Trang chính Dieu Phap

     


...... ... .




Rèn Luyện Trí Tuệ
Đại Phương Quảng (Mahavedalla Sutta)
Phổ Nguyệt, 2007

 

 

 

Đạo Phật là đạo giải thoát nói từ viễn cảnh cứu cánh, nhưng trên thực tế th́ì trí tuệ mới là pháp căn bản để tu tập cho mọi tu sĩ đến bờ giác ngộ. Từ sự giác ngộ, chúng sanh mở ra đường sáng vượt khỏi đám mây mù của dọ̀ng tâm thức vốn che khuất bầu trời trí tuệ. Tâm thức là nhận thức sự vật (lục trần) bằng lục căn, nên lục thức hay tâm thức vô thường và biến dị. Sự vật được nhận thức chẳng qua là do duyên khởi hoặc giả danh, nên chúng chịu luật sanh diệt theo thời gian ngay cả nhận thức cảm thọ tưởng thức là những hành động liệt tri. Muốn vượt thoát khỏi sự sanh diệt ấy tất phải dùng trí năng soi sáng mọi biến đổi, vô thường của thọ, tưởng, và thức (nói chung là ḍòng tâm thức) mà đến thế giới bất sanh bất diệt, trong sáng và thường hằng. Trí tuệ có khả năng trong sạch hóa mọi ḍng tâm thức bằng cách hư không hóa mọi hữu tồn dù tâm hay vật. Rèn luyện trí tuệ là một nhu cầu thiết yếu cho mọi tu sĩ sơ cơ hiểu rơ trước khi tu tập các pháp môn khác. Trong Đại Kinh Phương Quảng, Tôn giả Mahakotthita (Đại-Câu-hy-la) vấn đạo với Tôn giả Sariputta (Xá lợi Phất) do HT. Thích Minh Châu chuyển dịch từ tiếng Pali đă diễn đạt pháp rèn luyện trí tuệ rất căn bản và rỏ ràng.


I. Trí Tuệ


"Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahakotthita (Đại Câu-hy-la), vào buổi chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta những lời chào đón, hỏi thăm xă giao rồi ngồi xuống một bên.
Trí tuệ
Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahakotthita nói với Tôn giả Sariputta:
- Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ (Suppanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là liệt tuệ
Này Hiền giả, v́ không tuệ tri, không tuệ tri (Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ.
Không tuệ tri gì́?
-Không tuệ tri: đây là Khổ,
-Không tuệ tri: đây là Khổ tập,
-Không tuệ tri: đây là Khổ diệt,
-Không tuệ tri: đây là con đường đưa đến Khổ diệt.
V́ không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là liệt tuệ
- Lành thay, Hiền giả!
Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sariputta một câu hỏi nữa:
- Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là trí tuệ?
V́ có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ. Có tuệ trí gì́?
-Có tuệ tri: đây là Khổ,
-Có tuệ tri: đây là Khổ tập,
-Có tuệ tri: đây là Khổ diệt,
-Có tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt.
V́ có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ."
Trí tuệ là cái biết rõ ràng, sáng suốt của trí năng. Trí tuệ c̣n gọi là tuệ giác là cái biết sát-na hiện tiền. Khi dùng cái biết rõ về ḍòng tâm thức là chúng ta đă giải thoát mọi tri thức sai lầm của lục căn. Thí dụ,
Chúng ta thấy con bọ̀:
Đầu tiên cảm giác h́nh ảnh con vật ở võng mạc mắt,
Nhận thức hì́nh ảnh con vật tên là con bọ̀, chúng ta mới nói là thấy con bọ̀. Thấy đó là nhăn thức. Nhăn thức được nhận thức h́nh ảnh gọi là con bọ̀ (đối tượng) tưởng là thấy con bọ̀ bằng xương bằng thịt. Như vậy là nhận thức sai lầm, chỉ có cái biết mới thật. Thấy con bọ̀ chúng ta biết thấy có con bọ̀, khi không có con bọ̀ ở đó, chúng ta cũng biết thấy không có con bọ̀. Thấy có con bọ̀ hay không có con bọ̀ mà lúc nào chúng ta cũng biết. Tựu trung đối tượng lúc có lúc không hay thay đổi, nhưng cái biết th́ì thường hằng bất biến. Vậy khi biết rõ ḍòng tâm thức là chúng ta đă dùng trí năng phủ định hay đoạn tận dọ̀ng tâm thức rồi. Vậy tuệ tri ( tri nhận) ḍòng tâm thức là đă thể hiện giác trí tuệ. Như,
"-Có tuệ tri: đây là Khổ,
-Có tuệ tri: đây là Khổ tập,
-Có tuệ tri: đây là Khổ diệt,
-Có tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt.
V́ có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ."


