Giảng giải Kinh Từ Bi
(Metta Sutta)
Tỳ kheo Giác Đẳng
Hôm nay chúng tôi giảng về bài Đại Từ Bi Kinh. Bài kinh th́ dài nhưng rất tiếc theo th́ giờ sắp xếp chúng ta chỉ có 40 phút. Tuy vậy, chúng tôi sẽ cố gắng để quư vị có một ít ư niệm về bài Từ Bi Kinh.
Đầu tiên, tôi xin nói sơ một chút về lịch sử của bài kinh này. Bài Kinh được trích từ bộ Sutta Nipata (Kinh Tập), trong Tiểu Bộ Kinh của Kinh Tạng Pali. Ở trong Chú giải có đề cập đến nguồn gốc của bài Từ Bi Kinh. Ở trong Chánh tạng th́ để nguyên bản là bài Kinh mà chúng ta đang tụng đọc. Ở trong Chú giải ghi rằng, vào thời Đức Phật có nhiều vị Tỳ Kheo vào rừng để tu tập cũng như chúng ta hôm nay t́m lên rừng núi để tu tập vậy. Khi vào sống trong rừng th́ trú xứ của chư vị là các cội cây. Nhưng v́ giới đức trong sạch của các vị lúc phát triển thiền định đă làm nóng nảy các vị chư thiên bậc thấp ở chung quanh. Họ cảm thấy bất an nên nghĩ cách khiến các vị Tỳ Kheo rời bỏ khu rừng, trả lại trú xứ cho họ. Những loại phi nhân này biến hiện thành những quái vật làm kinh sợ các vị Tỳ Kheo. Chư vị Tỳ Kheo hành thiền định trở về gặp Đức Phật để tŕnh bày những khó khăn gặp phải trong rừng vắng và Đức Phật v́ ḷng từ mẫn đă truyền dạy bài kinh với nhiều mục đích.
Mục đích thứ nhất đây là bài kinh để các vị Tỳ Kheo hành thiền trong rừng tŕ tụng. Việc tŕ tụng này sẽ đem lại sự an lành, mát mẻ đối với những loài chúng sanh ở chung quanh, hữu h́nh hay vô h́nh, nghĩa là có mặt lẫn khuất mặt.
Điểm thứ hai , bản kinh chứa đựng nghĩa lư cũng như phương thức tu học về ḷng Từ bi. Điều này sẽ giúp cho các vị Tỳ Kheo tăng tiến trong đời sống tu tập, đặc biệt phương pháp tu tập về ḷng Từ. Ngoài ra, ở các khóa gia Phật giáo, đây là một bài kinh quan trọng v́ giá trị lịch sử của nó: Bài kinh đă được Đức Phật thuyết như một thứ kinh hộ mạng cho các vị Tỳ Kheo hành thiền ở những nơi hoang vắng nguy hiểm. Bài kinh được tŕ tụng như một trong những bài kinh quan trọng thuộc về kinh Paritta tức là Kinh Cầu An, kinh an lành hay là kinh hộ tŕ . Những bài kinh này mang lại năng lực an lành cho các vị Tỳ Kheo, những nam cư sĩ, nữ cư sĩ và bài kinh này trở nên rất phổ thông, cơ hồ như trong những dịp tụng kinh an lành đều có tụng bài kinh này. Thực sự Thầy của chúng tôi cũng có đề cập rằng bài kinh này không chỉ tụng để cho người sống được an lành mà người chết cũng hưởng được lợi lạc. Kinh này cũng có thể gọi là kinh âm siêu dương thới. Trong những khóa lễ cầu siêu, chư Tăng cũng có tụng một đoạn trong Từ Bi Kinh này. V́ niềm tin đó, v́ ư nghĩa đó nên bài kinh được phổ biến rất rộng. Hiện nay trong các khóa lễ đại chúng, đặc biệt là khóa lễ Cầu an đều có tŕ tụng bài kinh này. Như vậy một cách tổng quát, quư vị đă có thể biết sơ lược về bài kinh.
Hôm nay chúng ta cùng lắng tâm để t́m hiểu lời kinh. V́ đây là một bài kinh ngắn nên lời kinh rất xúc tích, ư nghĩa rất cô đọng. Mỗi một đoạn, một câu, một chữ của lời kinh đều có giá trị và chúng ta cần suy nghĩ rất kỹ.
Trước hết chúng tôi giảng về hai chữ Từ Bi để quư vị thấy rơ ư nghĩa thế nào là Từ, thế nào là Bi. Từ Bi thường được nói chung với nhau. Có người hiểu Từ Bi như là tấm ḷng vị tha. Trên thực tế, chữ Từ có nghĩa là một tâm hồn mát mẻ, an ḥa. Tâm hồn đó sở dĩ được mát mẻ, an ḥa v́ nó luôn luôn mong mỏi các chúng sanh khác được hạnh phúc, an lành. Đối tượng của ḷng Từ là tất cả chúng sanh, không phân biệt một ai. Bi là ḷng rung động trước sự đau khổ của chúng sanh. Như vậy Bi hay Bi Mẫn lấy chúng sanh đau khổ làm đối tượng. Dù Từ hay Bi, dù đối tượng có khác nhau nhưng Từ Bi thường đi chung với nhau v́ đối với tất cả chúng sanh, một hành giả tu tập ḷng Từ đều mong mỏi họ được hạnh phúc. Tóm lại, Từ Bi có nghĩa là một tấm ḷng nghĩ đến tha nhân, ở trong ư nghĩ dó không có biên giới phân biệt thân sơ, xa gần, thương ghét. Đó gọi là Từ Bi.
Bài Từ Bi Kinh này chúng tôi sẽ đọc một lần rồi phân đoạn nó ra. quư vị có thể nhớ từng đoạn một và sau đó chúng ta sẽ trở về t́m hiểu ư nghĩa từng đoạn.
Người hằng mong thanh tịnh,
Nên thể hiện pháp lành,
Có khả năng, chất phác,
Hiền
ḥa, không kiêu mạn,
Sống dễ dàng, tri túc,
Thanh đạm, không rộn ràng,
Lục căn luôn trong sáng,
Trí tuệ càng hiển minh,
Chuyên cần, không quyến niệm,
Không làm việc ác nhỏ,
Mà bậc trí hiền chê.
Nguyện thái b́nh an lạc,
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc.
Chúng sanh dù yếu mạnh,
Lớn nhỏ hoặc trung b́nh,
Thấp cao không đồng đẳng
Hết thẩy chúng hữu t́nh,
Ḷng từ không phân biệt,
Hữu h́nh hoặc vô h́nh,
Đă sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết,
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc.
Đừng lừa đảo lẫn
nhau,
Chớ bất măn điều ǵ,
Đừng mong ai đau khổ,
V́ tâm niệm sân si,
Hoặc v́ nuôi oán tưởng.
Như mẹ giàu t́nh thương,
Suốt đời lo che chở,
Đứa con một của ḿnh,
Hăy phát tâm vô lượng,
Đến tất cả sinh linh,
Từ Bi gieo cùng khắp,
Cả thế gian khổ hải,
Trên dưới và quanh ḿnh,
Không hẹp ḥi oan trái,
Không hờn giận căm thù,
Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Bao giờ c̣n thức tỉnh,
Giữ niệm từ bi này,
Thân tâm thường thanh tịnh,
Phạm hạnh chính là đây.
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm tŕ,
Đạt chánh tri viên măn,
Không ai nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sanh tử.
1. Đoạn đầu tiên từ câu: Người hằng mong thanh tịnh, ... đến câu: Tràn đầy muôn hạnh phúc.
Đoạn này Đức Thế tôn đề cập đến những đức tính liên quan đến ḷng Từ. Người nào vốn đă có sẵn những đức tính này th́ việc phát triển ḷng từ đối với họ là một điều vô cùng hiển nhiên. Đây cũng là nhựng đức tính cần thiết để đi song song với ḷng từ. Lát nữa chúng tôi sẽ giảng cho quư vị tại sao lại cần có những đức tính này để đưa ḷng Từ đến một tŕnh độ hoàn hảo.
2. Đoạn hai từ câu: Chúng sanh dù yếu mạnh, ... đến câu: Tràn đầy muôn hạnh phúc.
Đoạn này Đức Thế Tôn đề cập đến đối tượng của ḷng từ. Việc định nghĩa thế nào là một đối tượng, thế nào là những chúng sanh, thế nào là cảnh giới mà ḷng từ chan ḥa, lát nữa chúng ta sẽ đề cập đến. Chúng ta hiểu tại sao Đức Phật đề cập đến những đối tượng có h́nh tướng phân biệt hoặc không phân biệt, dị dạng hay đồng dạng. Ở đây chúng ta chỉ nên hiểu đoạn này Phật đề cập đến đối tượng của ḷng từ.
3. Đoạn 3 từ câu: Đừng lừa đảo lẫn nhau, ... đến câu: Hoặc v́ nuôi oán tưởng.
Ở đây Ngài đề cập đến một số chướng duyên. Bởi v́ nếu chướng duyên hay ác pháp tăng trưởng mạnh mẽ trong ḷng người nào th́ ḷng từ sẽ yếu đi hoặc bị tiêu diệt, gây cản trở không cho hành giả tu tập ḷng từ.
4. Đoạn 4 từ câu: Như mẹ giàu t́nh thương, ... đến câu: Phạm hạnh chính là đây.
Đọan này đáng lẽ chia làm hai nhưng chúng tôi gom thành một đoạn. Trong đoạn này Đức Thế Tôn mượn h́nh ảnh và tâm trạng của một bà mẹ. Bà mẹ đó chỉ có một đứa con duy nhất. Tâm hồn bao la, t́nh thương bát ngát, ngút ngàn của người mẹ đối với đứa con một của ḿnh như thế nào, th́ Đức Phật mượn trạng thái đó để diễn đạt trạng thái của ḷng từ. Ở đây là một thí dụ rất tế nhị mà lát nữa chúng tôi sẽ tŕnh bày cho quư vị thấy tại sao Đức Thế Tôn lại dùng thí dụ này để diễn đạt trạng thái của t́nh thương. Đức Thế Tôn cũng đề cập đến sự khai triển ḷng từ trong điều kiện tu tập ḷng từ của hành giả. Hăy hướng ḷng Từ của ḿnh đến mười phương, tám hướng, đến tất cả khắp nơi. Ḷng Từ này phải được duy tŕ trong những điều kiện tích cực và lúc nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để ǵn giữ nó trong tất cả oai nghi nghĩa là trong mọi thời gian, mọi tác động, mọi tư thế trong đời sống hàng ngày. Đoạn này đề cập chung đến trạng thái ḷng từ và ở trong đó sự phát triển ḷng từ sẽ không ngăn ngại dối với tất cả chúng sanh.
