Ở Việt Nam thuở xưa,
vào mỗi dịp Xuân về, người dân
hay đến nhà những « Thầy Ðồ
» hay những người « hay chữ » để
xin chữ về treo như một bức tranh, vừa
là món đồ trang trí nhưng cũng vừa
là món ăn tinh thần. Thầy đồ hay người
hay chữ cho chữ bằng cách viết một hay nhiều
chữ trên một tờ giấy lớn, với nội
dung mang tính cách chúc tụng hay giáo dục,
nét chữ thường được khen là đẹp
như rồng bay phượng múa. Lối viết như
vậy được gọi là Thư Pháp
(Calligraphy). Thư Pháp là phương pháp viết
chữ (đẹp). Thư pháp là một môn
nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã
được các nước Nhật, Triều
Tiên, Việt Nam âm thầm chấp nhận và
lặng lẽ duy trì. Ðối với phương
Tây, thư pháp được thực hiện bằng
nhiều phương tiện: bút sắt, cọ, thước,
compa, êke... Con chữ được nắn nót
theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là
cái đẹp của các con chữ theo thị
giác người sử dụng hệ chữ La Tinh.
Ðối với người phương Ðông,
nói đến môn Thư pháp, người ta
thường nghĩ đến cách viết chữ
Hán với phong cách đặc biệt... Với
cây bút lông, mực và giấy người
Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ
vươn lên đỉnh cao với lý thuyết
phong phú, mang tính triết học, thiền học.
Ở Việt-Nam vào thời điểm nầy,
có lẽ ngoại trừ một số người lớn
tuổi thâm Nho mới đọc được chữ
Hán, chữ Nôm, còn hầu hết là
không đọc được. Bởi vậy tại
sao ta không viết thư pháp bằng tiếng Việt?
Viết chữ Việt cũng đẹp vậy, bởi
vì sao giải thích được: « Sao
là đẹp? Sao là không đẹp? »
(KTS Nguyễn Thanh Sơn) « Biết đâu cái
gọi là đẹp đối với ta, chắc
gì gọi là đẹp đối với kẻ
khác !... biết đâu cái gọi là đẹp
đối với ta bây giờ chắc gì gọi
là đẹp đối với ta sau nầy »
(Trang Tử).
Thư pháp bằng tiếng Việt
Theo các bậc khoa giáp thời xưa, việc chọn một câu văn một bài thơ để viết lên trang giấy là việc cần hết sức cẩn trọng. Vì ngoài việc thể hiện nét bút tài hoa, năng khiếu viết chữ, nội dung một bức thư pháp còn cho thấy tư tưởng, kiến thức, tâm hồn của người viết. Khi cầm bút, ngoài thể hiện những đường nét rồng bay phượng múa, các thư pháp gia còn phải "nhiếp tâm" với những gì mình sắp sửa viết ra.
Phong trào viết Thư pháp bằng tiếng Việt đã được khôi phục một cách mạnh mẽ từ khoảng 10 năm nay tại Việt Nam, nhiều Câu Lạc Bộ viết Thư pháp được thành lập trong các thành phố lớn, đã có nhiều "Thư pháp gia" tổ chức những cuộc triển lãm thư pháp như những hoạ sĩ triển lãm tranh vẽ. Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và các bạn sơ lược về bộ môn này.
Mới nhìn qua, chúng ta có thể nghĩ là bộ môn này khá dễ, muốn viết sao cũng được, miễn cho đẹp thì thôi ! Thật ra môn Thư pháp cũng có nhiều qui tắc, sau đây là vài nguyên tắc chính:
Chương pháp: tức là nghiên cứu phương pháp phân bố chữ với chữ, hàng với hàng, và các hàng với toàn bộ bức thư pháp. Một bức thư pháp thành công hay không là do ở chương pháp.
- Ðầu câu không thụt vô.
- Các hàng đều và dài bằng nhau
- Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng
- Khoảng trống ở hàng cuối không dài hơn phân nửa chiều dài của hàng
- Không dùng dấu chấm câu.
Hình dạng bức thư pháp: Có bốn hình dạng chính:
- Hình chữ nhật đứng (Trung đường)
- Hình chữ nhật ngang (Hoành phi)
- Hình vuông (Ðấu phương)
- Hình mặt quạt (Phiến diện)
Ấn chương (hay con dấu, con triện) là một nét văn hóa rất độc đáo của người Trung Quốc.
Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Ðặt đúng vị trí, ấn chương tăng thêm giá trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỹ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo.
Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi:
Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm.
Khắc nổi, khi in ra có nét chữ đậm trên nền lợt.