II. Dọ̀ng Tâm Thức


Thật ra thức thọ tưởng là dọ̀ng tâm thức đang lăn trôi theo thời không, nên chúng cũng vô thường, biến dị và sanh diệt. Những đối tượng hì́nh thành ḍòng tâm thức thường do ư thức tác động tự động hay chủ động trong tâm khảm hay ngoại giới, nên có sự nhận thức sai lầm. Vậy cần phải liễu tri, là nhận thức sâu suốt ḍòng tâm thức nầy. Trí tuệ cần phải được tu tập, ḍòng tâm thức cần phải được liễu tri hay đoạn tận. Trí tuệ thì́ dùng ư trí tác năng để tuệ tri (tri nhận) dọ̀ng tâm thức, tuệ tri và thức tri thì́ bì́nh đẳng như thấy biết tuy hai mà một, khi thấy (thức) thì́ mới biết (tuệ tri) được; đó là sự kết hợp. Cọ̀n dọ̀ng tâm thức thì́ được liễu tri (nhận thức sâu suốt)) hoặc đoạn tận do ư thức tác động, thấy biết tuy một mà hai. Thấy (thức) th́ì vô thường biến dị, biết (tuệ tri) thì́ thường hằng và không thay đổi; đó là sự sai khác giữa các pháp nầy.


Kinh viết:


"Thức
Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là như vậy.Này Hiền giả, vì́ thức tri, thức tri, này Hiền giả nên được gọi là có thức. Thức tri ǵ? Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức?
-Thức tri lạc,
-Thức tri khổ,
-Thức tri bất khổ bất lạc.
V́ thức tri, thức tri, này Hiền giả, nên được gọi là có thức.
- Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?
- Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì́ tuệ tri được là thức tri được, điều ǵ thức tri được là tuệ tri được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần
- Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết hợp, không phải không kết hợp này?
Này Hiền giả, Trí tuệ như vậy, thức như vậy, giữa những pháp được kết hợp, không phải không được kết hợp này, trí tuệ cần phải được tu tập (Bhavetabba), cọ̀n thức cần phải được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác giữa những pháp này.
Cảm thọ
- Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm thọ?
Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedeti), nên được gọi là cảm thọ. Và cảm thọ ǵì?
-Cảm thọ lạc,
-Cảm thọ khổ,
-Cảm thọ bất khổ bất lạc thọ.
Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ, nên được gọi là cảm thọ.
Tưởng
Này Hiền giả, tưởng, tưởng (Sanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là tưởng?
- Tưởng tri, tưởng tri (Sanjanati), này Hiền giả, nên được gọi là tưởng, Và tưởng tri ǵ? Tưởng tri màu xanh, tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng. Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi là tưởng.
Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?
- Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều ǵ cảm thọ được là tưởng tri được, điều gì́ tưởng tri được là cảm thọ được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần."


III. Tuệ Nhăn


Tuệ nhăn là tánh thấy bao la, là ư trí tác năng, rổng không như hư không vô hạn và thời gian vô tận, v́ nó bao trùm khắp năm căn, không giới hạn ở căn nào mà cũng không liên hệ đến năm căn. Tuệ nhăn là ư thức thanh tịnh, trống rỗng, không có sự vật ǵ nên nó có thể dung chứa mọi thức, v́ thức th́ trùng trùng duyên khởi ở khắp mọi nơi, mọi thời. Pháp có thể tuệ tri được là nhờ tuệ nhăn. Vậy tuệ nhăn là tánh hư không vô tận, thức là tướng hư không sanh khởi do riêng mỗi căn được dung chứa trong hư không vô tận, thường giới hạn ở từng căn. Tuệ nhăn là bầu hư không vô tận dung chứa thức sẵn có mọi nơi mọi thời, nên đưa đến pháp có thể tuệ tri được. Nói khác đi là pháp có thể tuệ tri, thắng tri, liễu tri hay đoạn tận được là nhờ tuệ nhăn, ư thức thanh tịnh, cái nh́n bao la, khả năng trùm khắp thời không, mà mọi pháp không thể ở ngoài thời không.


