Tuyển Tập Thư Thầy
Tỳ kheo Viên Minh
Phật tử TTNM đánh máy từ tuyển tập Thư Thầy
Lá Thư Thứ 26
Lá
thư thứ 26
Ngày…
tháng… năm…
T.U.
con,
Thầy
trả lời thư con hơi chậm, mấy lúc này thầy
không được rảnh lắm. Có một số vấn
đề c̣n tồn tại nơi con mà con cần phải
có có thái độ dứt khoát, không phân vân nghi ngờ. Tính
con có hai đặc điểm rơ nét là lư trí và mặc cảm.
1/
Về lư tŕ, nó là con dao hai lưỡi, vừa có thể
đi với tuệ để trở thành trí tuệ, vừa
có thể đi với vô minh để trở thành tà kiến,
vọng thức. Phân vân nghi ngờ là mặt trái của lư
trí. Đức Phật dạy: ‘Đức tin nhiều
hơn lư trí th́ sinh tham, lư trí nhiều hơn đức tin
thành ra nghi.’
Con
có thói quen phân tích, suy diễn một số vấn đề
rộng ra mà theo thầy chỉ cần thấy vấn
đề một cách tổng quát giản dị, hoặc thấy
một số yếu tố có liên hệ đến tu tập
là đủ. Khi đề cập
một vấn đề Đức Phật chỉ nói những
khía cạnh cần thiết cho con đường giác ngộ
giải thoát mà thôi. Những điều cần phải nói
như lá trong nắm tay c̣n những điều dù biết cũng
không cần phải nói th́ như lá trong rừng. Có như vậy
mới lấy được lơi cây, không lấy vỏ cây.
Kinh
Dịch nói: ‘Dị giản nhi thiên hạ chi lư đắc
hỷ’, hoặc Lăo Tử dạy: ‘Cố tri chỉ kỳ
sở bất tri chí hỷ’. Dị giản và dừng cái
biết lại chỗ không biết chính là khai mở con mắt
tuệ, không phải con mắt lư trí vọng thức. Thánh
Kinh dạy: ‘Hăy trở nên như con trẻ’, hoặc
Đức Phật khuyên thấy cái thấy như thực
đều với nghĩa dẹp bỏ lư trí vọng thức
để trở về cái biết như thực. Lăo Tử nói ‘khí trí’ hoặc ‘tỏa
kỳ nhuệ, giải kỳ phân’ cũng đều với
nghĩa ấy. Krishnamurti th́ nói là giải trừ kiến
thức, dẹp bỏ kinh nghiệm đều có mục
đích khuyên con người bớt phân biệt, bớt lư
luận, bớt tưởng tượng để cho cái
thấy biết (tri kiến) trở nên sáng suốt trong
lành. Nếu không làm như vậy lư trí sẽ đồng
nghĩa với khổ đau.
Để
cân bằng lư trí và đức tin cần phải tu tập
chánh niệm. Chánh niệm sở dĩ được hầu
hết các tông phái vận dụng hàng đầu v́ nó là pháp
dẫn đầu các thiện pháp. Chánh niệm tức không
thất niệm, c̣n một tên khác là không phóng dật
(appamàdo). Đức Phật dạy: ‘Một pháp có nhiều
tác dụng trong các thiện pháp là không phóng dật
(Appamàdo kusalesu dhammesu ayam eko dhammo bahu-kàro).
Giới
chính là chánh niệm trên hành động của thân và khẩu,
v́ vậy giới được gọi là điều học
(sikkhàpadam). Không sát sanh có nghĩa là chánh niệm để
giữ thân không hành động sát hại sinh mạng. Không
nói dối có nghĩa là chánh niệm để giữ khẩu
không nói lời không thật v.v… Những người
điên, những người đăng trí không thể giữ
giới v́ không có chánh niệm.
Những
pháp khác như chánh định cũng nhờ chánh niệm
để tập trung sự chú tâm, chánh tinh tấn cũng
nhờ chánh niệm để thấy rơ pháp cần phải
làm, pháp cần phải bỏ, chánh tư duy không có chánh niệm
sẽ trở thành vọng tưởng v.v….
