|
PHẬT
GIÁO NHẬT BẢN
Trích trong "Văn Hóa Sử Nhật Bản" Tác phẩm của GS Ienaga Saburou do Lê Ngọc Thảo dịch (nguồn:Trang nghiên cứu Nhật Bản www.erct.com) Sự nổi dậy của thế lực
quần chúng đứng đầu là vũ sĩ
đă tạo ra một lănh vực mới mà xă
hội quí tộc không tạo ra được.
Giống như vậy, trong lănh vực tôn giáo, tín
ngưỡng đại chúng có tính chất khác
biệt với Phật giáo quí tộc, đă
được sinh ra.
Như đă nói ở chương trước,
quí tộc đă có tự giác rằng vinh hoa
hiện thế không phải là vinh hoa tuyệt
đối nên đă lần lần đi t́m
cứu độ cho đời sau. Để đáp
ứng yêu cầu đó, giáo nghĩa của
Tịnh độ giáo được đề xướng
ra, thuyết về “cực lạc văng sinh” (sau
khi chết sẽ được sinh ra ở
cực lạc tịnh thổ) và vào năm 985,
Ousei youshuu (往生要集)
(Văng sinh yếu tập) của Genshin (源信)
(Nguyên Tín) đă ra đời.
Cách dạy niệm phật trong Ousei youshuu là
cất những pḥng A mi đà đẹp đẽ,
trong đó quí tộc say sưa huyền hoặc
với cực lạc văng sinh. Những dạy
bảo nầy chỉ có thể áp dụng
được đối với quí tộc, nhưng
không có tính chất trở thành cứu độ
đối với dân chúng. Kẻ lo sinh kế
hằng ngày như dân chúng cần những
dạy bảo đơn giản hơn và
những bảo đảm cứu thế minh
bạch hơn. Trong dân gian, tín ngưỡng
của những người tu hành cấp
thấp, sống phá giới, nửa tăng
nửa tục, lớn tiếng đọc kinh Pháp
hoa, siêng năng niệm phật tối ngày,
những người được gọi là
hijiri (聖) (thánh)
hoặc shami (thầy
chùa trẻ) , lại là những tín ngưỡng
gần gũi với dân chúng.
Từ thời Heian, đề xướng tu
hành giản dị của Nichiren (日蓮)
(Nhật Liên) và Hounen (法然)
(Pháp Nhiên) đă tạo ra một bối cảnh
cho giáo lư mới trong đạo Phật dân gian.
Từ thời viện chính, nguy cơ của
xă hội quí tộc ngày càng trở nên sâu
sắc. Trong kinh điển Phật giáo có
thuyết mạt pháp cho rằng 2000 năm sau khi Thích
ca mất sẽ có thời “mạt pháp” ở
đó Vương pháp, Phật pháp bị diệt
vong. Đối với quí tộc đó là
những việc sắp xảy ra trước
mắt, điều nầy đă khiến cho tâm lư
bất an của quí tộc trở thành mănh
liệt hơn. Trong chiến loạn thời Hougen
(保元)
(Bảo Nguyên), Heiji (平治)
(B́nh Trị), Chishou (治承) (Trị Thừa), Kyouto đă là chỗ của binh mă,
trật tự xă hội tan nát rơ rệt ra, điều
nầy đă khiến cho mọi giai tầng trên dưới
trong xă hội yêu cầu những cứu độ
để thoát qua nguy cơ nầy.
Để đáp ứng với yêu cầu xă
hội nầy, người đưa ra tiếng nói
đầu tiên cho Phật giáo mới, là tăng
Hounen (Pháp Nhiên).
Hounen thuyết cách chuyên tu niệm Phật,
dạy rằng ở thời mạt pháp, không có
cách cứu độ nào khác, chỉ cần
niệm tên Amidabutsu (A di đà phật) th́ sẽ
được văng sinh. Và Hounen đă lập ra
một tôn phái mới gọi là Joudoshuu (浄土宗)
(Tịnh Thổ tôn). Đương nhiên Hounen
đă t́m cách cứu độ mọi ngườI
bằng hành vi niệm phật. Cần phải nói
rằng cây cờ của Phật giáo đại
chúng đă được giơ cao bằng cách
thuyết giáo rằng, Phật đă chỉ cách
tu hành, rằng niệm phật bằng miệng th́
ai cũng có thể văng sinh, bất kỳ người
đó là kẻ thấp hèn ngu xuẩn, không có dư
dă để học vấn, hoặc những
loại người bần cùng khốn khổ không
có tiền bạc để xây dựng chùa
chiền, lập tượng. Đó là hiện tượng
mới hoàn toàn không có trong Phật giáo quí
tộc. Dưới pháp môn của Hounen ngoài hoàng
tộc, quí tộc, từ những vũ sĩ như
Kumagai Naozane (熊谷直実), Utsunomiya Yoritsuna (宇都宮頼綱),
đến những người thấp hèn trong xă
hội như tên đạo tặc Takano no Shirou (交野四郎), hoặc du nữ rước khách ở pḥng, mọi
người ở mọi giai cấp trong xă
hội tụ tập, cũng là v́ cách dạy chuyên
tu, niệm phật đă phủ định
những khác biệt giai cấp, và đó là cách
cứu độ b́nh đẳng vạn dân.