5. Đoạn sau cùng, Đức Phật nói: Ai xả ly kiến thủ, ... Thoát ly đường sanh tử.
Ai xả ly kiến thủ: Người nào xa lià được những vọng chấp, những tư kiến. Đó là những tư kiến ngăn ngại ḷng từ. Ở đây Đức Thế Tôn đề cập đến một kết quả rất thiết thực, rất đáng mong cầu, một kết quả rất là cao: người đó cuối cùng sẽ thành tựu đạo quả giác ngộ, người đó có thể nhờ tâm niệm về ḷng từ mà đưa tŕnh độ tu tập của ḿnh đến nơi viên măn.
Đoạn sau cùng Đức Thế Tôn đề cập đến kết quả, một kết quả sau cùng vừa thiết thực, vừa vi diệu, thù thắng. Đó là đạo quả giải thoát.
-oOo-
Bây giờ tôi sẽ trở lại từ đầu và đi qua từng câu một. Chúng ta không có th́ giờ nên chỉ di qua từng câu một. Mặc dầu nó sẽ khô khan nhưng chúng tôi không có th́ giờ để tŕnh bày vấn đề sâu sát hơn. Mong rằng quư vị sẽ hiểu lời kinh, đặc biệt là khi tŕ tụng.
Người hằng mong
thanh tịnh
Nên thể hiện pháp lành.
Chúng sanh muốn có một đời sống an ḥa, tịnh lạc. Pháp lành tức là những thiện pháp cần được thể hiện cụ thể. Điều này có nghĩa là những ǵ chúng ta nghĩ là tốt, biết là tốt th́ điều đó chưa có nghĩa là cái tốt nó đă thấm nhuần trong người chúng ta. Nó cần được thể hiện cụ thể qua cuộc sống, cần được tu tập, tôi luyện, cần được thể hiện ra bên ngoài bằng hành động qua thân, khẩu và ư. Sự thể hiện như vậy là một trợ duyên khiến cho thiện tâm của chúng ta được tốt lành, phong phú. Chúng tôi lấy thí dụ là quư vị mang thực phẩm đến chùa cúng cho chư tăng, tại sao khi cúng dường cho chư tăng quư vị thừơng đưa tay bưng cái bàn lên và chư tăng đưa hai tay để nhận? Quư vị có thể dọn thức ăn để đó rồi kính mời chư Tăng, nói rằng: "Thực phẩm đă dọn, mời chư Tăng đến ăn" giống như tất cả lời mời ăn uống nào khác mà chúng ta nói với khách. Nhưng tại sao khi thỉnh chư Tăng độ cơm là phải làm như vậy? Ḷng cung kính đó là ư nghiệp. Lời tác bạch mà quư vị đọc ra để cúng dường thực phẩm chư Tăng là khẩu nghiệp. quư vị trao đến tận tay, đó là thân nghiệp. Như vậy đó là sự thể hiện trọn vẹn một pháp lành. Sự thể hiện đó nằm trong thân, khẩu, ư, nó sẽ giúp cho đạo tâm, đạo nghiệp của quư vị được tăng trưởng mạnh mẽ. Đó là sự thể hiện trọn vẹn. Hoặc khi chúng ta đọc kinh cũng vậy. Những lời kinh được đọc thành lời, thân chúng ta ở trong tư thế thành kính, tâm chúng ta hài ḥa trong từng lời kinh, từng cử chỉ, trong từng động tác qùy, chắp tay, lạy xuống. Trong sự thể hiện qua thân, khẩu, ư như vậy th́ thiện nghiệp, thiện tâm của chúng ta sẽ được tôi luyện, huân tập một cách cụ thể và nhờ vậy mới được tăng trưởng.
Như vậy câu đầu tiên: Người hằng mong thanh tịnh, Nên thể hiện pháp lành.Bất cứ những ai mong muốn các thiện pháp phát sanh th́ cần phải thực hiện pháp lành, có khả năng là một, chất phác là hai. Đó là câu kệ chúng ta sắp giảng. Có khả năng là người đó thấy rằng đời sống của ḿnh là đời sống có niềm tin rằng ḿnh có một cái ǵ đó để cống hiến cho đời. Điều này chúng ta có thể làm được.
Một tâm hồn phát triển ḷng từ bi không thể là một tâm hồn yếu đuối, nhu nhược, càng chắc chắn không phải là một tâm hồn thụ động. Khi chúng ta thương người, thương đời th́ chúng ta cảm thấy ḿnh có niềm tin nhiều về khả năng của ḿnh. Và ta cảm thấy đời sống cuả ḿnh không phải là đời sống vô trật tự mà là đời sống có dâng hiến, có khả năng và thực chất của nó. Ở trong niềm tin mạnh mẽ như vậy, ở trong chính khả năng của ḿnh, chúng ta mới nghĩ đến người khác. Những tâm hồn yếu đuối không bao giờ trang trải ḷng từ bi cho người khác, trừ phi họ có niềm tin về chính ḿnh, về khả năng của ḿnh. Yếu tố về khả năng là một yếu tố khác.
Chất phác có nghĩa là một tâm hồn đôn hậu, thuần phác, một tâm hồn giản dị. Chữ chất phác ở đây không phải đi với chữ thật thà như ta thường nghĩ. Chất phác ở đây là tâm hồn không máy móc. Lấy ví dụ Thầy Tử Lộ nói với Đức Khổng Tử rằng: "Ở nơi Thầy có những điều tôi rất kính phục. Thầy thấy một cái tốt của người mà có thể quên đi trăm cái xấu của người th́ Thầy là người dễ tánh". Đối với chúng ta chữ dễ tánh là một người ba phải. Một người thật thà là một người hiền, đến độ ngu được. Sự đôn hậu, thuần phác mà Phật dạy ở đây là chúng ta không tính toán, so đo quá, không máy móc quá. Chúng ta có thể sống, có thể nh́n thấy cái tốt của người mà quên đi cái xấu của họ. Đó là dễ tánh. Một người dễ tánh là người có thể mở rộng ṿng tay, có thể bao dung nhiều người khác nhau.
Ở trong Tả truyện có chép một chuyện cũng đáng để chúng ta suy nghĩ về ḷng Từ. Thầy Huệ Tử dùng gàu để tát nước vào ruộng. Một người đi ngang nói rằng, tôi biết một loại cơ giới, máy móc có thể giúp phương tiện dẫn nước vào ruộng mau lẹ hơn và có hiệu năng hơn. Thầy Huệ tử nói rằng: Bản tính ai cũng trọng cơ giới, hễ chuộng cơ giới th́ chuộng cơ sự, mà cơ sự th́ có cơ tâm, cơ tâm th́ có phiền năo.
Điều này có nghĩa là hễ tâm hồn chúng ta máy móc quá th́ thương yêu sẽ không phát sinh. Chúng ta tính toán nhiều quá th́ đời sống chúng ta khó mà phát triển tâm từ, chúng ta không thể nh́n đời với một cặp mắt ôn nhu, thuần ḥa, thuần phác. Tâm hồn chúng ta phải rộng răi, chúng ta đừng để ư quá nhiều chi tiết. Cái ǵ cần để ư th́ chúng ta để ư, nhưng cái ǵ cần quên đi th́ chúng ta có thể quên được. Do đó chữ chất phác ở đây không có nghĩa là thật thà mà là một tâm hồn rộng lớn. quư vị có thể hiểu như chữ dễ tánh mà Thầy Tử Lộ đă dành cho Đức Khổng Tử, nghĩa là có thể thấy cái tốt của người mà quên đi trăm cái xấu. Đó là một tâm hồn rất thích hợp và rất cần thiết để phát triển ḷng từ.
Hiền ḥa, không kiêu mạn
Hiền ḥa, không kiêu mạn là một đời sống vô hại, không bao giờ tạo cho người khác có cảm giác bị đe dọa. Trong đạo Phật có đề cập đến Vô Úy Thí. Vô úy thí là một tặng vật cho cuộc đời. Tặng vật đó là sự an lành. quư vị sống ở quê hương này, một quê hương mà quư vị ít có cảm nhận được là xă hội này đă cho quư vị những tặng phẩm giá trị vô cùng. Nếu quư vị nào sang Hoa Kỳ rồi trở về, quư vị thấy xă hội này thật là đáng sống. Ở đây, quư vị không quá lo sợ, phập phồng. Nhà quư vị không cần có nhiều cửa sắt, ổ khóa. Xe đậu bên ngoài cũng yên tâm, không phật phồng lo sợ th́ đó đă là một tặng phẩm cuộc đời dành cho quư vị. Đức Thế Tôn cũng đề cập đến Vô Úy Thí, có nghĩa là ḿnh cho người khác sự không sợ hăi, một cảm giác an lành.
Một người giữ ngũ giới cũng có thể là một Vô Úy Thí. Người ấy không sát sanh mà tôn trọng sự sống của người khác. Không những chỉ tôn trọng sự sống của người khác, ta c̣n phải tôn trọng sở hữu của người khác. Không phải tôn trọng sở hữu của người khác mà c̣n phải tôn trọng hạnh phúc của họ. Chúng ta c̣n tôn trọng danh dự của người khác bằng cách không lừa đảo, không nói dối. Ta c̣n tôn trọng ổn định của đời sống người khác bằng chính lịch sự cá nhân là không say sưa, rượu chè có nghĩa là chúng ta tôn trọng sinh mạng, tôn trọng tài sản, tôn trọng sự hạnh phúc, tôn trọng danh dự và tôn trọng đời sống an ḥa. quư vị giữ giới có nghĩa là quư vị cho người khác một đời sống an lành, nghĩa là sống với sự vô hại, gần những người vô hại. Như vậy chữ " Hiền Ḥa " ở đây Phật muốn nói đến một đời sống vô hại, một đời sống của người có giới, một người có thể mang lại cho người khác một cảm giác an lành, b́nh an, thoải mái, không kiêu mạn.
