CÁCH TRỒNG SEN
Sư Pundariko
Đức Bồ tát ngồi dưới cội cây
Assattha và chứng quả vô thượng chánh đẳng
giác, từ đó cội cây lịch sử này có tên là Bodhi (
Bồ đề, giác ngộ). Cây Bồ đề là
biểu tượng giác ngộ hoàn toàn dành cho Đức
Phật. Đời sau c̣n vẽ Đức Phật
ngồi trên ṭa sen dưới gốc cây Bồ đề.
Điều này cho thấy thế đứng của sen
vẫn cần thiết bên cạnh cây Bồ đề. Sen là biểu tượng của
trí tuệ giải thoát dành cho tất cả thánh nhân, ngay
cả Đức Phật cũng ví Ngài như hoa sen
vươn lên khỏi mặt nước. Nếu không có trí
tuệ giải thoát th́ cũng không có sự giác ngộ. Đó
là hai phẩm tính của bậc thánh được tiêu
biểu qua h́nh ảnh hoa sen. Thực ra th́ khả năng giác ngộ tùy theo
trí tuệ của mỗi người. Do đó có sự phân
loại Toàn giác, Độc giác, Thanh văn giác. Lúc Bồ
tát Đản sanh bước
đi bảy bước, đời sau vẽ h́nh ảnh
đi trên bảy hoa sen. Đây là biểu tượng
của bảy yếu tố đưa đến giác
ngộ (Thất giác chi). Trong văn học Pāli lối
dùng biểu tượng thuộc về giai đoạn
kết tập thành văn tự. Bồ tát cảm thắng
ma vương nằm trong loại này ( thực tế ma
vương là những phiền năo nơi nội tâm). Vào
thời Đức Phật h́nh thức và biểu
tượng cũng đă xuất hiện rất nhiều
trong nền văn hóa bản xứ. Tuy nhiên Đức
Phật đă vượt qua ngôn ngữ biểu
tượng và tŕnh bày trở lại bằng ngôn ngữ
của chánh pháp. Khi nói về cách trồng sen người ta
liên tưởng đến việc trồng một
loại sen hữu h́nh nào đó. Nếu chúng ta muốn
trồng các loại sen trí tuệ th́ cũng phải theo
dấu chân của Đức Phật, nghĩa là t́m
đến chiều sâu của ngôn từ, hiểu rơ thâm ư và
phát triển những đức tính nội tâm để
khả năng giác ngộ được phát triển toàn
diện.
Đức
Phật là bậc vô thượng chánh đẳng giác, cho
nên bất cứ lời nói nào, ư nghĩa nào mà người
đời dùng đến không bao giờ gây trở ngại
cho Ngài. Trong nhiều trường hợp Đức
Phật có đủ biện tài vô ngại trong việc
sử dụng ngôn ngữ của chánh pháp, chuyển t́nh
huống gay cấn nhất thành đơn giản và
hướng kẻ đối thoại đầy chấp
trước vào niềm tin nơi Tam bảo. Lần nọ
Đức Phật ngồi tham thiền dưới cội
cây trong rừng. Một vị Bà la môn tên là Navakammika
đến gần Phật hỏi rằng:
- Tôi làm
nghề đốn củi trong rừng, c̣n sa môn Gotama làm
việc ǵ mà ở nơi đây?
-
Đức Phật đáp: Đối với ta không cần
phải làm ǵ trong khu rừng này. Bởi v́ rễ cây
rừng Ta đă bứng hết. Ta đă giải thoát
tất cả rừng rú chông gai, không c̣n bị gai
chướng đâm nữa. Do vậy Ta sống độc
cư an lạc nơi đây.
Lời
của Phật không phải nói về khu rừng chế
định như cách hiểu của vị Bà la môn .
Đức Phật đă dựa vào câu hỏi đó
để diễn tả khu rừng phiền năo nơi
nội tâm. Tất cả công việc trừ phiền năo
đă xong, do đó Ngài là một bậc thánh. Kết quả
của cuộc đối thoại là vị Bà la môn xin quy y
nơi Tam bảo.
– Tương ưng 1 B, p. 201.