Shinran (親鸞) (Thân Lăm), tăng xuất thân từ pháp môn Hounen,
đă vào nông thôn vùng Kantou (関東),
tiếp xúc với nông dân và vũ sĩ hạ
cấp sống ở nông thôn, kết nối sâu
xa với đại chúng hơn cả Hounen,
nhờ đó đă làm cho giáo nghĩa của
Joudoshuu thấm nhuần trong dân gian.
Giáo nghĩa và tín ngưỡng độc
đáo của Shinran đă được viết
trong sách “Gyougyou
shinshou” (教行信証)
(Giáo hành tín chứng) và trong ngữ lục
“Tanni shou” (歎異抄)
(Thán dị sao), sách chính của ông. Shinran cho
rằng con người từ bản chất là
“ác nhân” có đầy những tội ác không
thể khắc phục được, và
nguyện vọng của Phật là cứu độ
những ác nhân nầy. Cho nên văng sinh có
được nhờ tin ở Phật “Kongou” (金剛)
(Kim Cương), tuyệt đối nhờ
sức mạnh của người khác, hoàn toàn
hủy bỏ sức lực của ḿnh. Theo
Shinran, niệm phật không phải là cách tu hành
theo ư ḿnh mà là do Phật ban cho. Điều đó
đă khiến giáo nghĩa của Joudoshuu trở
thành sâu xa hơn, đi gần đến chổ
quét sạch được tính cách bùa phép
của niệm phật c̣n sót lại trong cách
niệm phật của Hounen.
Phát triển của Phật giáo từ Hounen
đến Shinran có nghĩa rằng, trong khoảng
thời gian lâu, Phật giáo Nhật Bản đă
đ́nh trệ ở tín ngưỡng hiện
thế, có tính cách bùa phép, lần đầu tiên
đă được nâng cao đến chỗ
cứu tế về mặt tinh thần. Từ trước
đến nay, Phật học chỉ là một môn
học có tính cách quan niệm trên bàn giấy
của các nhà tăng hiếu học, tách rời
với tín ngưỡng sống thực trong xă
hội, nay có được sinh mệnh hiện
thực với cơ sở có lư luận tín ngưỡng
mới. Nói ngược lại từ trước
đến nay Phật giáo Nhật Bản đă
bỏ những lư luận căn bản của
Phật giáo, để trở thành một tín ngưỡng
hiện thực có tính cách bùa phép giống như
tôn giáo dân tộc, hoặc để trở thành
giáo học trong nội bộ của giáo đoàn
bắt chước giáo học đại lục,
nay mới trở lại được lập trường
nguyên lai của Phật giáo, và đă trở thành
tín ngưỡng có tính cách Nhật Bản, để
trả lời những yêu cầu tôn giáo hiện
thực của người Nhật. Điều
trọng yếu là sau 700 năm từ khi Phật
giáo truyền đến Nhật, lần đầu
tiên một tư tưởng ngoại lai như
Phật giáo đă trở thành tư tưởng
của người Nhật.
Phật giáo như mọi người đă
biết, là tôn giáo do thái tử Tất Đạt
(Thích Ca) sáng
lập, đây là một tôn giáo có tính cách
thế giới, nhằm cứu độ toàn nhân
loại, vượt qua cả quyền lực
quốc gia. Từ trước đến nay,
Phật giáo của Nhật là tôn giáo để
trấn hộ quốc gia, là tôn giáo lấy quí
tộc làm chủ, không có tính cách vượt qua
quốc gia. Hounen và Shinran đă cắt đứt
tất cả những ràng buộc với
quyền lực quốc gia và chuyên tâm trong
việc cứu tế linh hồn dân chúng. Ư nghĩa
quan trọng nhất trong lịch sử của
“Tịnh độ tôn” là đă bắt đầu
tự giác rằng, giữ tự do tín ngưỡng
độc lập với quyền lực quốc
gia là điều quan trọng nhất của tôn
giáo. Những người nầy đă phê phán
sự thông đồng của giáo đoàn
Phật giáo cũ với quyền lực quốc
gia và điều đó đă là nguyên nhân
phải chịu đàn áp nhiều lần. Nhưng
họ không khuất phục trước đàn áp,
ngược lại Shinran đă ra ư phản đối
việc triều đ́nh đàn áp chuyên tu
niệm phật. Cần ghi lại một sự
thật nổi bật là việc chủ trương
tự do tín ngưỡng đối với
quyền lực quốc gia nầy.