Không kiêu mạn có nghĩa là không so đo. Đối với Đức Phật, không phải khi chúng ta nghĩ rằng ḿnh hơn người, điều đó mới là kiêu mạn. Trong A Tỳ Đàm, tất cả những trạng thái nào khi ta so sánh giữa ḿnh và người: Ḿnh bằng người, hơn người hoặc thua người th́ đều là kiêu mạn. Theo cái nh́n của Đức Phật th́ ở trong đời không ai có thể so sánh với ai. Đừng nói ǵ giữa người với người mà cả giữa người với vật. Chúng ta thấy một con Vật, con vật đó là một chúng sanh và chúng ta cũng là một chúng sanh. Trong một giai đoạn nào đó trong tiến tŕnh luân hồi, chúng sanh đó sanh làm loài vật, nhưng mà nó cũng có thể sanh làm loài người. Và sự thể hiện bên ngoài trong một giai đoạn nhất thời không có nghĩa là sự so sánh yếu kém, hơn thua giữa chúng sanh này với chúng sanh khác. Trong vô lượng kiếp luân hồi, chúng sanh huân tập nhiều nghiệp báo mà cũng nhiều thiện ác. Mỗi người đều có tham , sân, si. Ở một căn bản nào đó, tất cả chúng ta đều rất giống nhau.
V́ vậy sự so sánh giữa một con người với một con người là một sự vô lư, cũng là một sự nông nổi, ngu xuẩn. Như Đức Thế Tôn đă nói: Một khúc gỗ muốn trôi ra biển cả, nhưng nếu nó bị mắc cạn th́ sẽ không trôi đến đâu cả. Hễ tâm kiêu mạn phát sinh trong ḷng người nào th́ người đó không tiền hóa được. Tại sao? Nếu ḿnh thấy ḿnh hơn ngừơi th́ ḿnh sẽ không tiến hóa được. Nếu thấy ḿnh thua người th́ ḿnh sẽ bị mặc cảm và cũng không tiến hóa được. Và khi đem so sánh ḿnh với người th́ đó là một tâm trạng khó phân biệt. Lấy cái hơn, cái thua làm trọng, lấy thông minh trí tuệ làm trọng, cái giàu cái nghèo làm trọng, cái đẹp cái xấu làm trọng th́ như vậy ở trong sự kiêu mạn đó, ḷng từ không thể nào phát triển. Như vậy đức tánh từ hay sự phát triển ḷng từ phải được thực hành song song với đức tánh không kiêu mạn. Do đó Đức Thế Tôn đề cập đến: " Hiền ḥa, không kiêu mạn" là những đức tánh giúp hành giả phát triển tốt đẹp ḷng từ.
Thanh đạm, không rộn ràng
Thanh đạm là một đời sống giản dị. Ăn cũng giản dị, ngủ cũng giản dị. Chúng ta không làm khổ vợ, khổ chồng, khổ con, làm khổ những người chung quanh v́ nhu cầu của ḿnh. Người nào mà đời sống đ̣i hỏi cao quá, tiêu chuẩn cao quá, th́ không thể phát triển được ḷng từ. Nhu cầu đời sống càng dễ dàng th́ việc phát triển ḷng từ càng tốt đẹp.
Đời sống mà Đức Phật khuyên nên có, không chỉ hàng xuất gia mà c̣n đối với hàng tại gia, là một đời sống giản dị, dễ nuôi. Chúng ta sống giản dị dễ nuôi, không làm khổ ch́nh ḿnh mà cũng không làm khổ người chung quanh v́ cái ăn, cái mặc, cái ngủ của ḿnh cùng những nhu cầu của đời sống. Hễ ta quá chú trọng đến nhu cầu của ḿnh th́ chúng ta phải lo cho ḿnh nhiều hơn. Và chúng ta sẽ làm khổ người khác nhiều hơn. Ở các quốc gia mà đời sống con người quá cao, như các quốc gia Tây Phương chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy những tâm hồn rất tùy tiện, đến độ tàn nhẫn v́ chỉ nghĩ đến cá nhân của ḿnh mà quên đi lợi ích của bao nhiêu người khác. Chúng ta đừng trách họ v́ nếu nhu cầu chúng ta cao quá, tiêu chuẩn sống quá cao th́ chúng ta cũng trở nên ích kỷ và chắc chắn là ḷng từ sẽ bị cản trở rất nhiều.
Không rộn ràng - là đời sống không lăng xăng, không cưu mang. Điều này không có nghĩa là chúng ta sống một cuộc sống quá đơn giản, không làm việc ǵ hết. Đời sống không rộn ràng ở đây không có nghĩa là chúng ta kéo năng lực ḿnh xuống ở mức độ thấp nhất. Chúng ta chỉ làm 1, 2 việc mỗi ngày, không phải như vậy. Ông Peter Rate, Viện Trưởng Viện Đại Học Kennel có nói: Trong 50 năm, từ khi tôi làm việc trong trường cho đến khi tôi về hưu, tôi có một kinh nghiệm. Nếu tôi có thể tin tưởng một người nào đó, nếu tôi nghĩ tôi có thể giao phó công việc cho một người nào đó, th́ tôi sẽ giao phó cho người có chương tŕnh bận rộn nhất. Tại sao? V́ người nào bận rộn nhất là chứng tỏ họ có khả năng để quản trị lấy thời gian của họ. Họ sẽ có th́ giờ riêng cho họ và họ cũng có th́ giờ để làm nhiều việc khác. Nếu họ nhận công việc mà tôi giao phó, họ sẽ hoàn thành một cách tốt đẹp.
Điều này cho chúng ta thấy rằng chữ "rộn ràng" ở đây không có nghĩa là đời sống chúng ta không đa đoan. Một người đa đoan mà biết quản trị rất ngăn nắp thời gian của ḿnh th́ người đó sẽ có những giây phút rất thanh thản. C̣n một người quản trị vụng về th́ giờ của ḿnh th́ dù người đó chỉ làm 1, 2 việc, người đó vẫn lăng xăng, lộn xộn. Thế nào là lăng xăng, lộn xộn? Là một lúc ôm đồm nhiều việc. Nếu chúng ta có 10 việc phải làm một ngày th́ chúng ta chia để làm trong 10 th́ giờ khác nhau: Buổi sáng làm bao nhiêu việc, buổi trưa, chiều làm bao nhiêu việc th́ đời sống sẽ không rộn ràng. Nhưng nếu một lúc mà làm 3 - 4 việc: Chúng ta vừa điểm tâm, vừa coi báo, vừa xem TV, vừa nghe điện thoại th́ quả thật lăng xăng quá nhiều. Trong đời sống nhiêu khê như vậy, ḿnh cảm thấy rằng thời gian nó làm chủ ḿnh, cuộc đời nó đang lôi kéo ḿnh. Ḿnh đâu có th́ giờ để nghĩ về cuộc đời đâu, ḿnh phải trả nợ đời, riết rồi ḿnh cảm thấy là ḿnh đă mất đi chính ḿnh. Mà đă mất đi chính ḿnh th́ ta không c̣n th́ giờ để mong cầu sự an lành cho kẻ khác v́ chính ḿnh luôn luôn sống trong thời gian bất an. Không rộn ràng là yếu tố để phát triển ḷng từ.
Lục căn luôn trong sáng
Lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư. Lục căn luôn trong sáng là không bị chi phối quá nhiều bởi năm cảnh bên ngoài. Chúng ta ghiền thuốc cũng là một sự lệ thuộc vào tỷ căn. Chúng ta thích xem tranh, xem TV cũng là một lệ thuộc vào nhăn căn. Chúng ta thích bất cứ cái ǵ, nếu đó là một sở thích thông thường th́ điều đó vô hại; nhưng nếu nó là một cái ǵ dẫn đến độ ghiền, đến sự lệ thuộc, nô lệ th́ có lẽ đời sống chúng ta sẽ không có nhiều th́ giờ để suy nghĩ đến tha nhân, mang lại sự an lành cho người khác.
Đức Phật nói một người lục căn luôn trong sáng tức là đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, người đó không hề cảm thấy khoái lạc đến độ mất đi sự quân b́nh của đời sống. Như vậy, chúng ta là người sống trong cuộc đời này, mắt phải thấy, tai phải nghe, mũi phải ngửi, lưỡi phải liếm, thân phải xúc chạm và ư phải suy nghĩ. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ t́m trong những điều đó những cái khả ái, khả ư, có những cái đáng hoan hỷ, đáng ưa thích. Nhưng để giữ lục căn luôn trong sáng, chúng ta nên tiết độ ở mức vừa phải. Thấy tranh th́ cũng thích, thấy cảnh th́ cũng thưởng thức mà ở mức vừa phải, đừng quá đam mê. Khi đă lệ thuộc, đă bám víu rồi th́ chắc chắn đời sống chúng ta sẽ nghiêng về hướng đó và chúng ta không thể phát triển về hướng khác được. Sáu cảnh chi phối chúng ta rất nhiều, đối với chúng nó ta nên giữ tâm quân b́nh để có thể sống không lệ thuộc. Có như vậy mới phát triển được tâm Từ.