Loại nửa chìm nửa nổi
Vị trí đặt con dấu:
Trong các thư tác của người Trung Hoa xưa có nhiều vị trí được qui ước để đóng dấu như:
- Ðóng ở bên phải, phía trên thư tác gọi là Nhân chương
- Ðóng ở thắt lưng thư tác gọi là Yêu chương
- Ðóng ở phía dưới, bên trái thư tác gọi là Danh chương
Tùy theo thư tác có khổ lớn hay nhỏ, dài hay ngắn mà có thể đóng một, hai, hoặc ba dấu triện. Vị trí các dấu triện đều có ý nghĩa riêng của nó.
Thư pháp Việt ngữ không hoàn toàn theo qui ước đóng dấu của người Trung Hoa mà theo cách thực hành sau đây:
- Khi tác giả vừa là tác giả nội dung (Ý) vừa là tác giả hình thức (Hình); hoặc tác giả Hình nhưng Ý là các câu văn thơ cổ (hết bản quyền) thì con dấu ở vị trí dưới, phải. Hoặc có thể thêm một dấu ở trên, trái như dấu treo. Như vậy được gọi là Toàn triện.
- Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) nhưng chưa có sự đồng ý của tác giả đó thì con dấu của tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi tên tác giả Ý và người viết phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Bán triện.
- Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) có sự đồng ý của tác giả Ý thì được quyền đóng dấu ở dưới, bên phải nhưng phải đề tên tác giả Ý phía trên cao, bên trái; và người viết phải ghi chữ « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Ðồng triện.
- Trường hợp ngoại lệ: vì lý do bố cục mà người viết không thể sắp xếp được vị trí nơi đóng dấu thì được đặt dấu ở vị trí khác nhưng phải ghi rõ tác giả về Ý. Vị trí nầy tạm gọi là Ngoại triện.
Các kiểu chữ trong Thư pháp:
Trong thư pháp việt ngữ hiện nay xuất hiện 5 kiểu chữ chính:
- Chữ Chân Phương, tạm gọi là Chân Tự, là cách viết rõ ràng dễ đọc, rất giống chữ thường.
- Chữ Cách Điệu, tạm gọi là Biến Tự, là cách viết biến đổi từ chữ Chân Phương mà ra nhưng các chữ cái hơi được biến dạng một chút để tạo ra cái lối viết riêng của mình.
- Chữ Cá Biệt, tạm gọi là Cuồng Thảo, là lối viết Thư Pháp mà người phóng bút « nhiếp tâm » giữa tư tưởng và quản bút. Lối viết chữ nầy thể hiện cá tính của người viết, nhìn vào kiểu chữ nầy, người xem dễ biết tác giả mà không cần phải xem bút ký. Kiểu chữ nầy thường viết liền lạc trong một nét nên khó đọc.
- Chữ Mô Phỏng là lối viết mô phỏng dựa theo kiểu chữ của nước ngoài. Có người viết chữ Việt nhìn vào ngỡ chữ Tàu, hay chữ Ả Rập, chữ Miên, v.v...
- Chữ Mộc bản là kiểu chữ giống như chữ khắc trên mộc hoặc như kiểu thợ sắp chữ của nhà in mà khi viết thì theo một phương pháp đảo lộn, khi xem phải dùng gương phản chiếu. Nhìn vào chữ có dạng Hán-Nôm nhưng đó lại là chữ Việt viết ngược.
Ngoài ra trong một số tranh Thư Pháp còn có hình ảnh minh họa về thiên nhiên, trong đó phần tranh có thể chiếm khoảng không gian lớn hơn phần chữ. Với đặc trưng nầy Thư Pháp trở thành Thư Họa.
Trong một số người viết thư Pháp, có nhiều người là họa sĩ, họ thường biến chữ thành tranh, tranh là hình ảnh của chữ. Lối viết nầy rất khó. Thí dụ như:
Ta có thể hình dung ra được khuôn mặt của Ðức Phật trong chữ "Ngộ" ở hình bên:
Sau đây là chữ "Phật" của Trần Bá Linh:
Chữ "Lệ rơi" của Tuấn Hạ:
Và cuối cùng là chữ "Mẹ" của Chính Văn:
Nếu ta nhìn kỹ thì có thể "thấy" hình dáng người mẹ tóc dài xõa lưng, đứng đưa lưng lại và dang tay ra để đỡ một đứa bé, đứa bé nầy nhìn ngang, nằm co lại như còn trong bụng mẹ.
Tham khảo và trích lục:
- Sổ tay thư pháp của KTS Nguyễn Thanh Sơn. Nhà xuất bản Văn Nghệ TP HCM.
- Hồn chữ Việt, Về nghệ thuật thư pháp của Thiện Duyên, Câu Lạc Bộ Yêu Thích Thư Pháp Quận 1 TP HCM.
- Hướng dẫn viết thư pháp của Phạm Thanh Hiệp. Câu Lạc Bộ Yêu Thích Thư Pháp Quận 1, TP HCM.
- Thư pháp nhập môn, tập I và II của Trung Tâm văn hóa quận 8, Câu Lạc Bộ Thư Pháp, Phạm Công Út biên soạn.
|
|
|