Việc đề xướng chuyên tu
niệm phật đă gây ra chấn động mănh
liệt trong giới Phật giáo. Ngoài mặt,
giới Phật giáo cũ phê phán việc tu
niệm nầy, nhưng trong nội bộ đă
lần lượt có những người mong
muốn loại bỏ Phật giáo cũ bằng cách
học hỏi giấu diếm h́nh thái tín ngưỡng
giản dị nầy.
Tỉ dụ như tăng Kouben (高弁) (Cao Biền) của tôn phái Hoa nghiêm, người đă
viết sách Saijarin (Tồi tà luận) để công
kích Hounen, đă phát minh ra Sanjisanpourei (三時三宝礼)
(tam thời tam báo lễ) thuyết rằng chỉ
cần niệm Namusanpougoshou (南無三宝後生)
(nam mô tam bảo hậu sinh) tasukesasetamae (hăy
cứu độ) th́ sẽ được thành
Phật. Tăng Joukei (貞慶) (Trinh
Khánh) của tôn phái Pháp tướng, người
viết bản thượng tấu đ̣i đàn
áp Hounen cũng đă thuyết duy tâm niệm
phật. Nhưng người thúc đẩy
việc biến hóa Phật giáo cũ ra mới
một cách dứt khoát nhất là tăng Nichiren
(Nhật Liên) của tôn phái Pháp hoa (cũng
gọi là Nichirenshuu (Nhật Liên tôn)).
Nichiren đă thuyết rằng ở thời
mạt pháp không có cách cứu độ nào ngoài
kinh Pháp hoa, và chỉ cần niệm Namumyou
hourengekyou (Nam mô diệu pháp liên hoa kinh) cùng
với lời cầu th́ sẽ được thành
Phật. Namumyou hourengekyou rơ ràng là những
tiếng sinh ra từ Namuamidabutsu ( Nam mô a di đa
phật). Tôn phái Nichiren có nhiều yếu tố
của Phật giáo cũ, vẫn c̣n lối nghĩ
dùng đạo để trấn hộ quốc
gia và chính Nichiren đă thúc mạc phủ Kamakura
theo tín ngưỡng của tôn phái Pháp hoa,
nếu không th́ quốc gia sẽ bị diệt
vong. Nhưng điểm cần để ư là tôn
phái Pháp hoa chủ trương đặt tôn giáo
trên chính trị, đem quyền lực quốc
gia cống hiến cho tín ngưỡng Pháp hoa, khác
với Phật giáo cũ có thái độ lệ
thuộc cống hiến cho quyền lực
quốc gia. Theo Nichiren, cả triều đ́nh và
mạc phủ đều là thần hạ của
Phật, ở dưới Phật, và Nichiren đă
nói dứt khoát rằng nếu Nhật Bản không
có một tín ngưỡng đúng đắn, th́
quốc gia sẽ diệt vong. Nichiren đă không
khuất trước những đàn áp của
quyền lực. Điểm nầy giống
với những người đề xướng
chuyên tu niệm phật.
Đề xướng chuyên tu niệm
phật của Hounen đă gây ra nhiều phong trào
tư tưởng mới trong giới Phật giáo.
Khác với những chuyển biến trong giới
Phật giáo quốc nội, một tôn phái
mới “Thiền tôn” từ đại lục
bắt đầu truyền đến.
Nhật bản và nhà Tống rốt cuộc
đă không lập được bang giao, nhưng
nhờ những cố gắng khuếch đại
mậu dịch giữa Nhật và Tống của
Taira Kiyomori, thương nhân và tăng lữ đi
lại nhiều, một số tăng lữ
của Nhật đă đi Tống học
“thiền” và trở về Nhật. Năm 1191
(Kenkyuu: Kiện cữu năm thứ 2) Eisai (栄西)
(Vĩnh Tây) đă về nước truyền
lại Rinzaishuu (臨済宗)
(Lâm Tề tôn) .Tôn phái nầy sau đó trở thành
chủ lưu trong thiền tôn Nhật Bản, nhưng
Esai có một vài chỗ mang tính cách tăng
lữ “Mật giáo” nên khó nói ông ta hoàn toàn là
một thiền tăng. Năm 1227 (Antei: An trinh nguyên
niên) Dougen (道元) (Đạo
Nguyên) về nước mở Soutoushuu (曹洞宗)
(Tào Động tôn) cho rằng phải bỏ
dứt tất cả mọi việc thế gian,
chuyên tâm ngồi thiền, th́ mới giác ngộ
được. Ở đây tinh thần chính
thống của thiền tôn đă được
đem sang Nhật.
