Bản tin ngày 01 tháng 07 năm 2005
TT
Giác Đẳng: Nói về Phật
giáo tại Đài Loan thi` chúng ta nên hiểu bối cảnh
hết sức đặc biệt của vùng đất
này, có thể nói rằng ngày hôm nay giữa Đài Loan và Hoa Lục,
Hoa Lục tức là Trung cộng thi` vẫn có sự kèn cựa
rất lớn về phương diện chính trị, Trung
quốc không xem Đài Loan là một quốc gia độc lập
và Đài Loan thi` nhận mi`nh là một quốc gia độc
lập đại diện cho đất nước Trung
Hoa với danh từ là The Public of China - Nước Cộng
Hoà Trung Quốc mặc dù chính phủ Đài Loan chỉ kiểm
soát được đảo quốc nhỏ bé này so với
Hoa lục mênh mông và người Đài Loan vẫn gọi Bắc
Kinh là Bắc Bi`nh thay vi` là Bắc Kinh. Bắc Bi`nh là một tên khácđể
chỉ cho Bắc Kinh, bởi vi` Đài Bắc hiện nay
xem như là thủ đô của đất nước này.
Vào
năm 1949 đảng Cộng sản Trung quốc dưới
sự lănh đạo của Mao Trạch Đông chiếm
toàn thể Hoa lục thi` ông Tưởng Giới Thạch
cùng một số khoảng 2 triệu người Trung quốc
đă định cư tại Đài Loan, trước
đó Đài Loan hơn nửa thế kỷ là một thuộc địa của
Nhật Bản và trước đó nữa thi` là một
ho`n đảo nằm trong sự quên lăng, chúng ta biết
trước kia vào đời nhà Minh, Đài Loan được
xem như là một vùng đất man ri mọi rợ, một
vùng đất có thể nói xa kinh đô và không mấy
được quan tâm bởi chính quyền của nhà Minh, nhưng
sang đời nhà Thanh thi` lúc bấy giờ vị viên
tướng rất nổi danh, chúng ta được biết
là tướng Trịnh Thành Công, thông thường người
ta gọi là Trịnh Tướng Quân với lực lượng
tương đối mạnh đă biến Đài Loan trở
nên trù phú trong một thời gian dài trước khi Đài
Loan trở thành một thuộc địa của Nhật
Bản, nói như vậy thi` Đài Loan đă có một ảnh
hưởng văn hoá Trung Hoa vào đời nhà Thanh
tương đối đậm nét.
Sau
đó trong suốt hơn nửa thế kỷ Đài Loan nằm
dưới sự cai trị của Nhật Bản, Nhật
Bản lúc bấy giờ muốn dùng Đài Loan như một
bàn đạp để tiến vào các phần đất
khác của Á Châu nên Đài Loan đă được Nhật
Bản xây dựng rất nhiều, và đáng kể nhất
của người Nhật Bản là xây dựng những
phương tiện di chuyển đường xá từ
trên những đỉnh núi cao, như đă đặt một
trạm xây dựng con đường lên đỉnh núi cao
nhất của Đài Loan, và hệ thống đường
rày của Đài Loan ngày hôm nay phần lớn do Nhật Bản
xây dựng trong thời ky` thuộc địa. Năm 1949 đất nước
Trung Hoa đi vào một trang sử mới, lúc bấy giờ
Quốc Dân Đảng dưới sự lănh đạo của
Tưởng Giới Thạch kéo một số đông
người Trung Hoa sang Đài Loan để xem như một
bản doanh sau cùng khi bị lực lượng cộng sản
Trung Quốc đánh đuổi ra khỏi Hoa lục.
Ông
Tưởng Giới Thạch cũng như gia đi`nh họ
Tống, bản thân của họ là những tín đồ
Tin Lành, chúng ta nhớ rằng vào thời Đệ Nhị
Thế Chiến bốn gia đi`nh tài phiệt giàu có nhất
của đất nước Trung Quốc đó là những
gia đi`nh theo đạo Tin Lành.
