Tranh Lợn Âm Dương
Tranh Tết Dân Gian

Tranh Phú Quý

Ngày xuân Đinh Hợi xem tranh Lợn Đông Hồ
Tranh Đông Hồ nhiều, nhưng quen thuộc nhất, nổi tiếng nhất có lẽ là tranh Gà, tranh Lợn. Hãy để ít phút giây ngắm bức tranh Lợn lạ lùng của nền hội họa dân gian. Bức Lợn nái ăn dáy thật đẹp. Lợn được cách điệu lạ mắt. Đặc biệt là cái khoáy tròn âm dương. Làm sao có thể nhìn những cái xoáy lông trên mình con lợn thành cái khoáy âm dương của triết học cổ được! Đó thật sự là sự thần tình của người họa sĩ dân gian. Đó là thần bút! Bức Đàn lợn mẹ con cũng vậy. Trên mình con lợn nào cũng có khoáy âm dương!
Làng tranh Đông Hồ
Từ ngã tư Đông Côi rẽ sang trái về phía Bắc Ninh, tới bến đò làng ở trên bờ nam sông Đuống có làng Đông Hồ, tức làng Mai. Đây là làng nghệ thuật cổ, còn gọi là làng tranh Đông Hồ vốn được những người sành về mỹ thuật trong, ngoài nước hâm mộ. Tranh Đông Hồ có nhiều mầu và mỗi mầu phải khắc một bản ván riêng, do vậy mỗi gia đình chứa rất nhiều ván khắc. Một bức tranh có tới hàng năm sáu ván. Người sáng tác mẫu vẽ lên giấy, sau đó dán giấy lên các ván và khắc, nét khắc khá sâu và đứng thành.
Đặc điểm in ấn
Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; mỗi màu dùng một bản, và bản nét in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được "sản xuất" với số lượng lớn và không đòi hỏi kỹ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván gỗ một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường các tờ tranh không lớn quá 50 cm mỗi chiều.
Giấy in và màu sắc
Tranh Đàn Lợn Mẹ Con

Trong bài thơ ''Bên kia Sông Đuống'' nhà thơ Hoàng Cầm viết:
''Tranh Đông Hồ, gà lợn nét tươi trong,
''Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Ngoài các đặc điểm về đường nét và bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hóa chất) hồ (hồ được nầu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông (thực vật) thôngquét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp. Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng (nguyên tố)đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ vang), v.v. Đây là những màu khá cơ bản, không pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường thường tranh Đông Hồ chỉ dùng tới 4 màu mà thôi.
Thay đổi gần đây
Tranh Đông Hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, nhắc tới hầu như ai cũng đều biết cả. Tranh gần gũi còn vì hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn trong chương trình học. Ngày nay lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một, làng tranh cũng thay đổi nhiều: làng Đông Hồ ngày nay có thêm nghề làm vàng mã. Nghề giấy dó ở làng Yên Thế (Bưởi, Tây Hồ) cũng đã không còn. Tuy thế tranh Đông Hồ đóng vai trò như một di sản văn hóa, một dòng tranh dân gian không thể thiếu.
Tranh Vinh Hoa

Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường", màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nôm) bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này ước đoán là:
-Có một thời chữ Hán (và chữ Nôm) bị coi là phong kiến lạc hậu, liệt vào danh mục bài xích nên thợ in đục bỏ cho đỡ rách việc.
-Thế hệ sau này không phải ai cũng đọc và hiểu được các ký tự ấy nên tự ý bỏ đi.
-Cũng do không đọc hiểu được nên các ván khắc truyền lại "tam sao thất bản", đến mức còn lại các ký tự nhưng không đọc được ra chữ gì. Nội dung tranh
Nội dung tranh phổ biến nhất là chúc tụng; ví như tranh Vinh hoa-Phú quý, Nghi xuân, Gà đàn , tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sáo, Nhà Nông... Với các tranh có phần chữ Hán đi kèm thì ý nghĩa sáng tỏ hơn bao giờ hết. Ví dụ như tranh Nhân nghĩa vẽ hình em bé ôm cóc có chú thích chữ "nhân nghĩa" ấy chính là lời cầu chúc cho các cháu bé được tặng tranh có được cái Nhân, cái Nghĩa như con cóc tía trong truyện cổ: mình mẩy tuy có thể xấu xí, bé nhỏ song dám lên kiện cả ông trời để đòi mưa cho dân làng. Chính vì vậy tranh vẽ hình em bé ôm con cóc một cách trìu mến. Không có sự giải thích nội dung tranh sẽ trở nên khó hiểu vì ai mà bồng bế một con cóc bao giờ.
Các tranh khác, đặc biệt là tranh sinh hoạt thì có nhiều cách giải thích hơn, cho tới nay có những cách phân tích khác nhau hoàn toàn (ví dụ tranh Đánh ghen).
Về nội dung tranh, lưu ý rằng có sự gần gũi nhất định giữa nội dung tranh khắc gỗ màu của Việt Nam với của Trung Quốc, có những tranh mà cả hai nước đều có, song tranh Đông Hồ phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế kỷ và được thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam.
Chánh Hạnh sưu tầm

 

© trinh bay: Minh Hanh & Chanh Hanh > back