2/ Về các mặc cảm, thầy
thấy dường như con đang bị một mặc
cảm nào đó chi phối sâu xa. Chính những mặc cảm
này biến dạng từ tự ti đến tự tôn, từ
t́nh cảm thành lư trí do đó phát sinh những đắn
đo, phê phán, suy luận, tưởng tượng thành kiến…
Mặc
dù con nói con chịu đựơc thiệt tḥi khi sống
theo đạo đức, nhưng cả trong 3 bức
thư lời lẽ của con vẫn đầy tính chất
bất măn đến nỗi thầy có cảm giác như
khi con viết ‘nguời ngay mắc nạn; càng ngay thẳng
thật thà bao nhiêu càng gặp nhiều thiệt tḥi, cay
đắng bấy nhiêu’ v.v… con đang bị bất măn
chi phối một cách vô thức.
Hăy
cảnh giác, đừng để những tư tưởng
như thế gặm nhấm tâm hồn con nữa. Những
tư tưởng đến gần như thành kiến do
mặc cảm tạo ra ấy mới thật là nguy hiểm
mà nếu không kịp thời chế ngự hoặc đoạn
trừ th́ con không sao có thể tiến sâu hơn vào nội
tâm an ổn, trong lành.
Đức
Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: ‘Nó lăng mạ tôi, chiến
thắng tôi, cướp giật của tôi. Người nào
c̣n ôm ấp những ư tưởng tương tự th́
ḷng oán hận chẳng bao giờ nguôi’. Trước
đây trên đường học đạo con có thể
đă hiểu lầm rằng tu hành sẽ đuợc
hưởng phước báu như mạnh khỏe, giàu
sang, danh vọng, địa vị, thiên sắc, thiên lạc
v.v… Điều đó không hẳn là sai nhưng cũng không
hoàn toàn đúng nếu như người tu hành xem đó là
mục đích hay ít ra cũng là phần thưởng cho sự
tinh tấn của ḿnh.
Con
muốn an ổn giải thoát, hay muốn đạt
được tịnh lạc th́ điều kiện tiên
quyết là phải loại trừ hỷ tham, ái luyến
đối với các phần thưởng ấy. Có thể
v́ một lư do nào đó một người tu hành được
những thuận lợi hữu lậu trên, nhưng tuyệt
đối phải cảnh giác đừng để đắm
ch́m, đừng để đắm trước, đừng
dừng lại ở mục đích ấy, trái lại thà
chịu thiệt tḥi c̣n hơn.
Có thể rằng nguời tu hành v́ chưa thấy
được lợi ích của phước báu vô lậu
nên vẫn c̣n luyến tiếc những phước báu hữu
lậu, vẫn chưa từ bỏ được sự
hấp dẫn, khả hỷ, khả lạc, khả ư của
phước báu hữu lậu, vẫn c̣n tật đố
đối với những người có phước báu hữu
lậu. Nếu con thực sự hiểu đạo th́
đừng tỏ ra bất măn với những thiệt
tḥi, đừng tỏ ra phân vân nghi hoặc khi phải ‘lựa
chọn giữa ngay thật và gian dối’ nữa.
3/ Người tu hành đừng thấy
hơn người khác. Thật ra thành quả của sự
tu hành chẳng có công lao ǵ cả. Chúng ta tự tập nhiễm
những thói hư tật xấu khiến rối loạn
thân tâm nay ư thức được phải tự tu sửa
để tự ổn định ḿnh như vậy
đâu có ǵ đáng hănh diện mà trái lại đáng hổ
thẹn là khác.
Tóm
lại mặc cảm tự ti hay tự tôn đếu có
nghĩa là thuộc vào giá trị bên ngoài. Phải quên bên
ngoài để tu tập bên trong th́ tự nhiên tất cả
mặc cảm, tất cả lư trí vọng thức diều
dần dần lùi bước.
Chúc con đạt được sự an ổn chính ḿnh
trên hành tŕnh tự tu, tự giác.
Thầy
-ooOoo-