Kinh viết:


"Tuệ nhăn
- Này Hiền giả, ư thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến ǵ?
- Này Hiền giả, ư thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật ǵ.
- Này Hiền giả, pháp ǵ đưa đến nhờ ǵ có thể tuệ tri được?
- Này Hiền giả, nhờ tuệ nhăn, pháp được đưa đến có thể tuệ tri.
- Này Hiền giả, trí tuệ có ư nghĩa ǵ?
- Này Hiền giả, trí tuệ có ư nghĩa là thắng tri (Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (Pahanattha)."


IV. Pháp Chánh Tri Kiến


Tri kiến thế gian do thọ tưởng hành thức kết tập, nên nó hổn độn, vô thường biến dị hay sanh diệt, thêm bớt và xấu tốt hay thiện ác. Do vậy, người tu sĩ th́ phải tu tập chánh trí, mà chánh trí duyên khởi do người khác và lư tác ư thúc đẩy và phải được hổ trợ bởi năm chi phần sau đây: giới, kinh, luận, chỉ, và quán, để có tâm giải thoát quả b́nh thường, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả, và tuệ giải thoát quả công đức.


Như kinh viết:


"Chánh tri kiến
- Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi?
- Này Hiền giả, có hai duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi: Tiếng của người khác và như lư tác ư. Này Hiền giả, do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi.
Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả công đức?
- Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức. Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ trợ, có văn (Suta) hỗ trợ, có thảo luận hỗ trợ, có chỉ (Samatha) hỗ trợ, có quán (Samadhi) hỗ trợ. Này Hiền giả, chánh tri kiến được hỗ trợ bởi năm chi phần này để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức."
V́ vô minh che mờ do tham ái trói buộc nên chúng sanh trôi giạt trong sanh tử luân hồi. Có ba hữu: Dục Hữu, Sắc Hữu và Vô Sắc Hữu, khi bị tham ái lôi kéo gây ra quả xấu hay tốt (nhân quả như báo ứng, hoặc có công đức); khi vô minh được xả ly, minh được khởi, tham ái được đoạn diệt, th́ tâm (ḍng tâm thức) được giải thoát mọi ràng buộc của ḍng bộc lưu sanh tử luân hồi th́ trí (trí tuệ) được trong sáng.


Kinh viết:


"Hữu
- Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu (Bhava)?
Này Hiền giả có ba hữu:
-Dục hữu,
-Sắc hữu,
-Vô sắc hữu.
Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai được xảy ra?
- Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu t́nh thích thú chỗ này chỗ kia, như vậy, sự tái sinh trong tương lai được xảy ra.
Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai không xảy ra?

- Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai không xảy ra."


V. Tu Tập


1. Thiền thứ nhất
Đầu tiên người tu sĩ tu học pháp ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và an trú thiền thứ nhất. Khi thực hành ly dục, hành gỉa cảm nhận hỷ lạc v́ có tầm tứ. Tầm là t́m kiếm, cân nhắc, ngẫm nghĩ. Trong thực tập thiền “tầm” tạm thời khắc phục trạng thái hôn trầm và thụy miên. Tứ là tên của tâm sở (quán): Vicara (p & skt): ḍ xét, cân nhắc, quan sát, suy xét, tầm chân lư, tư duy biện luận. Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần: 1) tham dục, 2) sân, 3) hôn trầm thụy miên, 4) trạo hối, 5) nghi, và thành tựu năm chi phần: tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Dùng tuệ tri để thành tựu năm chi phần và đoạn tận năm từ bỏ chi phần là hành thiền thứ nhất.