Tôn phong nghiêm khắc của Dougen, ở
một khía cạnh nào đó có cùng ư nghĩa
với Nichirensou, tôn phái chủ trương ngoài
Pháp hoa kinh không có con đường nào khác
để thành Phật, Joudosou cũng vậy,
đă thuyết rằng chỉ cần chuyên tu
một hàng chữ niệm phật trong kinh, không
cần đọc những hàng chữ khác. Vả
lại, những chỉ dạy của Dougen
mặc dầu đậm đà sắc thái
của tư tưởng di thực, thực hành
một cách trung thực thiền đạo
của Trung quốc, sách Shoupougenzou (正法眼蔵)
(Chính pháp nhản tạng) của Dougen đă
được viết bằng quốc văn,
một việc không thấy trong sách giáo lư
Phật giáo. Những suy nghĩ biện bạch
triết học trừu tượng được
diễn đạt bằng quốc văn, người
Nhật đă tư biện triết học qua
những suy tư độc lập của ḿnh.
Hounen, Shinran, Nichiren cũng đă viết nhiều
sách bằng quốc ngữ. Phật giáo mới
thời Kamakura đă Nhật Bản hóa những
diễn đạt tư tưởng. Dougen đă nghiêm khắc xa tránh những kết hợp dễ dăi với quyền lực quốc gia nên Soutoushuu đă không phát triển rộng lớn được. Nhưng thiền Rinzai đă được cả quí tộc và vũ sĩ hoan nghênh. Tướng quân Houjou Tokiyori (北条時頼) (thời Kamakura) đă mời tăng nhà Tống Rankei Douryuu (蘭渓道隆) (Lan Khê Đạo Long) lập ra Kenchouji (建長寺) (Kiện Trường tự), tướng quân Tokimune (時宗) mời tăng nhà Nguyên Mugaku Sogen (無学祖元) (Vô Học tổ nguyên) lập ra Engakuji (延覚寺) (Viên Giác tự) ở Kamakura. Số người nhà của mạc phủ Kamakura theo học về thiền, tăng lên.
Tượng
Kim Cương lực sĩ chùa
Toudai Tương Vô
Trước chùa Koufuke
Phật giáo mới thời Kamakura tôn
trọng tín ngưỡng về mặt tinh
thần, coi nhẹ những hành vi bề ngoài như
xây chùa, lập tượng nên không có ảnh hưởng
lớn đến mỹ thuật tạo h́nh.
Dẫu vậy thời nầy cũng đă sinh ra
được tranh cuốn lấy truyền kư
của Ippen (一遍)
(Nhất Biên), giáo tổ của phái Jishuu (時宗)
(Thời tôn), một phái trong Tịnh độ tôn,
làm chủ đề, cùng với những bức
tranh thiền tăng gọi là Chinsou (頂相) (Đỉnh Tướng).
Phật giáo mới đă làm cho tín ngưỡng
trở thành sâu xa hơn, v́ đă xuất phát
từ chỗ t́m cách khắc phục một cách
tích cực mâu thuẫn tuyệt đối có
trong căn bản về sự tồn tại
của con người qua cái nh́n hết sức
nghiêm khắc về hiện thực. Thái độ
nh́n hiện thực lơa lồ đó đă
hiện ra trong thế giới mỹ thuật
tạo h́nh. Về hội họa, tranh Nisee (似絵), vẽ h́nh người bằng cách tả thực cá
tính của người đó, đă được
sinh ra. Trong điêu khắc có Kongou Rikishi zou (金剛力士像)
(Kim Cương lực sĩ tượng) (h́nh 27)
ở cửa nam chùa Toudai, cùng với tượng
Mujaku (無著)
(Vô Trước) (h́nh 28) và Seshin (世親)
(Thế Thân) ở Koufukuji (興福寺) (Hưng Phúc tự) là những tác phẩm có tính cách
tả thực. Những tác phẩm nầy đều
là tác phẩm của Unkei (運慶)
(Vận Khánh), khắc gân, xương nổi
cộm của Kim Cương lực sĩ,
phản ánh ư khí cũa vũ sĩ, một
thế lực cai trị mới. Tượng Mujaku
và Seshin là những tả thực tuyệt
đĩnh trong lănh vực tượng hồn nhiên.
Những kiệt tác ở Toudaiji và Koufukuji nầy
phần nhiều đă được tạo ra
để chế lại những điêu khắc
thời Tenpyou, nhưng theo cách thức Kamakura, trong
sự nghiệp “phục hưng Nam đô”,
đă bị cháy trong chiến loạn Genpei
(cuộc chiến giữa ḍng Minamoto và ḍng Taira).
Điểm đáng chú ư là ở đây có
những trộn lộn giữa những yêu
cầu của thời đại và việc
kế thừa truyền thống.
