn
đấu nội tâm của con gây ra. Nhưng thầy nghĩ
rằng quá tŕnh sống đạo giữa cuộc đời
phức tạp tất nhiên lúc đầu không sao tránh khỏi
những khó khăn nào đó. Con có quyền vận dụng
cách tu tập tùy ư miễn là phải tự tin, trầm tĩnh
và sáng suốt.
Thầy
nói tự tin là v́ không nên sợ hăi khi thấy ḿnh phải
đối diện với những mâu thuẫn nội tâm.
Mặc dù con người th́ đều có bản năng,
t́nh cảm, tính dục và mâu thuẫn dồn nén như nhau,
nhưng giữa chúng ta, những người sống đạo
với người không sống đạo khác xa nhau lắm.
Một bên là mê mờ, một bên là tỉnh thức. Hăy tin
vào sự tỉnh thức của ḿnh như vị thầy
dẫn đường luôn luôn có mặt bên ta. Sở dĩ
những người bạn của con đang bị biến
chứng của dồn nén là v́ họ chỉ sống với
bản năng, t́nh cảm, ư chí và lư trí mà chưa bao giờ
tỉnh thức, chưa bao giờ thắp lên ngọn
đuốc của trí tuệ để soi sáng chính ḿnh.
Chúng ta cũng như họ thôi, nhưng nếu chúng ta thắp
sáng chính ḿnh th́ không phải là biến chứng của dồn
nén mà lại là giác ngộ giải thoát và diệu dụng
đấy con ạ.
Thế
tại sao con phải sợ. Một vị thiền sư
nói rằng ‘đừng sợ vọng khởi chỉ sợ
không giác kịp’, nghĩa là chỉ sợ không sáng suốt,
tỉnh giác mà thôi. Con đừng nghĩ rằng thầy có
một phương pháp phi thường nào đó đầy
bí ẩn hay rất phức tạp khó khăn để trở
thành một con người siêu việt, chung qui pháp hành hàng
ngày của thầy ch́ là sáng suốt, định tĩnh,
trong lành trong mọi sinh hoạt của đời sống
từ ngoại giới đến nội tâm, từ hành
động đến ư nghĩ để không tự
ḿnh nhận ch́m ḿnh vào trong thế giới huyễn hóa do
ḿnh tạo ra.
Con
thích thiền định? Đó là một ư hướng tốt nhưng cũng có thể là một
trong những mâu thuẫn đưa đến dồn nén của
con hiện nay. Thiền định phải hiểu và hành
đúng mức bằng không sẽ là con dao hai lưỡi: một
là thăng hoa thành diệu dụng, hai là dồn nén và sinh ra
biến chứng tâm thần.
Thiền
định là một mức sống tâm linh cao nhưng nó có
nhiều hướng tùy theo người thực hiện
nó. Nói chung có ba hướng (mục đích):
- Để giữ ǵn sức khỏe
(như hatha yoga, thiền dưỡng sinh., luyện đan,
khí công v.v…)
- Để đạt được
một số tạng thái tâm linh: hỷ lạc, xuất thần
v.v.. (như ràja yoga, tu tiên, thiền xuất hồn….)
- Để đạt được
một số khả năng, pháp thuật, hoặc thần
thông (như một số phái thiền của Mật tông,
chú thuật, thôi miên v.v…)
Những
mục đích trên dù tốt hay xấu cũng không phải
mục đích chân chính của Đạo Phật. V́ vậy
mà Thiền Tông đă loại thiền định ra ngoài xem
đó như đá đè cỏ, hoặc mài gạch thành
gương, không bao giờ thấy tánh.
Nhưng
Đức Phật v́ hiểu rất rơ tính chất của
thiền định nên Ngài không loại trừ nó. Ngài chỉ
cảnh giác rằng đừng quá đam mê, đắm ch́m
trong đó mà thôi. Ngài vẫn đặt nó vào tŕnh tự của
đạo v́ đối với Ngài phương tiện này
nếu khéo sử dụng vào mục đích chân chính sẽ
là lợi ích lớn cho hành tŕnh giác ngộ giải thoát.