Đạo Tin Lành đă có một đầu tư rất
lớn, nói chung là Ky Tô giáo kể cả Thiên Chúa giáo LaMă và
Tin Lành đầu tư rất lớn vào đất nước
Trung Hoa, không ai đặt chân đến đất nước
Trung Hoa mà không nghĩ rằng không đầu tư lâu dài, riêng về đạo Tin Lành
đă có những đầu tư rất lớn vào đất
nước Trung Hoa. Ông Tôn Dật
Tiên được xem như là người cha khai sinh của
nền Cộng Hoà của đất nước Trung Hoa, cuộc
cánh mạng Tân Hợi năm 1921, bản thân ông được
đào tạo trong một trường của Methodist tức
là một giáo phái Tin lành tại Hoa Ky`.
Tưởng
Giới Thạch cũng vậy và gia đi`nh họ Tống
cũng vậy, nên khi đặt chân đến Đài Loan
trong những năm tháng đầu khi gia đi`nh họ
Tưởng co`n có một thanh thế lớn, sau Tưởng
Giới Thạch con của ông là Tưởng Kinh Quốc cũng
nắm quyền một thời
gian sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời. Suốt trong thời gian này người
ta ủng hộ rất nhiều đạo Tin Lành, và ngay cả
trong thời ky` Phật Giáo Việt Nam đang trải qua
cơn pháp nạn 1963 thi` những tin tức về pháp nạn
cũng được kiểm duyệt gắt gao tại
Đài Loan, người Đài Loan biết rất ít về
các tin tức pháp nạn đó, đó là ly' do cho thấy rằng
chính phủ Tưởng Giới Thạch ở trong thời
gian ban đầu đă có những nỗ lực như thế
nào trong sự giảm thiểu sự hoạt động của
Phật giáo.
Sau
khi ông Tưởng Kinh Quốc qua đời và bà Tưởng
Giới Thạch sang New York để sống những ngày
sau cùng cuả cuộc đời tuổi già thi` đất
nước Đài Loan lại sang một trang sử mới
và có lẽ là điều quan trọng nhất của những
diễn biến cho cục diện chung của Đài Loan
đó là sự đắc cử của Tổng Thống Trần
Thụy Điển. Trần
Thụy Điển là một người sanh ra ở
Đài Loan không phải sanh ra tại Hoa Lục và ông cũng
không nằm trong Quốc Dân Đảng. Trong thời gian dài nửa thế
kỷ Quốc Dân Đảng đă có một thế lực
rất mạnh tại Đài Loan, việc ông Trần Thủy
Điển đắc cử làm vị Tổng Thống
đầu tiên mà gọi là chính thức, có thể nói là
đánh dấu một vị Tổng Thống dân cử
trong một nền dân chủ trưởng thành của
Đài Loan thi` đất nước Đài Loan lại
bước sang một trang sử mới. Có lẽ trong các vùng đất
người Trung Hoa thật sự gọi là quê hương
của mi`nh thi` hiện tại Đài Loan là một quốc
gia có một nền dân chủ tự do thật sự.
Tại
sao chúng tôi nói hơi lo`ng vo`ng về điểm này, vi` một
số những bậc danh Tăng
đặt chân đầu tiên đến Đài Loan từ
Hoa lục, tức là trong chuyến di cư khổng lồ
do ông Tưởng Giới Thạch qui động thi` một
số các vị danh Tăng như là HT Tinh Vân, HT Ấn Thuận
..v.v... Pháp Sư Tinh Vân, Pháp
Sư Ấn Thuận và những vị Pháp Sư trong số
đó thi` đa số trong qúa khứ phải có chân ở
trong Quốc Dân Đảng để được tồn
tại, nếu không thi` rất khó tồn tại. Có nghĩa là những thế lực
chính trị trong những thập
niên đầu của đất nước Đài Loan là bắt
buộc những nhà Sư từ Hoa Lục đi ra phải có sự trung thành khả
dĩ với đường hướng của Quốc
Dân Đảng để bảo đảm rằng Đài
Loan là một đảo quốc phi cộng sản, và cho dù
có chân ở trong Quốc Dân Đảng nhưng Phật Giáo
vẫn phát triển một cách rất èo ỏt, tuy vậy
phải nói rằng có những khuôn mặt rất đáng kể
của Phật Giáo Đài Loan, ở trong đó chúng ta phải
kể đến đại sư Ấn Thuận một vị
cao Tăng đă viên tịch ở đầu tháng 6 năm
nay và những vị như Đại Sư Tinh Vân tức
là vị sáng lập ra Phật Quang Sơn cũng là một
khuôn mặt quan trọng khác.