Kinhviết:


"Thiền thứ nhất

- Này Hiền giả, thế nào là Thiền thứ nhất?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Thiền thứ nhất.
- Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có bao nhiêu chi phần?
Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất, có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần như vậy.
Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ bao nhiêu chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?
Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần."
2. Năm Căn
Cần phân biệt năm căn có cảnh giới khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau. Do ư thức tác động lănh thọ cảnh giới hay hành giới tùy thuộc sở y của chúng. Do duyên tuổi thọ mà năm căn an trú. Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú, cũng như hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú, v́ khi c̣n sống là c̣n tuổi thọ là c̣n hơi nóng (hơi thở). V́ vậy, phải nhờ tuệ nhăn để rèn luyện năm căn. Thấy biết như chơn mắt, chơn sắc, chơn nhăn thức; nghe biết như như chơn tai, chơn thinh, chơn nhĩ thức; ngửi biết như chơn mũi, chơn hưong, chơn tĩ thức; nếm biết như chơn lưỡu, chơn vị, chơn tĩ thức; chạm biết như chơn thân chơn xúc, chơn xúc thức.


Kinh viết:


"Năm căn
Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có thọ lănh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái ǵ làm sở y cho chúng, cái ǵ lănh thọ cảnh giới, hành giới của chúng.

Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lănh thọ cảnh giới, hành giới lẫn nhau, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ư làm sở y cho chúng, và ư lănh thọ cảnh giới và hành giới của chúng.
Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên ǵ mà chúng an trú?
Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên tuổi thọ (Ayu) mà chúng an trú.

Này Hiền giả, tuổi thọ do duyên ǵ mà an trú?
Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú.

Này Hiền giả, hơi nóng do duyên ǵ mà an trú?
Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ lời nói của Tôn giả Sariputta-là tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú. Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn giả Sariputta-là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này Hiền giả, như thế nào, cần phải hiểu ư nghĩa lời nói này?
Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví dụ. Nhờ ví dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ư nghĩa lời nói. Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng, duyên tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn được thấy. Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú, và hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú."
3. Pháp Thọ Hành
Pháp thọ hành là pháp đă dùng tuệ tri các pháp được cảm thọ. Pháp được cảm thọ là chưa thể nêu rơ xuất khởi của hành giả đă thành tựu diệt thọ tưởng định. C̣n pháp thọ hành là pháp tuệ tri cảm thọ nên có thể nêu rơ sự xuất khởi của hành giả đă thành tựu diệt thọ tưởng định. Khi mạng chung, th́ vật chết như thân khẩu ư dùng lại, tức là tuổi thọ diệt tận, hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Khác với hành giả đă thành tựu diệt thọ tưởng định th́ thân hành của vị này được chấm dứt, được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt. Đó là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung này với hành giả thành tựu Diệt thọ tưởng định.
"Pháp thọ hành
Này Hiền giả, những pháp thọ hành (Ayusankhara) này là những pháp được cảm thọ (Vedaniya) này, hay những pháp thọ hành này khác với những pháp được cảm thọ này?
Này Hiền giả, những pháp thọ hành này không phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền giả, nếu những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này th́ không thể nêu rơ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đă thành tựu Diệt thọ tưởng định. Này Hiền giả, v́ rằng những pháp thọ hành khác, những pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rơ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đă thành tựu Diệt thọ tưởng định.
Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào có bao nhiêu pháp được từ bỏ, th́ thân này được nằm xuống, quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?
Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào ba pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, th́ thân này nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ như một khúc gỗ vô tri.