Trí tuệ càng hiển minh
Lục căn luôn trong sáng th́ chắc trí tuệ càng hiển lộ. Một khu vườn có quá nhiều cỏ dại, cây độc th́ ở đó cây lành, trái ngọt không sanh sôi nẩy nở được. Người nào muốn trí tuệ phát triển trong khu vườn của ḿnh th́ những phiền năo, ác pháp phải được lắng đọng, được gạn sạch để cây lành, trái ngọt tăng trưởng. Trí tuệ không thể phát triển trong điều kiện tán loạn, lao chao. Trí tuệ chỉ phát triển trong những tâm hồn b́nh tĩnh. Trí tuệ không thể phát triển trong một tâm hồn có quá nhiều dính mắc mà chỉ phát triển trong tâm hồn tương đối nhu nhuyễn, xă ly. Đây là một ví dụ cụ thể cho ta thấy Phật đề cập đến ḷng từ đi đôi với trí tuệ. Ḷng Từ không phải là một thứ xa xỉ phẩm của đời sống tinh thần. Ḷng từ là một sự trưởng thành thực sự của đời sống. Một người có thể nh́n cuộc đời với ánh mắt thương yêu là tâm hồn người đó đă trưởng thành rất nhiều. Sự trửơng thành ở đây có nghĩa là có một sự hiểu biết rất là già dặn. Có nhiều chướng duyên, như sự kỳ thị, cũng làm chúng ta ngăn ngại ḷng Từ. Muốn hết sự kỳ thị, chúng ta cần tŕnh độ trưởng thành về văn hóa, một trí tuệ rất là sắc bén th́ mới vượt được khỏi biên giới của sự kỳ thị.
Chúng ta nặng về đời sống nhu cầu. Nhu cầu chúng ta nặng quá. làm phiền toái những người chung quanh quá nhiều. Không phải đơn giản mà chúng ta có thể giải thoát được. Một người có nhu cầu nhẹ nhàng, người đó có sự trưởng thành rất là lớn.
Có người đề cập đến ḷng Từ trong đạo Phật như là một t́nh cảm ủy mị. Điều này hoàn toàn sai lầm. Một t́nh cảm ủy mị là khi nào bị cột chặt vào đối tượng. Đó là một t́nh cảm thụ động, một t́nh cảm bị lôi kéo, quyến rũ. Ở đây ḷng Từ tỏa rộng ra. Sự tỏa rộng đó cần một mức độ trưởng thành, một sự già dặn thật sự của tâm hồn, một sự già dặn đ̣i hỏi rất nhiều trí tuệ. Không ai phát triển ḷng từ đến độ trở thành một người mê tín. Một người càng có nhiều ḷng Từ th́ trí tuệ họ càng minh mẫn, càng sáng suốt. Do đó yếu tố phát triển về trí tuệ rất là cần thiết. quư vị đừng tưởng ḿnh tu hành trau dồi về tâm từ th́ không cần ḷng tin. Chính những sự phát triển về trí tuệ thắp ánh sáng tuệ giác trong ḷng ḿnh và giúp chúng ta vượt qua nhiều biên giới của đời sống. Những biên giới đó giúp cho ḷng từ chúng ta được thăng hoa măi măi.
Không làm việc ác nhỏ
Mà bậc trí hiền chê
Việc ác nhó là nhưng việc ác mà chúng ta nghĩ rằng nó nhẹ, nó tầm thường, nó không đáng kể. Nhưng mà hễ trong ḷng chúng ta c̣n dung dưỡng những ác nghiệp nhỏ th́ coi chừng những ác nghiệp này có thể là một trở ngại rất lớn.
Người ta nói rằng: "Đường đi không khó v́ ngăn song cách núi mà khó v́ ḷng người ...", nó lấn cấn khiến chúng ta không đi được. Đối với chúng ta, có nhiều khi việc quốc gia đại sự, cái đại nguyện giải thoát, không làm cho chúng ta chùn ḷng mà một vài trở ngại nhỏ trong ḷng chúng ta thôi th́ điều đó lại là một trở ngại rất lớn lao. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật cũng dạy:
Chớ khinh chuyện nhỏ không làm
Rằng không kết quả đến ta bao giờ
Nước kia từng giọt nhỏ hờ
B́nh kia tràn chảy bao giờ có hay
Nước nhiễu xuống từng gịot th́ lâu ngày nó cũng đầy. Các ác nghiệp, dù chỉ là một thói quen rất nhỏ, nhưng khi trở thành thường nghiệp rồi th́ nó vẫn chi phối con người chúng ta rất nhiều. Trong thế giới tâm linh, cái nhỏ đừng xem thường nó:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
(Có th́ có tự mảy may
Không th́ cả thế gian này cũng không)
Có những cái rất nhỏ mà có thể lớn bằng tam thiên đại thiên thế giới này, do đó chúng ta không thể khinh thường một đốm lửa nhỏ. Ở trong nội tâm chúng ta, những việc ác nhỏ tầm thường vẫn có thể có tác hại rất lớn. Do đó mà các vị Tôn Cổ Đức ngày xưa, không phải các vị nói câu này mà không có kinh nghiệm. Có những niệm rất nhỏ nhưng đó lại là những ngăn ngại vô vàn. Chúng ta chỉ v́ thương v́ ghét một chút xiú thôi mà có thể làm hỏng đạo nghiệp của cả cuộc đời ḿnh. Chúng ta không tin phải không? Có đôi khi chúng ta không làm một việc v́ không thích một người nào đang có mặt ở dó, và v́ vậy đời sống chúng ta phải đi vào một sự sai lầm. Thành ra nên coi chừng cái niệm của ta. Có thể một niệm nhỏ, một niệm rất nhỏ nhưng nó sẽ trở nên rất là nguy hiểm và v́ vậy đừng:
Khinh thường việc ác nhỏ
Mà bậc trí hiền chê
Rồi:
Nguyện thái b́nh an lạc
Nguyện tất cả sinh linh
Tràn đầy muôn hạnh phúc
Chúng ta đă qua đoạn Đức Phật nói về những yếu tố thuận lợi để phát triển ḷng Từ. Bây giờ chúng ta đến đoạn kế tiếp, khi Đức Phật giảng về đối tượng của ḷng Từ. Đoạn Kinh kế tiếp là:
Chúng sanh dù yếu mạnh
Lớn nhỏ hoặc trung b́nh,
Thấp cao không đồng đẳng
Hết thẩy chúng hữu t́nh,
Ḷng Từ không phân biệt,
Hữu h́nh hoặc vô h́nh,
Đă sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết,
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc
Trước khi đi vào chi tiết của đoạn kinh này, chúng tôi muốn đề cập đến một vấn đề rất là quan trọng. Hôm qua trong bài giảng về năm màu cờ Phật giáo, chúng tôi có đề cập đến những điều trong pháp tu dưỡng tâm tánh của người Phật tử. Tâm hồn của chúng ta cần chọn đối tượng theo cảnh bên ngoài hoặc tâm bên trong, đối tượng đó luôn luôn có ảnh hưởng rất lớn lao cho tâm hồn của chúng ta. Người hành giả tu tập là người biết hướng tâm của ḿnh vào những đối tượng hay cảnh của tâm, những đối tượng, những cảnh đó có thể giúp chúng ta có điều kiện để phát triển tâm hồn của ḿnh. Lấy thí dụ là nếu chúng ta sống gần những nguời hay chỉ trích, trêu chọc th́ quả thật nếu có thể vượt qua được những khó khăn trong tâm là một điều quư báu. Nhưng thông thường, chúng ta ít khi có đủ can đảm để thành đạt, tiến bộ mau lẹ như vậy. Trong thời kỳ mà các thiền sư gọi là sơ phát tâm -- mới phát tâm -- th́ thuận duyên, thuận cảnh luôn luôn là đối tượng và luôn luôn cần thiết để trau dồi tâm của ḿnh, dù là tâm từ hay tâm định. Ngoại cảnh hay đối tượng của tâm chiếm hữu một vai tṛ quan trọng như vậy cho nên ngừơi phát tâm tu tập phải luôn luôn trắc nghiệm rơ đpối tượng nào mà tâm ḿnh hướng đến. Như quư vị hành thiền quán th́ hơi thở là quan trọng: Chúng ta hiểu hơi thở, sự vận hành hơi thở và sự hiện hữu của hơi thở.
Như vậy đối tượng của tâm Từ là chúng sanh. Đối tượng của tâm Từ tương đối là một vấn đề tế nhị hơn b́nh thường. V́ sao vậy? Con người chúng ta chỉ có hai trở ngại, đó là nhân và ngă. Nhân và ngă tức là nghĩ về ḿnh và người. T́nh cảm của chúng ta, cảm xúc trong ḷng cũng như cái vui hay buồn là đều do ta nghĩ đến ta. Bây giờ tự nhiên tâm ta dang trải rộng cho tất cả mọi người th́ không phải là điều đơn giản. Càng không thể đơn giản được là ta phải nghĩ như thế nào về những người đó. Chúng tôi nghe nói rằng cũng là cục đất mà mỗi người nh́n một cách khác. Nhà địa chất, nhà nông nh́n khác nhau. Chúng sanh trong đời này cũng vậy. Chúng sanh có dị biệt, khác nhau về tâm tánh nhưng làm thế nào mà chúng ta có được cái nh́n có thể dung hợp được tất cả mọi người và có thể dang rộng ṿng tay ra để ôm tất cả mọi người. Điều đó không dễ.
Trước khi đề cập đến những câu kệ trong bài Kinh, chúng tôi xin kể ra một thí dụ để quư vị thấy sự mầu nhiệm của tâm linh va qua sự mầu nhiệm này, quư vị sẽ hiểu tại sao Đức Phật lại khuyên ta nên luyện tâm Từ.
Trong cái đồng hồ nhỏ mà chúng ta thường dùng, mặt đồng hồ chừng 5 phân, th́ kim dồng hồ quay một ṿng tṛn mất bao lâu? 12 tiếng phải không? Bây giờ chu vi của đồng gồ là 5 mét th́ quư vị thấy thế nào mất bao lâu th́ kim mới quay hết ṿng đó? Cũng 12 tiếng. Dù rằng đó là mặt đồng hồ nhỏ hay đồng hồ lớn treo trên building đi nữa, th́ hết ṿng tṛn đó cũng mất 12 giờ. Không phải mặt đồng hồ lớn ra mà kim đồng hồ đi chậm lại, mất th́ giờ lâu hơn. Và cũng không phải v́ dồng hồ nhỏ lại mà kim mất ít th́ giờ hơn. Tất cả cũng là 12 tiếng. Tại sao? V́ nó xuất phát từ một tâm diểm và tâm diểm đó đi theo góc độ. Do vậy, dù chu vi mặt đồng hồ có lớn hay nhỏ đi nữa th́ vẫn 12 tiếng.