Tăng Chougen (重源) (Trọng Nguyên) người giữ nhiệm vụ
phục hưng Toudaiji (Đông đại tự)
đă du nhập dạng thức “thiên vực”
từ Trung Quốc sang Nhật để tạo ra
cửa lớn phía nam Toudaiji, đây là một cách
thức có cách lấp ráp giản dị, thích
hợp với những kiến trúc to lớn, nhưng
v́ không được truyền bá rộng răi nên
dần dần biến mất. Đối lại,
cách thức kiến trúc những tự viện phái
Thiền tôn, gọi là Karayou (唐様)
(cách thức Đường)
đă được phát triển rộng răi
ở Nhật cùng với sự phát triển
của phái nầy. (cách thức “thiên dực”
hay “cách thức Đường” đều là
những cách thức kiến trúc của Trung
Quốc, không phải là tiếng để phân
biệt cách thức Ấn Độ hoặc Trung
Quốc). Không màu sắc, không trang trí, pḥng đất
không sàn cây, đó là đặc sắc của cách
thức Đường. Điện xá lợi
của Enkakuji (延覚寺)
(Viên giác tự) là di tích truyền lại h́nh dáng
của cách thức Đường thời Kamakura
(h́nh 29).
Điện Xá Lợi ở chùa Enkaku VĂN
HÓA MỚI PHÁT ĐẠT TỪ VIỆC THẾ
TỤC HÓA CỦA TÔN GIÁO
Tinh thần tôn giáo cao trào thời Kamakura
đă sinh ra nhiều tôn phái mới trong giới
Phật giáo. Từ cuối thế kỷ 14 sang
đầu thế kỷ 15, những giáo đoàn
Phật giáo mới đă dựa theo những
biến động thời thế mở rộng
ảnh hưởng , đâm rễ sâu trong
quần chúng. Giửa thế kỷ 15 “Nisshin”
(Nhật Thân) đă truyền bá rộng răi
“Nichirenshuu” (Nhật Liên tôn) trong giai tầng thương
gia ở thành thị, “Rennyo” (Liên Như) đă
truyền bá “Joudoshinshuu” (Tịnh thổ chân tôn)
trong giới nông dân ở địa phương.
Đặc biệt là thế lực của giáo
đoàn “Honganji” (Bản nguyện tự” do
“Rennyo” (Liên Như) dẩn đầu đă
đứng lên yêu cầu, phản đối
ở mọi nơi, và đă trưởng thành
đến chỗ có thể đe dọa địa
vị cai trị của vũ sĩ. Nếu chia
những chùa chiền theo tôn phái riêng biệt vào
những năm đầu thời Shouwa (昭和)
(thế kỷ 20), thời mà những thế
lực tôn giáo tiền cận đại c̣n
tồn tại, ta có phái “Shinshuu” (Chân Tôn) đứng
đầu với 19 ngàn giáo dân, phái “Soutou” (Táo
Động) đứng nh́ với 14 ngàn, phái
“Shingonshuu” (Chân Ngôn tôn) có 12 ngàn, phái “Joudo”
(Tịnh thổ) có 8 ngàn, phái “Rinzai” (Lâm
Tề) có 6 ngàn, phái “Nichiren” (Nhật Liên) có 4
ngàn 9 trăm, phái “Tendai” (Thiên Đài) có 4 ngàn
5 trăm. Những tôn phái Phật giáo mới
chiếm đa số cho biết sự phát
triển mạnh mẽ của những giáo đoàn
Phật giáo mới thời nầy. Phật giáo cũ
là tín ngưởng của giới quí tộc,
đă sống nhờ vào trang viên lănh địa
do giới quí tộc ban cho. Đối lại,
Phật giáo mới đă thành công trong việc
lấy ḷng quần chúng một cách trực
tiếp, và đă khéo léo lợi dụng sự thăng
trưởng địa vị của quần chúng
để phát triển.
Nhưng sự phát triển của các giáo
đoàn không nhất thiết đưa đến
sự trưởng thành về tư tưởng
tinh thần của Phật giáo. Ngược
lại để khuếch đại thế
lực, giáo đoàn đă phải thỏa
hiệp với những hiện thực của xă
hội, làm phai mờ tôn phong nghiêm khắc do giáo
tổ đưa ra. Một chứng cớ rơ
rệt là có sự phát triển của giáo đoàn
nhưng không có phát triển về tư tưởng
Phật giáo từ sau thế kỷ 15. Từ
thời nầy Phật giáo đă mất đi
địa vị chủ động trong giới tư
tưởng Nhật Bản. Mỹ thuật
Phật giáo cũng bị xuống dốc có
lẽ v́ lúc nầy những công đức ngoài
mặt như cất chùa tạo Phật đă không
được coi trọng nữa. Vả lại
tinh thần tôn giáo nhiệt liệt của
thời cổ đă bị mất và năng lượng
để sinh ra những mỹ thuật cao siêu
bị khô héo.