Thiền
Định trong Đạo Phật không chấp nhận ba
mục đích nêu trên nhưng xem đó như là kết quả
phụ tùy. Chánh định có ba mục đích khác:
1/ Làm lắng dịu và hóa giải những
vọng động che lấp tâm khiến tâm mê mờ, mất
khả năng và khó sử dụng. Đây là yếu tố
Chánh Tinh Tấn trong thiền định.
2/ Trở về chính ḿnh, không hướng
ngoại, không để ngoại cảnh lôi cuốn và chi
phối. Đây là yếu tố Chánh Niệm trong thiền
định, thuờng đi đôi với tỉnh giác.
3/ An chỉ nhất tâm, giải thoát
khỏi ngũ dục (sắc định) hoặc giải
thoát khỏi sắc tưởng (vô sắc định) nhờ
vậy tâm được buông xả, nghỉ ngơi, tĩnh
dưỡng, ổn định và kiên cố.
Sở
dĩ chúng ta bị phiền năo, khổ đau, căng thẳng,
dồn nén là do tâm bị lôi cuốn ra ngoài quá nhiều (thất
niệm), sinh ra phóng dật, vọng động (thiếu
tinh tấn), không giữ được quân b́nh thư thái,
an ổn (thiếu định). V́ vậy thiền định
trước tiên là trở về với chính ḿnh (chánh niệm),
thắp sáng chính ḿnh (tỉnh giác), để phát hiện sự
sinh diệt của các vọng động (5 triền cái),
chế ngự, ổn định chúng (tinh tấn) và an chỉ
ở đó (chánh định). Khi nguời ta có tham vọng
tập trung tư tưởng vào một đối tượng
nào đó với mục đích đạt được một
sở đắc th́ đó chỉ là một h́nh thức khác
của tham lam, muốn được an lạc, chạy trốn
đau khổ, hoặc muốn có một uy lực siêu việt,
và như thế chỉ tạo mâu thuẫn và dồn nén, có
thể thay đổi bộ mặt nhưng không thay đổi
bản chất của tính dục. V́ vậy bước
đầu dùng tinh tấn - chánh niệm - tỉnh giác
để khám phá ra tánh tướng (bản chất và hiện
tượng) của các vọng động (triền cái) hay
nói theo phân tâm học là các khuynh hướng của tính dục,
tức là ta làm được công việc hữu thức
hóa vô thức mà các nhà phân tâm học dùng để chữa
trị các chứng bệnh tâm thần do sự mâu thuẫn
dồn nén giữa các khuynh hướng tính dục mang lại.
Như vậy thiền định đúng là cách tốt nhất
để hóa giải và thăng hoa các dồn nén, ngăn ngừa
tiến tŕnh vô thức hóa của ẩn ức.
Con
hăy tự chiêm nghiệm (lắng nghe, soi chiếu) sự
sinh diệt của các vọng động che lấp tâm
dưới 5 h́nh thức:
1. Tham dục: tâm ham muốn,
đam mê, đuổi bắt sắc tướng, âm thanh,
mùi vị và sự xúc chạm của thân tạo ra cảm
thọ lạc.
2. Sân nhuế: tâm bất măn, bực bội, bức
rức, nôn nóng đối với những cảm thọ khổ.
3. Hôn trầm thụy miên: tâm thụ
động, thiếu hăng hái, không quyết tâm, không chịu
khởi tâm hướng đến hành xứ (đề mục,
đối tượng hay công án thiền), lơ đễnh
hoặc quên lăng hành xứ, xuất hiện rơ nét nhất là
buồn ngủ, dă dượi, uể oải, tiêu cực.
4. Trạo hối: tâm nghĩ
tưởng (suy nghĩ và tưởng tượng) quá khứ,
vị lai, phóng ngoại, quá phấn khích. Nếu tham dục
phóng ngoại trên các đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc th́ trạo hối chạy theo pháp trần
(hồi tưởng quá khứ, tưởng tượng
tương lai, ư tưởng, ư niệm, tư tưởng
và sự hối tiếc). Nếu như hôn trầm thụy
miên là thụ động tiêu cực, th́ trạo hối lại
quá tích cực giao động. V́ vậy nó chính là tâm viên ư
mă.