Chúng ta hay có mặc cảm như vậy. Chúng ta nghĩ tâm hồn của ḿnh không thể mang hết cả vũ trụ được v́ nó quá nhỏ bé. Không phải như vậy. Trong đời sống tâm linh, hễ tâm của ḿnh bao quát, rộng lớn th́ ta có thể chuyên chở cả thế giới này được. Nhưng hễ tâm của ḿnh hẹp ḥi, th́ dù chỉ là một mảy may bên ngoài chúng ta cũng không thể cưu mang được.
Bây giờ trên con đường thực tập thiền quán, chúng ta sẽ đối diện một vấn đề trăn trở là phải hướng tâm ḿnh đến một đối tượng, một đối tượng vô thưởng vô phạt, đó là hơi thở. Đối với chúng ta hơi thở là một cái ǵ tự nhiên, do vậy quư vị có thể gom tâm vào hơi thở một cách dễ dàng, chỉ chú tâm vào đó thôi. Nhưng mà đối với chúng sanh th́ chuyện không đơn giản như vậy. Chúng ta ngồi ở đây, với 10, 20 người th́ cảm t́nh của chúng ta đối với họ khác nhau. Chúng ta đối với một người nam khác một người nữ. Già, trẻ, giàu, nghèo, đẹp, xấu v.v.. Chính những cái đó Phật gọi là phân biệt, những phân biệt nhân cách và làm nên sự khác biệt giữa người với người.
Thế th́ đối với chúng sanh, khi chúng ta niệm ḷng Từ, ta có thể nguyện cho tất cả được an vui không? Nếu chỉ niệm như vậy th́ quá bao quát. Cho nên chúng ta phải nh́n chúng sanh với những điều khác biệt, nhưng cái nh́n khác biệt đó không ảnh hưởng ǵ đến chúng ta. Hai người khác biệt nhau v́ cái giàu, cái nghèo của họ; người đẹp, người xấu cũng khác biệt nhau. Nhưng chúng ta đâu có nên phân biệt như vậy. Ngày xưa Đức Phật dạy, khi một người hành Tâm Từ, nếu phải nh́n sự khác biệt của chúng sanh th́ hăy nh́n sự khác biệt theo nghiệp lực. Nghiệp lực gọi là dị h́nh, dị tướng, dị lực, có nghĩa là chúng sanh yếu, mạnh, lớn, nhỏ, hoặc trung b́nh, thấp cao không đồng đẳng.
Câu:
Chúng sanh dù yếu mạnh,
Lớn nhỏ hoặc trung b́nh,
Thấp cao không đồng đẳng
Đức Phật muốn nói đến h́nh thức, thể chất và dạng của chúng sanh thôi. Ngài không khuyên chúng ta nh́n vào một cái ǵ khác hơn như là giàu, nghèo, đẹp, xấu. Đây là h́nh thức chân thật. Nh́n vào h́nh thức đó, ḷng Từ của chúng ta không bị tổn thương. Nếu chúng ta thấy rằng giữa người và người có sự khác biệt, nhưng sự khác biệt đó là do h́nh tướng và nghiệp quả; th́ quả thật cái nh́n đó rất xác thực và không có ǵ ngăn ngại chúng ta phát triển tâm Từ hết. Ngược lại, nếu ta thấy có sự khác biệt giữa người và người: đẹp, xấu, giàu, nghèo, quyền thế, không quyền thế; th́ ḷng Từ chúng ta không phát triển được.
Hết thẩy chúng hữu t́nh,
Ḷng Từ không phân biệt,
Hữu h́nh hoặc vô h́nh
Hữu h́nh là những chúng sanh ta có thể thấy tận mắt được. Vô h́nh là những chúng sanh không thấy bằng mắt được. Người có âm đức là người sống có hậu, có thể nh́n thấy cái mà mắt ḿnh không thể thấy được. Lấy ví dụ là thông thường khi thích cái ǵ đó, ta chỉ thích những ǵ mà mắt có thể thấy thôi chứ ít nghĩ đến chuyện về lâu về dài. Chúng ta làm chuyện ǵ th́ cũng chỉ làm những chuyện v́ những người đang có mặt tại đó mà thôi chứ chuyện về lâu về dài, ta không nghĩ tới. Chúng ta sống th́ chỉ nghĩ đến những loại hữu h́nh mà không nghĩ đến loại vô h́nh. Sự huân tập âm đức của một con người, đức tánh nhân hậu, ḷng từ của con người đó; có cái ḿnh nh́n thấy mà có cái không thấy.
Chính cái không thấy là điểm tế nhị mà ḿnh cần nghĩ đến. Nếu người nào sống trên đời mà đối tượng của ḷng Từ không chỉ với những chúng sanh có mặt mà c̣n khuất mặt nữa; th́ đó là người có một tâm hồn đủ sức chan ḥa. Tại sao vậy? V́ tâm hồn người đó có quân b́nh. Người ta thấy một điều quan trọng rằng, nếu người nào làm việc ǵ không phải chỉ v́ mục đích hiện tại mà c̣n nghĩ đến cái nhân, cái quả về lâu dài th́ Đức Phật gọi vị đó là tri nhân tri quả. Cái buồn của ḿnh bây giờ, ḿnh biết là do nguyên nhân nào; nguyên nhân đó ḿnh không thể thấy bằng mắt được, nhưng ḿnh hiểu được cái sâu xa của nó. Khi đang làm điều ǵ mà ta biết quả sau này sẽ sanh khởi như thế nào -- mặc dù quả đó chưa đến, th́ cũng gọi là tri nhân tri quả. Tri nhân tri quả là ta có thể nh́n thấy được cái ǵ cụ thể, tận mắt cũng như cái ǵ không thể thấy được. Tâm hồn của một người nhân hậu và giàu âm đức có thể nghĩ xa, nghĩ gần, đến những loài hữu h́nh hoặc vô h́nh.
V́ vậy, quư vị Phật tử thấy khi nào chúng ta tŕ tụng kinh điển, Đức Phật luôn khuyên chúng ta: Nguyện cho khắp Pháp giới chúng sanh được an lành, nguyện cho chúng sanh được tấn phát, và rồi chúng ta cũng hồi hướng đến chúng sanh khắp ba giới, bốn loài. Ban đầu th́ chúng ta có thể xem thừơng những người đó, nhưng về sau ta mới thấy sự hiện diện của họ.
Trong đời sống hàng ngày chúng ta không lo tu, chúng ta quên lăng. Nhưng chúng ta quên rằng, những lúc b́nh thường nhất là những lúc chúng ta có nhiều cơ hội để tu tập ḷng từ nhất. Bây giờ quư vị đến đây, h́nh ảnh thân thương của chư tăng, cái không khí nhẹ nhàng của những người bạn đạo, đó là cơ hội hành tŕ thích hợp nhất; và chúng ta phải biết tận dụng nó để tu tập ḷng từ. Tại v́ sao? V́ đây là lúc chúng ta ít bất măn nhất. Khi mà ḷng từ đă lớn mạnh, đă chịu đựng được rồi th́ ta mới đem ra ngoài mưa nắng được; nhưng nếu nó là một cánh hoa mới nở, chúng ta đem ra ngoài nắng gay gắt quá, sợ nó chịu không nổi. Do vậy, điều đầu tiên là phải cố gắng để phát triển những t́nh cảm cao thượng trong ḷng. Chúng tôi có nghe nhiều Phật tử than rằng, con muốn tu lắm mà không có căn, có phiền năo chắc là tu không được. Thưa quư vị, không ai là không có phiền năo, trừ khi đắc đạo, chứng quả ! Tất cả chúng ta đều có những phiền năo giống nhau. Hễ ở trong hoàn cảnh nào th́ thường có những phản ứng, những nếp sống gần gần với những hoàn cảnh đó.
Chính v́ hiểu được điều này nên ta có một niềm hy vọng. Người Phật tử sống là phải hy vọng. Niềm hy vọng lớn nhất là chúng ta có thể tự sửa chữa ḿnh và phát triển những t́nh cảm tốt đẹp. Trong Therapy, tức là những phương pháp trị liệu tâm lư học của người Tây phương, người ta nói rằng những thói quen xấu do tập quán mà thành th́ cũng do tập quán mà diệt. Ban đầu chúng ta tạo ra thói quen, nhưng lâu ngày thói quen điều khiển chúng ta. Hễ trong ḷng chúng ta có cái ǵ xấu th́ hăy tin rằng cái đó do huân tập. Tại sao anh A, anh B không có cái đó mà ta có? Tại chúng ta tập phải không? Chúng ta tập cho nó có được th́ cũng tập cho nó mất đi được, nếu như ta khó chịu. Nhưng chúng ta đừng đ̣i hỏi ḿnh nhiều quá. Bây giờ, nếu bảo rằng quư vị đi vô chùa, lạy Phật ba lạy th́ thân rũ sạch bụi trần; điều đó không có, chỉ có trong truyện chưởng, trong tiểu thuyết mà thôi. Không ai có thể làm chuyện một sớm một chiều như vậy, nó mất nhiều thời gian lắm.
Do đó, việc có được một người bạn, một tri kỷ, một người hiểu chúng ta là một điều cần thiết. Nhờ có người hiểu chúng ta, ta sẽ ít trở nên bối rối, bất măn. Có những lúc yếu đuối, chúng ta rất cần một người nâng đỡ; không mong được tri kỷ như Bá Nha Tử Kỳ nhưng là một người nào đó có thể hiểu ta. Khi ta lầm lỗi th́ người đó không d́m ta xuống vũng bùn mà nâng đỡ ta, cho ta có niềm hy vọng để phục hồi lại, để sửa đổi.