Này Hiền giả, có sự sai khác ǵ giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định?
Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại. C̣n vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định, th́ thân hành của vị này được chấm dứt, được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt. Này Hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định."
4. Tâm Giải Thoát
Tâm giải thoát là tâm đă chứng tri được chánh tri kiến. Chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc là do bốn duyên: xả lạc, xả khổ, diệt hỷ và ưu đă cảm thọ trước mà hành giả chứng và trú thiền thứ tư là không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Chứng nhập vô tướng tâm giải thoát do hai duyên: Không có tác ư nhất thiết tướng và tác ư vô tướng giới. An trú vô tướng tâm giải thoát do ba duyên: không tác ư nhất thiết tướng, tác ư vô tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Có hai duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát: tác ư nhất thiết tướng và không tác ư vô tướng giới. Vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm giải thoát này, có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt, v́ pháp môn này tu tập các từng loại thiền danh khác nhau. Và lại có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng nhất và danh sai biệt, nghĩa đồng nhất v́ đều chứng tri chánh tri kiến hay chứng nhập tâm giải thoát. Khi hành giả an trú tỏa một phương với tâm thấm nhuần với từ, cũng vậy phương thứ hai (bi), cũng vậy phương thứ ba (hỷ), cũng vậy phương thứ tư (xả). Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú và chứng tri tâm thắm nhuầni từ bi hỷ xả tỏa khắp bốn phương, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát? là hành giả vượt lên mọi Thức vô biên xứ, là khi hành giả nghĩ rằng: "Không có vật ǵ" chứng và trú Vô sở hữu xứ. Đó gọi là Vô sở hữu tâm giải thoát. Thế nào là không tâm giải thoát? Ở đây, khi hành giả đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau: "Đây trống không, không có tự ngă hay không có ngă sở". Như vậy gọi là không tâm giải thoát. Thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, hành giả không tác ư với nhất thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định. Như vậy gọi là vô tướng tâm giải thoát. Tham là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Đối với hành giả đă đoạn trừ các lậu hoặc, th́ tham, sân, si này được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, th́ bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có tham, không có sân, không có si. Đó là những pháp đồng nghĩa nhưng danh sai biệt.


Kinh viết:


"Tâm giải thoát

Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc?
Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc.

Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát?
Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát: không có tác ư nhất thiết tướng và tác ư vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập vô tướng

Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát?
Này Hiền giả, có ba duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát: không tác ư nhất thiết tướng, tác ư vô tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba duyên này mà an trú vô tướng tâm giải thoát.
Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát?
Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát: tác ư nhất thiết tướng và không tác ư vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi vô tướng tâm giải thoát.
Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát này, vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát này và vô tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai biệt và danh sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt?
Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp môn này, các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, lại có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.
Này Hiền giả, thế nào là có pháp môn, do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến măn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Vị ấy an trú biến măn một phương với tâm câu hữu với bi...