Tương tự như trên khi nói về cách trồng
sen, chúng ta nên vượt qua lối hiểu thông
thường và đào sâu vào ư nghĩa của chánh pháp,
từ ‘trồng’ ở đây đồng nghĩa với
từ Pāli bhāvanā ‘ phát triển, tu tập’, vuṭṭhi ‘ tăng trưởng’. Muốn mau giác
ngộ phải phát triển trí tuệ giải thoát. Tăng
chi bộ kinh đề cập đến bốn pháp
tăng trưởng trí tuệ gọi là vuṭṭhi dhamma:
1.Thân cận bậc chân nhân ( Sappurisa saṃseva )
2. Nghe diệu pháp ( saddhammassavanaṃ)
3. Như lư tác ư (
yonisomanasikāra )
4. Thực hành pháp tùy pháp (dhammānudhammapaṭipatti)
Bốn pháp
này c̣n gọi là pháp có nhiều lợi ích cho ai
được sanh làm người ( dhammā
manussabhūtassa bahukārā honti.) và những ai muốn
thành tựu quả dự lưu bắt buộc phải có,
cho nên c̣n gọi là bốn dự lưu hướng chi
(cattāri sotāpattiyaṅgāni )
Khi
đến với Tam Bảo không phải là hành động
nô lệ. Quy y không phải là thái độ chấp nhận
mù quáng mà phải thực hiện cho được
phương châm quy y Tam Bảo là nương tựa chính
ḿnh cho đến toàn hảo. Bốn giai đoạn
tăng trưởng trí tuệ giúp cho chúng ta thành tựu
mục đích quy y: Bậc
chân chân ( sappurisa) là người có
thân, khẩu và ư thanh tịnh, từ đồng
nghĩa là thiện trí thức (paṇḍtita).
Bậc chân nhân là hạng người trí, là một
thiện hữu, cho nên sự thân thân cận một
người như thế sẽ giúp cho ta tinh tấn
nhiều hơn. Lẽ thường ai gần kẻ
xấu sẽ nhiễm cái xấu và tạo nhiều ác
nghiệp và gần người tốt sẽ học
hỏi nhiều điều hay, sẽ thêm những
đức tính chưa có và tạo nhiều thiện
nghiệp. Trong maṅgalasuttaṃ ( hạnh phúc kinh)
Đức Phật dạy ba mươi tám điều
đem lại hạnh phúc, trong đó có hai điều là
không thân cận kẻ ngu nhưng gần gũi bậc trí.
Dù là ở bên cạnh Đức Phật suốt
đời mà không lắng nghe lời của Phật th́
cũng như cái muỗng ở trong nồi canh. Một
bậc gọi là chân nhân dĩ nhiên sẽ có ngôn từ phù
hợp với những ǵ nội tâm đă thể
nghiệm. Lời đó gọi là diệu pháp ( saddhamma)
hoặc chánh pháp. Đối với kẻ ngu không biết
diệu pháp th́ đường luân hồi thật dài (
dīgho bālānaṃ saṃsāro saddhammaṃ avijānataṃ). Đời sống của người không
có nghe diệu pháp ví như mặt biển cuồn cuộn
sóng, c̣n đời sống của người có nghe
diệu pháp ví như mặt
nước hồ sâu, b́nh lặng, không khuấy
đục. Do vậy điều kiện thứ hai là khi
thân cận bậc chân nhân như vậy phải lắng
nghe diệu pháp của vị đó mới t́m
được lợi ích. Trong văn học pāli từ
nghe đồng nghĩa với từ học hỏi.
Nếu một người nghe nhiều nhưng chỉ liên
quan đến thế pháp th́ chưa gọi là nghe diệu
pháp. Trong maṅgalasuttaṃ( hạnh phúc kinh ),
bāhusaccaṃ nghe nhiều học rộng là một trong ba
mươi tám điều đem lại hạnh phúc. Sự
học hỏi thông suốt kiến thức ở
đời giúp cho nghề nghiệp được vững
vàng nhưng chưa gọi là nghe diệu pháp. Kiến
thức đó chỉ cần thiết cho công danh sự
nghiệp, chưa phải là nhân đưa đến
chấm dứt phiền năo. Nghe nhiều học rộng
về kinh nghiệm của những bậc chân nhân là nghe
diệu pháp v́ lối nghe này giúp chúng ta khai mở chân lư
để giải thoát mọi phiền năo. Khi nghe diệu
pháp nếu tâm trí hướng về vấn đề khác
th́ diệu pháp cũng không đến với tâm được.