Ngoài ra chúng ta cũng cần có những hoàn cảnh tương đối thuận tiện. Điều bất hạnh ở đời là ǵ? Hạnh phúc ở đời là ǵ? Trong Hạnh Phúc Kinh, Đức Phật nói rằng nơi trú xứ nên thân cận với bạn hiền th́ đó là hạnh phúc cao thượng. Tại sao? V́ đó là môi trường để ta huân tập thiện pháp. Do vậy, nếu quư vị thấy thời gian nào ḿnh tương đối rảnh rỗi nhất, tâm hồn chúng ta thanh thản nhất th́ nên biết đó là thời tiết tốt nhất để gieo hạt giống Bồ đề, hạt giống thiện. Ở đây có bao giờ quư vị trồng hoa vào mùa tuyết không? Không có phải không? Chúng ta chỉ trồng vào mùa thích hợp thôi. Khi nào quư vị đến chùa, lúc vui vẻ nhất, cởi mở nhất th́ nên ráng niệm Phật, lo tu chứ quư vị giận lên th́ không tu được đâu. Nếu quư vị đang phiền năo về việc mất đồ đạc, v́ thất t́nh, v́ gây gỗ ông hàng xóm th́ đừng mong tu. Lúc đó ta chỉ niệm Phật thôi. Lúc tâm hồn ta b́nh yên là lúc tu tốt nhất, ngược lại khi phiền năo là lúc khó tu nhất. quư vị hăy tin tưởng mạnh mẽ rằng không ai trong chúng ta xấu hoàn toàn hết. Chúng ta có những t́nh cảm cao thượng rất là quư . Tôi được biết có vài người rất là hà tiện, nhưng nếu cuộc đời mở rộng ḷng họ chút xiú, có những hoàn cảnh có thể gợi lên trong tâm hồn họ những t́nh cảm cao thượng, th́ những lúc đó họ vẫn rộng răi như thường.
Đôi khi chúng tôi nghe quư vị than phiền là có những người không chịu đem tiền xài những chuyện xứng đáng mà chỉ làm phước; cúng ông thầy nào th́ chỉ cúng một ông mà thôi. Hay là họ chỉ biết làm chuyện đó mà không làm chuyện khác. Chúng ta không nên trách như vậy. Khi nào người ta làm phước được, dù chỉ là cái phước khiêm tốn, hẹp ḥi nhất th́ ta cũng nên hoan hỷ nở nụ cười cho họ, tại v́ nếu không có những trường hợp đó th́ họ không bao giờ làm phước. Do đó, có cơ hội nào khiến người ta có thể làm tốt th́ ta nên khuyến khích. C̣n chúng ta cũng vậy. Khi nào ta làm được một việc phước hết sức nhỏ, dù người ta có chê ḿnh đi nữa th́ cũng ráng làm. Tại sao? Ví đó là cơ hội của ta.
Ai trong chúng ta cũng có những t́nh cảm cao thượng, nghĩa là nếu có hoàn cảnh thuận lợi th́ nó sẽ phát triển và chắc chắn là sẽ lớn mạnh. Nó sẽ lớn dần theo thời gian và chúng ta phải luôn luôn cho nó một sự cảm thông. Chúng ta cảm thông với đời được th́ cũng cảm thông với chính ḿnh được. Đừng tự trách ḿnh hay mặc cảm tự ty rồi không lớn lên được. Ở đây quư vị thấy là sự phát triển của t́nh cảm và ḷng từ ái, giống như bà mẹ đối với đứa con một rất là khó. Chúng tôi nh́n nhận là khó. Chúng ta hăy nh́n những đứa bé. Khi c̣n nhỏ, nó thích đồ chơi, ta biểu nó bỏ đồ chơi, đừng la lối um xùm, đừng chạy dỡn nữa, đừng tranh ăn với em út, th́ nó có bỏ được không? Biểu nó bỏ từng cái, nó cũng không bao giờ bỏ được. Nhưng mà đời sống c̣n những cái hay cái đẹp hơn nên khi lớn lên từ từ th́ nó bỏ hết. quư vị cứ tin tưởng đi. Ḷng từ bi mà chúng ta thấy lư tưởng quá; cơ hồ như không bao giờ có thể làm được, nhưng chúng ta sẽ làm được khi nào tâm hồn chúng ta tăng trưởng trong những điều kiện nào đó. Lấy thí dụ trong thiện pháp, chỉ cần một thiện pháp phát triển thôi th́ những thiện pháp khác sẽ tăng trưởng theo.
Là người con Phật, chúng ta đừng nghĩ là ḷng từ bi đă tả trong kinh điển, như bà mẹ đối với đứa con là quá lư tưởng, vượt ngoài tầm tay chúng ta. Khi có đủ điều kiện phát triển, chúng ta sẽ thấy sự thành đạt rất là dễ dàng. Hồi xưa, khi mới vào chùa, lúc đó tôi 8 tuổi, Thầy của tôi là ngài Tịnh Sự, chúng tôi sống với ngài. Hồi nhỏ tôi hay ṭ ṃ, nh́n xem ngài làm ǵ. Tôi thấy cái ǵ Ngài làm cũng vượt quá sức, cơ hồ một đời ta không bao giờ làm được. Ngài có thói quen là ở trong pḥng không có bàn ghế nhiều, chỉ có bộ ngựa rất lớn để ngay giữa nhà, chung quanh chừa lối đi. Tất cả sách vở, đồ dùng Ngài chất cao một đống ở giữa. Khi nào ăn th́ Ngài dọn qua bên kia, có một khoảng để ăn. Khi nào làm việc th́ Ngài qua bên đây, có sách vở, tự điển để trước mặt Ngài. Có khách th́ Ngài mời qua phía bên này và khi nào Ngài làm việc lặt vặt tay chân ǵ đó th́ Ngài làm phía bên nọ. Ngài chỉ có một bộ ngựa thôi mà với bốn cái ghế bốn bên, Ngài chạy ṿng ṿng, làm việc cả ngày như vậy. Điều tôi khâm phục Ngài nhất là h́nh ảnh một vị Ḥa Thượng vừa làm việc, tiếp khách, dịch kinh, dịch sách. Tôi có một ước mơ trong đời thôi là làm sao đọc được một phần mười sách trên bộ ngựa đó, làm được một phần mười công việc của Ngài th́ cuộc đời đă măn nguyện rồi. Tôi thấy rằng hồi xưa học Minh Tâm Bửu Giám hay Tỳ Ni Nhật Dụng, đọc nửa cuốn là thấy buồn ngủ rồi; c̣n Ngài, Ngài đọc sách cả ngày cả đêm mà không buồn ngủ! Cái bệnh buồn ngủ không biết bao giờ mới diệt hết được. C̣n tới giờ ta đói bụng th́ cơ hồ như không chịu nổi. Vậy mà khi đói, mặt Ngài cũng tỉnh, tu hành mấy chục kiếp mới được mặt mày tươi tỉnh như vậy!
Nhưng mà thưa quư vị, với những ước mơ đơn giản đó, lớn lên chúng tôi thấy rằng, dù không được như Ngài nhưng dần dần ta cũng có thẻ làm được. Đôi lúc đời sống chúng ta bị vây hăm bởi nhiều thứ, nhưng cũng do thái độ, cách suy nghĩ của ta thôi. Nếu ta suy nghĩ lạc quan một chút, ư tưởng mạnh mẽ một chút th́ ta sẽ thấy tuy ḷng đại bi cơ hồ rất khó như ḷng bà mẹ đối với đứa con, nó vẫn có thể thực hiện thành tựu được. Đó là một việc không phải bất khả tư nghị hay bất khả thành tựu.
Nhưng chúng tôi lưu ư quư vị một điểm như vầy: "Cái ǵ đó ḿnh thấy nho nhỏ chung quanh mà ta ít lưu ư th́ ta nên cẩn thận, luôn luôn phải cảnh giác". Tại v́ trong thời gian đang tu, đạo tâm của chúng ta cũng mỏng manh lắm, tuy thấy nó mạnh mẽ nhưng nó rất là yếu. Lấy thí dụ như khi chúng ta đi chùa, Phật ở trên là cha chúng ta có phải không và chúng ta là con Ngài. Nếu cha chúng ta c̣n sống, ngồi trong một ngôi nhà như thế này th́ nếu có chuyện buồn phiền ǵ, ta đâu có bỏ cha chúng ta được phải không? Nhưng khi chúng ta đến chùa, chỉ cần một câu nói buồn phiền của người khác thôi là chúng ta hỏng cả niềm tin của ḿnh. quư vị có tin như vậy không? Đó là một điều có thật. Có người chỉ v́ một sự buồn phiền nhỏ mà bỏ đi chùa luôn. Đường đi khó, không khó v́ ngăn sông cách núi, mà chỉ tại ḷng ta thôi khiến ta không đi được.
Hồi xưa chúng tôi có đọc một câu chuyện. Có ba ông Thần họp lại là thần gió bấc, thần băo và thần sấm sét. Ba ông mới bàn nhau, không biết trong ba vị người nào oai lực mạnh nhất. Thần sét mới nói , thôi đừng bàn căi làm ǵ cho tốn th́ giờ, hăy biểu diễn đi, hễ ngừoi nào thắng th́ người đó oai lực nhiều nhất. Nh́n tới, nh́n lui, không thấy có ǵ biểu diễn được hết. Thần sấm sét thấy một con khỉ đang ở trên cây, ba thần mới đồng ư người nào có thể làm cho con khỉ rớt xuống đất là có oai lực. Thưa quư vị, đầu tiên là ông thần băo, ông đưa tay đ̣i thi thố tài năng trước nhất. Ông làm mưa gió ầm ầm, dĩ nhiên là không thể làm ngă cây mà phải làm con khỉ rớt xuống. Mưa càng mạnh, gió càng nhiều, con khỉ run lên càng ôm chặt cây không buông, nó bám cây như một con rít vậy. Ông thần băo nói: Thôi tôi chịu thua, không ngờ chuyện nhỏ như vậy mà làm không được. Tới phiên thần sấm sét. Ông chờ thần băo làm xong mới cho sấm sét lên ầm ầm để con khỉ sợ. Càng sợ th́ khỉ càng bám chặt vào cây. Thần làm sấm sét dữ dội, long trời lở đất, thiếu điều muốn xử sụng 10 thành công lực mà cũng không làm cho con khỉ rớt xuống. Thần sấm sét nói: Hồi nẫy tôi khi dễ thần băo, té ra tôi cũng không làm được. Thôi thần gió bấc làm thử cho tôi coi. Thần gió bấc mới đứng suy nghĩ: Mính phải làm cái ǵ cho con khỉ này sợ. Bây giờ ḿnh cứ làm mưa nhè nhẹ cho lành lạnh đi, khi khỉ bị lạnh, thổi gió nhẹ th́ nó sẽ rớt xuống!