5. Nghi: tâm không yên, hoang mang, bất
định, phân vân, thiếu xác tín, thiếu trầm ổn,
không biết an trú nơi đâu.
Khi
bắt đầu thiền định con chọn một
hành xứ, nên chọn một hành xứ trên chính ḿnh, chẳng
hạn hơi thở. Con ngồi ngay nắn nhưng thư
giăn, thoải mái, buông xả nghỉ ngơi hoàn toàn, giống
như khi con làm xong một việc ǵ, tự cho phép ḿnh buông
xả nghỉ ngơi thoải mái vậy. Khi thấy thân
tâm đă thư giăn thoải mái, con bắt đầu hướng
tâm đến hơi thở (từ chuyên môn gọi là tầm),
kèm theo một sự chú tâm, gắn bó vào thơi thở
như là đối tượng độc nhất (thuật
ngữ thiền gọi là tứ). Con để ư sẽ thấy
nếu tầm được khởi đúng mức th́
không có hôn trầm thụy miên, như vậy hôn trầm thụy
miên đă được hóa giải, thăng hoa thành một
chi thiền. Nếu tứ đươc khởi đúng mức
th́ tâm duy tŕ, đứng vững trên đối tượng
(hành xứ) và nghi đă được hóa giải, thăng
hoa thành chi thiền thứ hai. Nếu hai chi thiền tầm
và tứ đươc ổn định th́ liền phát
sinh một số trạng thái hỷ như nổi ốc khắp
toàn thân, nhẹ nhàng như bay lơ lửng, cảm thấy
lắc lư rất đều đặn như
đưa vơng hoặc ngồi trên thuyền, cảm thấy
mát lạnh dễ chịu như khi nóng mà đươc trầm
ḿnh trong nước, thấy ánh sáng trước mặt hoặc
bao quanh ḿnh. Nếu có những trạng thái khác những trạng
thái trên, chẳng hạn thấy một cảnh tượng
đẹp đẽ hoặc ghê rợn là không đúng. Cảm
thọ hỷ phải là những phản ứng trên thân do
ly dục hoặc do định tâm đem lại. Nếu
không chỉ có thể là:
1. Ảo tưởng hoặc ảo
giác đối với nguời quá tham vọng và giàu tưởng
tượng.
2. Một h́nh thức chiêm bao xuất
hiện từ vô thức do dồn nén.
3.
Một lực tác động từ bên ngoài đối với
người mê tín (người ta gọi nôm na là điển
nhập).
Thiền
định phải loại bỏ 3 loại ấn chứng
giả này, nếu không có thể đưa đến bệnh
tâm thần hoặc là thiền bệnh.
Khi
ấn chứng hỷ đúng đắn phát sinh th́ sân nhuế
đựơc hóa giải và thăng hoa thành thiền chi thứ
ba. Nó giúp cho hành giả hưởng
được hỷ duyệt của thiền định
và duy tŕ thiền định lâu dài không chán nản, không khó
chịu như lúc đầu.
Dần
dần lắng dịu và đi đến một trạng
thái an lạc thư thái, hành giả cảm thấy như
khi đói mà được một món ăn vừa ư, thỏa
măn, no đủ. Hỷ (piti) khác với lạc (sukha):
một bên có cảm thọ mạnh làm cho thân tâm phấn chấn,
một bên có cảm thọ khinh nhu làm cho thân tâm lắng dịu
để bước váo ổn định. Khi ấn chứng
an lạc này phát sinh th́ trạo cử được hóa giải
và thăng hoa thành thiền chi thứ tư, tâm không giao
động (trạo hối) nữa.
An lạc làm lắng dịu tâm và đưa vào ổn định,
lúc đó trạng thái nhất tâm, kiên định và cảm
thọ quân b́nh (xả) phát sinh, tâm được hoàn toàn an
chỉ. Khi định xả phát sinh th́ tham dục
đươc hóa giải và thăng hoa thành thiền chi thứ
năm.