Do vậy điều kiện thứ ba là như lư tác ư. Khi
nào lắng nghe với tâm tư an tịnh, sáng suốt là có
như lư tác ư. Như lư là đúng đắn, tác ư là chú ư.
Sự chú ư đúng đắn hướng về chân lư là
như lư tác ư. Nếu lúc nghe chú ư về nẽo tà là phi
như lư tác ư. Nhiều người nghe nhưng không nắm
được ư nghĩa sâu sắc, chỉ hiểu qua kinh
nghiệm tri thức. Cách nghe này dù thông suốt kinh điển
cũng không giảm phiền năo, trái lại càng hiểu
nhiều càng thêm kiêu ngạo và chấp ngă. Nghe với
như lư tác ư là hướng tâm đến chân lư, lúc đó
chỉ có pháp mà không có người. Một nội tâm
thuần tịnh khi lắng nghe pháp nếu đủ duyên
sẽ đưa đến thánh quả ngay lúc nghe như
trường hợp của
tín nữ Visākhā mặc dù lúc đó mới
bảy tuổi. Do vậy điều kiện thứ tư
là thực hành pháp tùy pháp, tức là thực hành theo chánh pháp
sau khi đă nghe, đă như lư tác ư. Sự thực hành pháp
là cách làm cho nhân duyên giác ngộ tṛn đủ. Một
người có chánh pháp nơi tâm nhưng không dựa vào
đó để phát triển thêm th́ vẫn bị lôi
cuốn theo ngoại cảnh và tăng trưởng tham,
sân, si trong đời sống. Đức Phật dạy
các pháp hữu vi là vô thường.Từ thân đến tâm
của ḿnh và người, từ muôn loài vạn vật
đều ở trong tướng hữu vi cho nên vô
thường. Cái ǵ vô thường là khổ và vô ngă. Do
vậy thực hành pháp tùy pháp để không c̣n tham
đắm đối với các tướng hữu vi dù là
trạng thái an lạc của thiền định.
Điều kiện thứ tư là giai đoạn trí
tuệ tỏa sáng, vượt qua sở đắc của
phàm phu đạt đến tri kiến của thánh nhân và
ngay cả tri kiến thanh tịnh cũng không chấp
thủ. Một bậc giải thoát hoàn toàn th́ ngay cả
chánh pháp cũng buông bỏ nói ǵ đến phi pháp. Xem
thế mới biết kẻ ác làm xáo trộn thế
giới, kẻ thiện cố gắng cải thiện
thế giới, nhưng chỉ có người
vượt qua cả ác
lẫn thiện mới hiểu được thế
giới, do hiểu mới làm cho thanh tịnh thế
giới. Một bậc giải thoát mọi chấp thủ
là người đă thành công trong việc trồng loại
sen chánh pháp nơi tâm qua bốn điều kiện nêu trên.
Hạt giống giác ngộ
sớm kết thành quả nhờ bốn nhân duyên phát
triển trí tuệ. Bốn nhân duyên trên gọi là bốn
pháp đem lại nhiều lợi ích cho ai được
sanh làm người. Trong đời này phần lớn
những kẻ làm ác phải chuốc lấy khổ đau
v́ giao du với kẻ xấu, hạng phi chân nhân. Những
người làm thiện được an lạc
về mọi mặt nhờ
thân cận bậc chân nhân. Giao du với người
tốt sẽ bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng nếu
không tùy thời học hỏi chánh pháp từ nơi vị
đó. Do vậy thân cận rồi cần phải nghe
diệu pháp. Việc học hỏi không phải v́ tư
lợi, không phải để tỏ ra là người
học rộng hơn người. Tâm hướng chơn
chánh khi nghe pháp vô cùng quan trọng. Do vậy khi nghe rồi cần
phải như lư tác ư. Mặc dù có chú ư theo lẽ phải,
có hướng tâm về chánh đạo, kết quả
cũng yếu kém. Lư do là v́ không cố gắng thành tựu
hành tŕnh giải thoát. V́ lẽ đó thực hành pháp tùy pháp
cần phải có để
hoàn tất phận sự vun trồng giống sen trí
tuệ. Khi hoa sen trí tuệ nở hoa rực rỡ th́
hương giác ngộ cũng tỏa ngát muôn phương.
ÿ