Phật giáo sau đó tuy vẫn giữ
được một địa vị đáng
kể trong xă hội trong một thời gian dài,
nhưng không thể dấu được khuynh hướng
tục hóa của nó. Nội dung của văn hóa
thiền tôn cho ta biết điều đó.
Rinzaizen đă được tướng quân
Ashikaga và giai cấp cai trị bảo hộ
rộng răi, “ngũ sơn thiền tăng”,
một chế độ do Giman (義満)
bắt chước chế độ đời
Tống lập ra, đă là cố vấn chính
trị của Mạc phủ Muromachi, coi mậu
dịch, ngoại giao, chính trị v.v…và đă
giữ vai tṛ chỉ đạo trong lănh vực
học vấn, nghệ thuật. Mặc dầu văn
hóa thiền tôn đă có một tỉ trọng
rất lớn trong giới văn hóa thế
kỷ 14 và 15, nhưng đă không sử dụng
được trong việc làm cho tinh thần tôn
giáo trở nên sâu xa. Việc lưu hành văn hóa
thiền tôn, châm biếm thay, đă là một bước
đầu thực hiện việc biến
chuyển văn hóa tôn giáo đến văn hóa
thế tục.
Việc tu hành hằng ngày của thiền tăng
là t́m cách tái hiện đúng những qui luật
trong chùa thiền tôn của Trung Quốc từ cách
đi đứng ăn uống. Những thiền
tăng đi đi lại lại Trung Quốc
thời Minh đă hết sức nhiệt tâm trong
việc học hỏi văn hóa thời Minh,
nhờ đó những thiền tăng “ngủ sơn”
đă dính líu sâu xa được với giai
cấp cai trị. Việc đó đương
nhiên đă đưa ra một kết quả là
đă làm cho sở thích văn hóa thiền tôn
kiểu Trung Quốc tràn ngập trong xă hội thượng
lưu. Trong thời đại văn hóa quí
tộc xưa bị mất quyền uy, giai cấp
vũ sĩ, những quí tộc mới yêu
chuộng văn hóa thiền tôn hơn văn hóa
đại chúng đang lên, tuy văn hóa thiền
tôn có tính cách ngoại lai cao nhưng đă
xứng đáng là một văn hóa mới trang
điểm cho địa vị cao cả của
họ. Mặt khác, văn hóa thời Muromachi đă
có khuynh hướng dân chúng hóa hết sức
mạnh mẽ, trong t́nh trạng nầy, việc
một văn hóa có tính cách quí tộc như văn
hóa thiền tôn được tôn trọng, có
lẽ v́ lư do lịch sử đó.
Nói đến văn hóa thiền tôn, trước
nhất cần phải nói đến văn
học “ngũ sơn”. Có thể nói đó
chỉ là một tṛ chơi về trí, sinh ra
từ tâm lư muốn bày tỏ tâm t́nh của
những thiền tăng xa cách sinh hoạt
hiện thực của người Nhật
thời đó. Ta có thể thấy được
tâm t́nh độc đáo trong văn học
thiền tôn của Nhật Bản qua thơ
của Ikkyuu (一休)[13],
những bài thơ vừa cố ư miêu tả t́nh
dục một cách lộ liễu, vừa kết
hợp được văn nghệ và tôn giáo
một cách hồn nhiên. Nhưng việc dùng
kỹ thuật của văn học ngôn ngữ
để du hí chính nó đă trật đường
thiền tôn, cho nên việc phồn thịnh
của văn học ngũ sơn cũng chỉ là
một đo lường liên quan đến
việc thế tục hóa của văn hóa
thiền tôn. Nhưng như đă nói trước,
một phó sản phẩm của thiền tăng
trong việc nghiên cứu học nghệ Trung
Quốc, là việc nghiên cứu “Chu Tử
học” và trong thời đại nầy đă
có một vài trứ tác được sinh ra và
đó là một yếu tố quan trọng của
tiền đề lịch sử cho sự phồn
vinh của “Nho học” trong thời đại
sắp đến. Kế đến, văn hóa thiền tôn đă có một ảnh hưởng to lớn trong giới mỹ thuật tạo h́nh. Sự lưu hành “tranh mực nước” đă có một quan hệ sâu xa với thiền tôn. Tranh mực nước có đặc điểm là có cấu đồ (cấu tạo h́nh vẽ) với những nét vẽ trừu tượng, diễn tả đối tượng từ một khía cạnh tinh thần bằng một màu mực, thế chỗ cho Yamatoe, tranh có đặc điểm trong màu sắc và cách thưởng thức. Tranh mực nước đă đoạn tuyệt với lịch sử hội họa Nhật Bản thời quá khứ, và đă tạo ra một truyền thống mới.