Vị ấy an trú biến măn một phương với tâm câu hữu với hỷ...
Vị ấy an trú biến măn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô lượng tâm giải thoát.
Và này Hiền giả, thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật ǵ" chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô sở hữu tâm giải thoát.
Và này Hiền giả, thế nào là không tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau: "Đây trống không, không có tự ngă hay không có ngă sở". Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát.
Và này Hiền giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ư với nhất thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng tâm giải thoát.
Như vậy là có pháp môn và do pháp môn này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt.
Và này Hiền giả, thế nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt.
Tham, này Hiền giả, là một vật ǵ (chướng ngại), sân là một vật ǵ (chướng ngại), si là một vật ǵ (chướng ngại). Đối với vị Tỷ-kheo đă đoạn trừ các lậu hoặc, th́ tham, sân, si này đă được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô sở hữu, th́ bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát ấy không có tham, không có sân, không có si.
Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Đối với vị Tỷ-kheo đă đoạn trừ các lậu hoặc, th́ tham, sân, si này được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, th́ bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có tham, không có sân, không có si.
Như vậy, này Hiền giả, là pháp môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai biệt.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy."
5. Pháp Thực Hành
Trong tứ oai nghi, rèn luyện trí tuệ là nhu cầu tu tập, mà tọa thiền là tối ưu. Lần lượt từ thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, hành giả cần an trú chánh trí càng lâu càng chứng tri các thiền cao hơn. Chẳng hạn,
Thiền thứ nhất:
Từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
* Tuệ tri (biết rơ) ta phải từ bỏ tham dục, và tuệ tri nhiếp tâm thanh tịnh t́m chân lư (tầm) và đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng v́ tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau.
* Tuệ tri ta phải từ bỏ sân, và tuệ tri (tứ) định tâm hết cân nhắc , v́ sân là tướng giận hờn v́ muốn mà không được thỏa măn.
* Tuệ tri ta phải từ bỏ hôn trầm thụy miên, và tuệ tri ta được vui vẻ (hỷ) v́ không c̣n thấy hôn trầm, buồn ngủ làm tâm trí mờ tối.
* Tuệ tri ta phải từ bỏ trạo hối, và tuệ tri ta được sung sướng (lạc) khi không có ăn năn hối hận hoặc phiền năo.
* Tuệ tri ta phải từ bỏ nghi hoặc, và tuệ tri ta tin tưởng pháp thiền này mà an trú nơi nhất tâm (chơn tâm)
Cũng vậy rèn luyện năm căn phải dùng tuệ nhăn mà tuệ tri từng căn một để biết rơ an trú nơi nhất tâm (chơn năm căn, năm trần, năm thức). Chẳng hạn, thấy biết như chơn mắt, chơn sắc, chơn nhăn thức; nghe biết như như chơn tai, chơn thinh, chơn nhĩ thức; ngửi biết như chơn mũi, chơn hưong, chơn tĩ thức; nếm biết như chơn lưỡu, chơn vị, chơn tĩ thức; chạm biết như chơn thân chơn xúc, chơn xúc thức.
Cho đến thiền thứ tư, tuệ tri về thức, tưởng, cảm thọ. Có bốn duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Đó là xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Lần lượt tu tập vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm giải thoát. Hành giả tuệ tri đoạn tận các lậu hoặc, tham sân si, và tuệ tri an trú tâm từ bi hỷ xả tỏa khắp bốn phương, cũng như thành tựu "Diệt Thọ Tưởng Định"


VI. Kết Luận.


Nhờ có tuệ nhăn là tánh thấy bao la trong không gian vô hạn và thời gian vô tận, nên có thể tuệ tri được. Tuệ tri là cái biết sát-na hiện tiền, biết rơ vô thời không. Các pháp thọ hành hoặc tu tập tâm giải thoát là hư không hóa mọi ḍng tâm thức như cảm thọ, tưởng và thức, vốn do do tham ái trói buộc làm cho tâm vẩn đục. Trí tuệ làm cho pháp thọ hành "chánh trí" để chứng tri và an trú thiền thứ tư. Hành giả đă đoạn trừ các lậu hoặc, th́ tham, sân, si này được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, th́ bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có tham, không có sân, không có si, an trú và chứng tri tâm thắm nhuần từ bi hỷ xả toả khắp bốn phương, v.v.... Tóm lại, Phật và Xá Lợi Phất thường dạy đạo bằng phương pháp "Thấy Biết như chơn lục căn, lục trần, hay lục thức" là thấy biết, đọc biết, nghe biết, hay niệm biết ...các pháp hay đối tượng như chơn như thật là để vô tướng hoá các pháp như ái thủ hữu là những phiền trược trói buộc, và thắm nhuần tứ vô lượng tâm, nên thường lập lại các đối tượng (pháp) đó để được thấy biết rơ ràng. Hành giả sống an trú chánh niệm với hy vọng hướng đến chánh trí, như vậy vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Rèn luyện trí tuệ bằng pháp chánh tri kiến để thành tựu diệt thọ tưởng định là nhu cầu căn bản và thiết yếu được Tôn giả Xá-Lợi Phất thuyết giảng đầy đủ trong Đại Kinh Phương Quảng này.


Tham khảo
Đại Kinh Phương Quảng (Mahavedalla Sutta). Trung Bộ Kinh do Thanissaro Bhikkhu dịch từ tiếng Pali và chuyển Việt dịch do HT. Thích Minh Châu, "chữ trong hai ngoặc kép" trích trong Diệu Pháp website, phần Chì́a Khóa Học Phật (Kinh Điển) "Chữ nghiên trong hai ngoặc kép":
http://www.dieuphap.com

 

 

Webmaster:Minh Hạnh&Thiện Pháp

Trở về Tủ Sách Phật Học

Đầu trang