Tâm hồn chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta ra ngoài, gặp chuyện pháp nạn, chuyện gian nguy th́ tâm hồn chúng ta mạnh mẽ lắm. Tại v́ sao? V́ trong hoàn cảnh đó, ta khởi tâm anh hùng, làm người hùng trong cuộc rất mạnh mẽ. Nhưng chính những cái nhỏ nhặt của đời sống lại làm mất hùng khí của ta. Điếu đó là điều chúng ta vẫn thường thấy. Sấm, sét, mưa băo không làm cho con khỉ rơt xuống được nhưng mà gió nhè nhẹ, làm cho nó run th́ nó rớt xuống liền. Chúng ta thường bị rớt như vậy. Do đó khi quư vị tu tập ḷng Từ th́ phải có cái ǵ để bảo vệ nó, để tu dưỡng nó. Giống như cái cây, không thể trồng xuống rồi tự nhiên lớn được, mà phải chăm sóc, có phân, có đất, có khí hậu thích hơp, nếu không th́ nó sẽ tàn úa đi. Theo Đức Phật chúng ta phát triển ḷng từ, phải canh chừng nó, canh chừng bằng cách nào?
Như mẹ giàu t́nh thương,
Suốt đời lo che chở,
Đứa con một của ḿnh,
Hăy phát tâm vô lượng,
Đến tất cả sinh linh,
Từ Bi gieo cùng khắp,
Cả thế gian khổ ải,
Trên dưới và quanh ḿnh,
Không hẹp ḥi oan trái,
Không hờn giận căm thù,
Ở đây chúng ta sẽ thấy Đức Phật khuyên chúng ta cố gắng hướng ḷng từ đến tất cả sinh linh. Trong Chú giải th́ nói rằng, bắt đầu chúng ta nghĩ đến những người gần gũi ḿnh, sau đó nghĩ đến những người xa hơn, và cuối cùng là nghĩ đến tất cả phương hướng. Quư vị nào đă học Từ bi quán th́ người ta dạy rằng, hăy nghĩ đến tất cả chúng sanh ở hướng Đông, Đông Nam, Tây, Tây Nam v.v... 10 phương, 8 hướng. Nhưng thực sự điều đó cũng khó Nếu quư vị ngồi một chỗ như thế này, rất khó mà xác định phương hướng. Trong Kinh Đức Phật dạy cũng giống như chúng ta học khoa học thường thức: Hướng Tây là hướng trước mặt, hướng Đông là hướng sau lưng, hướng Nam Ngài dạy bên tay mặt, hướng Bắc ở phiá tay trái. Thí dụ như quư vị ngồi niệm Từ bi quán trong ngôi nhà như thế này th́ quư vị chỉ niệm tất cả chúng sanh ở trứơc mặt, bên trái, bên phải, và ở sau lưng, ở trên, ở dưới. Như vậy là đủ rồi, khỏi phải nhớ đông, tây, nam, bắc, v́ nhớ như vậy sẽ làm chúng ta lộn xộn. Dĩ nhiên theo lời Kinh th́ phải dịch như vậy, tuy nhiên ta thấy một diểm dễ dàng là chỉ cần nhớ trước mặt, sau lưng, bên phải, trái, trên, dưới là ta có thể niệm ḷng Từ bi được rồi. Khi niệm ḷng Từ bi như vậy có cái lợi là ta thấy nó tổng quát và nhờ tổng quát mà lâu ngày ta mới huân tập được.
Bắt đầu quư vị nên lợi dụng ba thứ. Thứ nhất là h́nh ảnh nào mà ta ít oan trái nhất, ví dụ như người thân thương nhất của ḿnh và nguyện cho họ an lành. Thứ hai, h́nh ảnh một người nào đó mà ta không thương không ghét. Thứ ba là một h́nh ảnh vô thưởng vô phạt của tất cả chúng sanh. Khi nguyện chung như vậy, chúng ta sẽ phát triển ḷng từ bi dễ dàng hơn. Sau đó th́ chúng ta trở về với Phật ngôn là:
Trên dưới và quanh ḿnh,
Không hẹp ḥi oan trái
Không hờn giận, căm thù
Đừng nên lựa những h́nh ảnh riêng v́ làm như vậy sẽ khiến chúng ta cảm thấy khó khăn. Ví dụ như khi hồi hướng phước chẳng hạn, chúng ta hồi hướng phước cho tất cả chúng sanh. Ban đầu quư vị không để ư đâu, thấy nó tự nhiên, nhưng lâu ngày rồi quư vị sẽ thấy hồi hướng cho chúng sanh cũng là một phương tiện từ ḷng Từ bi của ḿnh. Rồi quư vị làm một vài công việc nào khác, đặc biệt là trong lúc tụng niệm, cầu nguyện tám hướng, mười phương chẳng hạn, hay hồi hướng phước, cầu nguyện cho những người đó. Khi có một h́nh ảnh chung như vậy th́ sẽ đẹp hơn, chúng ta sẽ dễ dàng phát triển ḷng từ hơn.
Câu Phật ngôn kế tiếp:
Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Bao giờ c̣n thức tỉnh,
Giữ niệm từ bi này,
Thân tâm thường thanh tịnh,
Phạm hạnh chính là đây.
Khi tu, chúng ta thường nói đến cái tuyệt đối. Quư vị hay nghe Ngài thuyết pháp đó, thí dụ như khuyên quư vị tu th́ khi đi, đứng, nằm, ngồi nên giữ niệm từ bi. quư vị nghe, đừng nghĩ rằng hễ chúng ta tu hạnh Từ bi th́ lúc nào cũng phải như vậy. Khi đi, đứng, nằm, ngồi mà phát triển được ḷng Từ bi th́ điều đó rất tốt. Tuy nhiên với câu Phật ngôn này chúng ta nên hiểu rằng: Hễ lúc đi mà phát triển được ḷng Từ bi th́ cũng nên phát triển, lúc ngồi mà phát triển được ḷng Từ bi th́ cứ ngồi. Đừng nghĩ rằng nhất thiết có ngồi th́ mới phát triển được ḷng Từ bi, c̣n khi đi không rải ḷng từ bi, khi đứng không rải ḷng Từ bi. Câu Phật ngôn này có nghĩa là lúc nào ta cũng phát triển ḷng Từ bi và đó là một hạnh trong sạch. Phạm hạnh là hạnh trong sạch.
Trong Kinh Đức Phật có giảng là quư vị Phạm Thiên có bốn đức tính là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Hễ người nào phát triển ḷng từ bi được th́ khi di, họ đi trên con đường Phạm Thiên, khi ngồi th́ ngồi như vị Phạm Thiên, khi họ nằm, họ đứng là ở chỗ vị Phạm thiên, nơi họ sống là Phạm Thiên giới hay là cơi Phạm Thiên. Bây giờ quư vị cứ nghĩ, hạnh phúc của Chư Thiên, của nhân loại chính là khi nào mà tâm hồn thanh thản nhất, và vùng đất của bậc thánh hay chúng ta gọi là thánh địa, chính là vùng đất của những người có tâm hồn thiện nhiều nhất. quư vị Phật Tử có thể tâm niệm điều này là hễ chỗ nào chúng ta nằm mà phát triển được ḷng từ th́ coi như chúng ta được nằm trên cơi Phạm Thiên. Chỗ nào ta di, đứng, ngồi mà phát triển được ḷng Từ th́ cũng như vậy. Nếu quư vị thấy h́nh ảnh đó có thể khích lệ tâm hồn của ḿnh th́ nên cố gắng để phát triển.
Đoạn sau cùng:
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm tŕ,
Đạt chánh tri viên măn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sanh tử.
Ai xả ly, kiến thủ: Kiến thủ là những ǵ chúng ta giữ chặt, những oan trái, tham lam, phiền muộn hoặc thô hoặc tế.
Có giới hạnh, chánh tri: Là người có giới hạnh và có tri kiến chân thật. Hai điều này mới nghe th́ quư vị thấy lạ lùng. Tại sao vậy? Bây giờ chúng tôi nói quư vị tu tập ḷng từ th́ quư vị sẽ được giải thoát. Ngày mai quư vị nghe Ngài Hộ Giác nói rằng tu tập Thiền quán sẽ giải thoát. Ngày mốt, quư vị nghe người khác nói tu Bát Chánh Đạo sẽ giải thoát. quư vị sẽ tự hỏi, Như vậy cái ǵ đem lại giải thoát thực sự? Thực ra, tuy lối nói khác nhau nhưng chỉ lấy theo khía cạnh mà nói thôi. Tôi lấy thí dụ, ở đây quư vị nghe bài Từ Bi Kinh th́ thấy muốn phát triển ḷng Từ bi phải xả ly kiến thủ. Một người có ḷng Từ bi mà không có giới hạnh th́ chắc chắn người đó không có ḷng Từ bi, ḷng Từ bi đó không trọn vẹn. Một người có ḷng Từ bi mà không chánh kiến th́ người ấy chắc chắn cũng không phát triển ḷng Từ bi được. Hễ thấy đúng, phải nghĩ dúng th́ mới làm đúng được. Hễ người nào có ḷng Từ bi th́ có thể phát triển được giới hạnh, xả ly được kiến thủ, phát triển được chánh kiến của họ. Tất nhiên những người như vậy sẽ tựu thành viên măn đạo quả. Đạo quả đó chính là:
Không ái nhiễm dục trần
Thoát ly đường sanh tử
Ơ đây, Phật muốn cho chúng ta biết một diều rơ rệt là trong tất cả những thiện pháp, nếu thiện pháp nào mà chúng ta phát triển được ưu việt, có ḷng từ bi trong đó, th́ đều là nguyên nhân đưa đến giải thoát hết. Cũng giống như quư vị đến xứ sở này, nhất nghệ tinh th́ nhất thân vinh, có nghề th́ chúng ta làm ra tiền. Mà có tiền th́ cuộc sống cũng giống nhau. Như một người khát nước, th́ dù đi mua nước hay đào nước, lấy nước bằng cách này hay cách khác để t́m được nước, th́ khi uống vào trạng thái "Đă khát" cũng đều giống nhau hết. Cũng vậy, trong vấn đề tu tập các pháp môn, hễ ḷng từ được phát triển th́ nó sẽ lôi kéo nhiều thiện pháp khác. Hễ quư vị tu được một điều thiện th́ những điều thiện khác tự nó sẽ có cơ hội để phát triển.