Như
vậy với tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác, con có
thể thực hiện được ba mục đích
của thiền định: sáng suốt trở về với
chính ḿnh để thấy rơ sự sinh diệt của các
triền cái, hóa giải các triền cái, và thăng hoa thành
các thiền chi (yếu tố của tâm định). Định như vậy mới phát sinh
trí tuệ, mới được đặt vào tŕnh tự
của con đường giác ngộ giải thoát.
Có
một trường hợp hành giả có thể lấy tâm
không làm hành xứ (tâm không là trạng thái tâm sáng suốt
định tĩnh trong lành chứ không phải vô tâm trống
rỗng), ngồi buông xả hoàn toàn không nghĩ ngợi ǵ
cả, không chú tâm vào một đề mục hữu tướng
nào (nhưng thật ra có chú tâm vào tâm không). Thiền
như vậy nếu tŕnh độ tâm và tuệ đă cao
th́ hay, nhưng nếu tâm và tuệ c̣n kém th́ sẽ rơi
vào một thiền bệnh khá nguy hiểm là trầm không
trệ tịch, tức bị kẹt vào không, chấp
không, tưởng vô tâm trống rỗng là cứu cánh, v́ vậy
mà một số vị Tổ phái Trúc Lâm Yên Tử phải cảnh
cáo: ‘Mạc vị vô tâm vân thị đạo, vô tâm do cách
nhất trùng quan’ (đừng bảo vô tâm là chính đạo,
vô tâm c̣n cách một ngăn rào). Có người đạt
được vô tâm tưởng là kiến tánh lại càng
là thiền bệnh nặng hơn. Cho nên các thiền sư
phải cảnh cáo ‘thức đắc bổn tâm bổn
tánh, chính thị tông môn đại bệnh’ (thấy ḿnh
đă đạt bổn tâm bổn tánh chính là đại bệnh
của thiền).
Tốt
hơn con không nên lấy đề mục tâm không làm
hành xứ trừ phi con dùng nó như một lối thư
giăn nghỉ ngơi (relaxation) th́ được. C̣n thiền
định th́ nên lấy hơi thở làm hành xứ là tốt nhất, nhớ
là chỉ theo dơi hơi thở tự nhiên, không cố gắng
điều khiển hơi thở như yoga, khí công ǵ cả.
Và nhớ đừng vẽ vời thêm bất cứ ǵ bên
cạnh hơi thở gần gũi và giản dị của
ḿnh.
Nếu
áp dụng những yếu tố tinh tấn, chánh niệm,
tỉnh giác và chánh định th́ con nên thực hiện thế
này:
1. Lúc động, tức lúc sinh hoạt
b́nh thường: tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác
nhiều hơn, định ít hơn.
2. Lúc tịnh, tức lúc có điều
kiện ngồi thiền th́ chánh niệm, tỉnh giác,
định nhiều hơn, tinh tấn ít hơn.
Tuy
nhiên nếu không đủ điều kiện th́ không nên cố
gắng định tâm một cách gượng gạo,
đừng dùng ư chí quá nhiều. Tốt hơn chỉ nên ngồi
dưỡng thần (nhưng cũng phải đúng theo
phương pháp thiền định nói trên).
Kiểm
tra thành quả con đừng y cứ trên sở đắc
những trạng thái mà chỉ nên xem lại:
- Đă thấy rơ và chủ động
được 5 triền cái và 5 thiền chi chưa?
- Có ĺa bớt những lôi cuốn,
ràng buộc, đam mê trong 5 trần (ngoại cảnh) không?
-
Có đoạn giảm được các ác pháp như tham,
sân, si, ngă mạn, ích kỷ, tà kiến không?
-
Có thấy được các tiến tŕnh sinh diệt của
tâm sinh lư không?
Bởi
v́ con nhớ rằng chữ Thiền (Jhàna) có nghĩa
là soi sáng hay đốt cháy phiền năo; là ly huyễn,
là nhật tổn (càng ngày càng bớt ngă chấp và bất
thiện pháp) chứ không phải là ‘tôi đă đựơc
trạng thái này, tôi đă đắc trạng thái kia’ để
làm giàu cho bản ngă, để thoả măn tham vọng của
tính dục.
Nếu
trong khi hành có biến chuyển ǵ con nên cho thầy biết
sớm.
Chúc
con an vui.
Thầy
-ooOoo-