Tranh Sơn Thủy Thu Đông của Sesshuu
Tranh Phong Đào của Sesson Tranh mực nước là một yếu tố của văn hóa thiền tôn v́ những họa sĩ hoạt động giữa thế kỷ 14, thời kỳ đầu của tranh mực nước, như Mokuan (黙庵) hoặc Kaso (可翁) đều là thiền tăng. Đề tài của tranh phần nhiều lấy từ tôn giáo, như tranh Phật Bồ Đề, tranh Ngũ tổ, Lục tổ. Vào thời Muromachi, ngay như Josetsu (如拙) (Như Chuyết), Shuubun (Chu Văn) (周文), những người đă giữ một vị trị hết sức quan trong trong việc phát triển tranh mực nước, tuy cả hai đều xuất thân từ thiền lâm, đă có những bức tranh để thưởng thức nghệ thuật, phai lạt ư nghĩa tôn giáo. Trong trường hợp Yamatoe, ḥa ca và tranh b́nh phong liên kết với nhau một cách mật thiết. Trong tranh mực nước, những quan sát khách quan về thiên nhiên trong văn học ngũ sơn, đă liên kết với hội họa qua h́nh thức tranh treo thơ họa, rồi lần lần phát triển đến tranh sơn thủy theo cách Tống Nguyên. Tranh mực nước đă đoạn tuyệt với hội họa Nhật Bản, và v́ xuất phát từ việc học hỏi kỹ thuật của tranh Trung Quốc, cho nên từ kỹ thuật đến đề tài, cấu đồ phần nhiều không thoát khỏi lănh vực mô phỏng, nên không thể t́m ra được những sáng tạo độc đáo của người Nhật ở đây.
Nhưng sau đó, Sesshuu, đă từ Minh
về nước vào năm 1469 (năm Bunmei nguyên
niên). Trong những tác phẩm của Sesshuu có
những tranh mực nước kiệt tác, đây
là những sáng tác đáng hănh diện của người
Nhật. Sesshuu, cũng giống như các họa sĩ
khác của Nhật, đă cố gắng học
hỏi tranh Hạ Khuê (họa sĩ Trung Quốc),
nhưng chỉ khác ở chỗ là Sesshuu đă không
những thành công trong việc diễn tả
sự hùng vĩ của thiên nhiên, mà lại c̣n sáng
tác ra tranh mực nước không có tính cách mô
phỏng tranh Trung Quốc, tranh mực nước
có con tim đúng là con tim của người
Nhật. Sesshuu làm được như vậy v́
ông ta đă lẩn tránh nhóm họa sĩ hóa
tục ở trung ương, sống ẩn
dật ở vùng Bungo (豊後) (Phong Hậu, tỉnh Oita (大分) ngày
nay), Suou (周防)
(Chu Pḥng, vùng phía
đông tỉnh Yamaguchi (山口) ngày
nay) v.v…
vừa giao thiệp rộng răi với mọi giai
tầng, vừa sáng tác. Yamatoe v́ quá lấy
việc thưởng thức văn nghệ làm
trọng n nên
đă thiếu tính độc lập về
mặt mỹ thuật tạo h́nh. Sesshuu lần
đầu tiên trong lịch sử hội họa
Nhật bản đă tạo ra được
một cái đẹp tạo h́nh độc đáo,
cấu tạo bằng những biểu hiện không
gian thuần qua thị giác. Với những tác
phẩm đại biểu như Shuutou sansuizu (秋冬山水図)
(tranh Sơn Thủy Thu
Đông) (h́nh 31), Sansui Nagamaki (山水長巻) (tranh cuốn dài Sơn
Thủy), Sesshuu xứng đáng là họa sĩ
có cá tính đầu tiên ở Nhật Bản.
Một họa sĩ khác tên là Sesson, sống
ở đông bắc Nhật, mùa đông tuyết
đóng đầy sâu đến độ
nghẹt thở, đă diễn tả một cách
sắc bén uy lực mănh liệt của thiên nhiên
qua bức tranh Fuutouzu (風とう図) (tranh Phong Đào) (h́nh
32). Tuy Sesson không thể sánh được
với Sesshuu trong cấu tạo to lớn của
tranh, nhưng đă là một họa sĩ đă
bước một bước to lớn vững
chắc trong việc Nhật Bản hóa tranh
mực nước.
Tranh mực nước tuy phát xuất từ
thiền tôn, nhưng ở một lúc nào đó
đă rời bỏ ư nghĩa tôn giáo của ḿnh,
để trực tiếp ca ngợi thiên nhiên và
từ đó tranh mực nước đă
đưa ra một vẻ đẹp tạo h́nh
mới. Vẻ đẹp nầy đă được
phái Kanou điều ḥa với chủ nghĩa màu
sắc của Yamatoe, tổng hợp kỹ
thuật của Hán và Nhật, tạo ra điểm
xuất phát của tranh Nhật Bản sau nầy.