Chúng ta lấy thí dụ một vị Bồ Tát. Không có kiếp nào mà Ngài làm trọn vẹn mười pháp Ba La Mật hết. Hễ tu về Bố thí th́ nặng về bố thí. Nếu tu hạnh tŕ giới th́ nặng về tŕ giới, tu về thiền th́ nặng về tham thiền. Nhưng hễ tu một hạnh th́ những hạnh khác, dù không mạnh bằng, đều cũng tốt như nhau hết. Tuy nhiên hạnh Từ bi thương người là hạnh dễ tu nhất. Nó cũng tương đối dễ, không phải là khó lắm so với các thiện pháp khác như bố thí, tŕ giới v.v... Nếu quư vị cảm thấy hoan hỷ, nếu quư vị thấy có thể phát triển được th́ đó cũng là một đạo lộ giải thoát. Đức Phật Ngài nói rằng:
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm tŕ,
Đạt chánh tri viên măn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sanh tử.
Đoạn sau cùng mà chúng tôi vừa đọc cho quư vị nghe là đoạn Kinh Đức Phật dạy về kết quả của ḷng Từ. Nếu ai phát triển được ḷng từ th́ người đó sẽ nhập vào gịng Thánh, đi vào con đường giác ngộ và từ từ sẽ đạt đến đạo quả Niết Bàn.
Như vậy tóm tắt lại, trong bài kinh này ta t́m thấy được những ǵ? Ta t́m thấy thiện pháp mà Đức Phật dạy là ḷng Từ, cùng những đức tánh để trau dồi ḷng Từ đó, rồi đối tượng của ḷng Từ cùng những chướng duyên cản trở chúng ta không phát triển được ḷng Từ. Ngài cũng nói đến một hứa hẹn rất là chân thực mà nếu quư vị suy nghĩ, quư vị có thể hiểu được kết quả của ḷng Từ. Ngoài ư nghĩa về ḷng Từ bi này, c̣n một vài ư nghĩa khác nữa. Đó là trong đời sống, ḿnh không nên bắt ḿnh phải tốt hoàn toàn về mọi phương diện. Hễ người nào có trí tuệ th́ vị đó gắng học kinh, đọc sách, đừng thấy người khác bố thí được mà buồn phiền trong ḷng, tại sao người ta bố thí được mà ḿnh không bố thí, cứ tu hạnh trí tuệ một thời gian th́ các thiện pháp khác cũng phát triển. C̣n vị nào có hạnh phục vụ th́ đừng nói tại sao người ta đọc kinh, đọc pháp mau hiểu c̣n ḿnh không được. Nếu quư vị phát triển hạnh đó lâu dài th́ quư vị cũng được lợi lạc và tiến hóa. Nếu vị nào không bố thí được, không phục vụ được mà lại tŕ giới th́ đừng mặc cảm tại sao ḿnh không làm được những hạnh kia. Nếu tŕ giới chân thực lâu ngày cho đạt đến kết quả th́ trong ḷng quư vị, những thiện pháp khác cũng phát triển.
Cho nên quư vị hăy có một niềm tin mạnh mẽ và cố gắng diệt bỏ những buồn phiền trong ḷng ḿnh. Chúng ta hăy tin là chúng ta có những cái tốt và cái tốt đó có thể phát triển được. Khi cái tốt phát triển th́ cái xấu tự nó sẽ biến mất. Ngọn đèn thắp lên th́ bóng tối phải từ từ tan biến. Không nên ngồi đó để than phiền về bóng tối mà hăy thắp lên một ngọn đèn, ngọn đèn có thể xua tan di bóng tối. Muốn phát triển ḷng Từ bi th́ qua bài Kinh này chúng ta thấy có cái lư tu, có phương thức tu tập, có những điều sách tấn, khuyến khích chúng ta. Hăy cố gắng đọc bài kinh này, đọc từ đầu đến cuối, đọc từng đoạn khác nhau để nh́n thấy lư lẽ của bài kinh. Quư vị đọc 100 bài thần chú cũng không bằng một bài kinh mà quư vị có thể thông đạt được nghĩa lư, qua nghĩa lư đó quư vị có thể hành tŕ được.
Trước khi tóm tắt bài kinh lại một lần nữa, chúng tôi muốn kể cho quư vị nghe một câu chuyện rất ngắn thôi. Ngày xưa có một Sư cô tên Citta. Sư cô là người có ḷng tin Tam Bảo rất là mạnh mẽ. Đời sống của Sư cô th́ rày đây mai đó, đi hết chùa này đến chùa khác. Đi đâu Sư cô cũng mang theo một tượng Phật, khoảng 20 cm và đến bất cứ nơi nào, ngôi chùa nào, Sư cô cũng t́m một nơi tôn nghiêm nhất để đặt tượng Phật lên rồi thắp nhang thờ cúng. Lâu ngày Sư cô khám phá một điều là các chùa bên Bắc tông th́ tượng Phật nhiều lắm, Sư cô nghĩ tượng Phật của ḿnh quá nhỏ, mỗi lần thắp nhang như vậy cơ hồ khói nhang bay lên các tượng Phật khác ngửi hết. Như thế, biết Phật có chứng cho ḷng ḿnh không, mà cũng tội nghiệp cho đức Phật của ḿnh. Sư cô bèn nghĩ ra một sáng kiến hay tà kiến. Sư cô làm một ḷ hương như chúng ta có đây, nhưng trên có đồ chụp lại, trên đồ chụp có một ống khói, mỗi lần Sư cô thắp hương th́ ống khói sẽ dẫn hương thẳng đến mũi tượng Phật. Sư cô thấy yên trí lắm và tin rằng Phật hưởng hết khói nhang mà ḿnh cúng. Và thưa quư vị, lâu ngày th́ tượng Phật của Sư cô nám đen cả một vùng!
Chúng ta thờ Phật mà tâm hồn không quảng đại th́ lâu ngày không những chỉ đen lỗ mũi thôi mà c̣n đen hết cả tượng Phật, và Phật trong ḷng ta cũng đen như vậy. Chúng ta tu mà ích kỷ quá th́ cái ǵ có trong ḷng ta cũng đen thủi đen thui và có lẽ không c̣n h́nh ảnh đẹp đâu! Cho nên , hễ tu rồi th́ cố gắng phát triển ḷng Từ, nó có lợi cho chúng ta về nhiều phương diện lắm. Quư vị sẽ thấy là không phải chỉ đời sống quư vị có những lúc nản ḷng, mà đời sống xuất gia của chúng tôi cũng vậy nữa. Có nhiều vị tu sĩ hoàn tục ra đời, có nhiều vị bỏ cuộc, bởi trong cuộc tu không phải ai cũng thành công hết. Nhưng chúng ta nên nhớ một điều rằng, có những thứ trên đời này khó làm, khó chịu đựng, có những cách sống chúng ta không theo được mà vẫn có người làm được là tại sao?
Điều mà họ có thể giữ được là có một cái ǵ đó khiến họ không nỡ dứt áo ra di. Chúng ta biết rằng, có những người phụ nữ Á Đông, suốt đời lớn lên, lấy chồng, về nhà chồng, làm dâu, sinh con đẻ cái, có thể nói suốt đời, về thể xác, tinh thần, họ không có ǵ hạnh phúc hết. Vậy mà họ lại có thể chịu đựng được và làm tṛn bổn phận ḿnh một cách tốt đẹp, có thể nói rằng họ v́ con cái. Chúng tôi thấy rằng có những người sống một đời hết sức là khổ sở mà họ vẫn chấp nhận cho đến trọn cuộc đời là v́ con thôi. Chỉ v́ con mà họ có thể chịu đựng được, chỉ v́ con mà họ có một năng lực phi thừơng; th́ chúng ta cũng vậy. Chúng ta đi tu mà ích kỷ quá th́ trong lúc tu, gặp chuyện nản ḷng, chúng ta sẽ bỏ cuộc dễ dàng. Nhưng nếu trong đời sống tu hành mà chúng ta nghĩ đến người khác th́ dù gặp lúc nản ḷng nhất, chúng ta cũng c̣n biết nghĩ đến người khác, chúng ta ráng thêm được một chút điều này rất có lợi, rất cần thiết cho ta.
Quư vị thấy là học hàm thụ không có mấy ai ra trường hết, mà chúng ta đến lớp ngồi th́ chán hết sức. Ngày nào thức dậy cũng phải cắp sách đến trường, rồi rốt cuộc cũng công thành danh toại; c̣n người ta gởi bài đến nhà để học hàm thụ th́ không ai đậu hết. quư vị đến chùa, chư Tăng la lên la xuống th́ quư vị học Phật pháp được, mà ở nhà đọc kinh đọc sách quanh năm không nhớ chữ nào hết!
Đôi khi trong đời sống chúng ta, có một chút bó buộc cũng rất ích lợi, và nếu đó là sự ràng buộc của ḷng từ, do chính ḿnh lựa chọn th́ đó là một phước duyên chứ không phải một điều cay đắng. Nếu v́ bị ràng buộc mà cảm thấy cay đắng th́ cũng chỉ là chuyện nhất thời. Chúng tôi cầu nguyện cho tất cả chúng ta, trong đời sống tu của ḿnh sẽ có được những sự ràng buộc. Chính những ràng buộc đó sẽ cứu vớt chúng ta trong những giai doạn yếu đuối nhất. Cầu mong Tam Bảo gia hộ quư vị!
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thuyết giảng tại
Thụy Sĩ
1996/2540
Đại Đức Giác Đẳng
Trụ tŕ chùa Pháp Luân
13913 South Post Oak Road,
Houston, TX 77045
Hoa Kỳ
Trích từ trang web www.budsas.org