Cách diễn đạt của tranh mực nước
nhắm vào chỗ loại bỏ những đối
tượng không có tính cách căn bản,
chỉ diễn tả những đối tượng
căn bản một cách tượng trưng qua
những h́nh tượng đơn thuần.
Một cách thức “vườn thưởng
ngoạn” độc đáo cùng chiều hướng
nầy, vào khoảng thế kỷ 15, đă là
một thí nghiệm tạo h́nh trong thiên nhiên
trong thời nầy. Những quí tộc thời cổ, đă đào hồ lập đảo ở vườn nhà trong cung điện, hoặc đă đào hồ, để đá trước ngôi A di đà để thưởng ngoạn vẻ đẹp của vườn hoa. Sở thích nầy được truyền đến thời Muromachi. Vườn thưởng ngoạn do tướng quân Ashikaga Yoshimitsu lập ra trong chùa Kinkaku (金閣) (Kim Các), một biệt trang ở Kitayama (北山) (Bắc Sơn), đă có cấu tứ cùng hệ thống với vườn thưởng ngoạn của những chùa tịnh thổ thời xưa
Sân lót đá ở chùa Ryouan
Vườn
thưởng ngoạn ở Daitoukuji daisen-in Nhà cất có thư viện
Một hiện tượng giống như trên
đă hiện ra trong những kiến trúc nhà
ở, có quan hệ mật thiết sâu xa với
đời sống hằng ngày, hơn những vườn
thưởng ngoạn. Những xây cất căn
bản kiểu zashiki (座敷)[14]
trong nhà ở của Nhật bản như toko (床)
(sàn), tana (棚)
(kệ),
shoin (書院)
(pḥng sách) như ngày
hôm nay, đă không có trong nhà ở của vũ sĩ
thời Kamakura, và cũng không có trong “tẩm
điện” của quí tộc thời xưa mà
đó là những đặc sắc của
kiến trúc “nhà ở có thư viện” vào
cuối thời Muromachi. Nguồn gốc của cách
kiến trúc nầy phát sinh ra từ cách thức
cất pḥng đọc sách của các tăng
lữ trong chùa chiền. Ngày nay, một từ
ngữ rất quen thuộc để chỉ
chỗ để giày dép lên nhà như genkan (玄関) (cửa để đến
huyền, nơi kín đáo thanh tỉnh), đây
là chữ được sinh ra từ tiếng chuyên
môn của thiền tôn. Điều nầy đủ
để cho thấy ảnh hưởng to lớn
của thiền tôn
đối với kiến trúc. Kiến trúc chùa
chiền có thư viện đă được
đem vào trong cách kiến trúc nhà ở thông thường
(h́nh 35). Đây là h́nh thức thế tục hóa
của văn hóa tôn giáo.
Cách thức nhà cất có thư viện
được xác lập và từ đó đă có
nhiều h́nh thái văn hóa mới được
sinh ra, mà nếu không có cách thức nhà cất có
thư viện th́ không thể hiểu được.Từ
trước đến giờ nếu nói đến
hội họa để thưởng thức,
ngoại trừ tranh phật để lễ bái,
phần đông chỉ có tranh cuốn trải trên
bàn, hoặc tranh Shouji, b́nh phong. Nhờ sự phát
sinh kiến trúc nhà sàn, người sống trong
nhà có thể treo tranh kakejiku (掛軸) (tranh h́nh chữ nhựt dài
để treo trên tường) để thưởng
thức. Nhờ đó kakejiku đă trở thành
một h́nh thái quan trọng trong tranh Nhật
Bản. H́nh thái nầy đơn giản hơn
tranh cuốn hoặc tranh Shouji, b́nh phong, có khả
năng phổ cập rộng răi trong đại
chúng. “Hoa đạo” được sinh ra nếu bỏ quan hệ với kiểu nhà cất có thư viện th́ không thể nào hiểu được. Nhờ có toko (sàn), người thường dân mới bắt đầu đặt b́nh bông ở zashiki, cấm bông để thưởng thức. Cấm bông trong b́nh bắt nguồn từ nghi lễ cúng Phật. Trong nhà quí tộc thời Heian cũng có nhiều trường hợp đặt b́nh bông trong nhà và cấm bông trong b́nh, nhưng vào thời Muromachi, có người giỏi chuyên môn hiện ra, và “rikka” (立花) (lập hoa) (cắm hoa) (h́nh 36) được coi như một tài nghệ. Rikka không thể thiếu được trong việc trang trí chỗ ngồi trong pḥng đọc sách. Nh́n từ đại cuộc, ta sẽ thấy việc cắm hoa để cúng Phật, trong một thời gian nào đó đă bị quên đi ư nghĩa tôn giáo của nó, và nó đă biến thành một phương tiện cho việc nghệ thuật hóa đời sống hằng ngày. Có thể nói đây cũng là một hiện tượng thế tục hóa của tôn giáo. Rikka phái Ikebou
|