Chúng
ta nghe về Sư bà Chứng Nghiêm tức là người lập
ra tổ chức Từ Tế ở Huê Liên cũng là đệ
tử của Pháp Sư Ấn Thuận, hay pháp sư Thánh
Nghiêm là một người đă hô hào rất nhiều trong
việc canh tân nền tư tưởng Phật Giáo Trung
Hoa, kể cả việc thừa nhận tính chất nguyên
thủy của Phật Giáo Nam Truyền. Pháp Sư Thánh Nghiêm đă viết
một số sách rất quan trọng, trong đó có những
quyển như Phật Giáo Chánh Tín, Phật Học Quần
Nghi đó là những quyển sách ti`m cách để chấn
chỉnh rất nhiều về cách nhi`n sai lầm ở
trong quá khứ. Pháp Sư Thánh
Nghiêm có thể nói rằng như là một pháp sư Thiện
Chiếu của Phật Giáo Việt Nam vào thập niên 30, 40
là thời ky` chấn hưng Phật Giáo, thi` Phật Giáo
Đài Loan có một màu sắc tương đối là
đa dạng phong phú.
Ngày
hôm nay qúi Phật tử về Đài Bắc rất là dễ
dàng để qúi vị đi trên đường gặp gỡ
một số các nhà Sư mặc pháp phục của Phật
Giáo Mật Tông Tây Tạng, về điểm này là một
điểm đáng chú y', bởi vi` thứ nhất người
Tây Tạng và Trung quốc vốn có một mối -chúng tôi
không dám dùng chữ thâm thù, nhưng nó tương tự
như người Cambochia, người Việt gốc Miên
của Việt Nam đối với người Việt
Nam vậy- đất nước Tây Tạng đang bị
đất nước Trung quốc xâm chiếm, người
Trung quốc khẳng định rằng Tây Tạng là một
phần đất của Trung quốc. Đức Dalai Lama sống một
cuộc sống lưu vong, thế nhưng những người
Phật tử Đài Loan lại ủng hộ rất nhiều
cho những nhà sư Tây Tạng một cách gián tiếp, ủng
hộ một số hoạt động của Đức
Dalai Lama, về điểm này thi` chúng tôi phải nói rằng
nó dựa lên trên niềm tin về tôn giáo nhiều
hơn.
Tại
Trung quốc có những phái như Chân Ngôn Tông, cũng có Mật
Tông và đời nhà Thanh thi` chế độ của Thanh
triều một chế độ của Măn Châu họ lại
theo Phật Giáo Mật Tông, quí vị thường đọc
truyện Kim Dung gọi là những vị Phiên Tăng, những
vị Phiên Tăng tức là những vị Tăng Tây Tạng,
như trong Lộc Đỉnh Ky' những vị Phiên
Tăng thi` thường là những vị Tăng Tây Tạng. Kim Dung có vẻ gay gắt đối
với những vị Phiên Tăng này và thường nói những
hi`nh ảnh rất xấu, v́ thật sự vào thời
đó những nhà Sư Tây Tạng có thế lực rất
lớn tại Trung Quốc và Phật giáo Mật Tông của
nhà Thanh có ảnh hưởng lớn đến Phật
Giáo Việt Nam. Ngày hôm nay trong
những khóa lễ hàng ngày của Phật giáo Việt Nam tụng
rất nhiều thần trú như Đại Bi Thập Trú
hay là Trú Lăng Nghiêm cho công phu sáng v.v... đó là ảnh
hưởng của Phật Giáo Mật Tông. Theo một số những sử
gia thi` Phật giáo Việt Nam trong gio`ng phái thời xưa
như gio`ng Trúc Lâm Yên Tử hay Phật Giáo đời nhà
Ly' nhà Trần thi` không có nhiều bài trú tụng trong kinh
văn hàng ngày, những bài trú được tụng trong
những khóa lễ hàng ngày công phu sáng chiều .v..v... đó
là ảnh hưởng Phật giáo Mật Tông vào đời
nhà Thanh.
Sau
khi công sản chiếm Hoa Lục thi` Phật giáo Trung quốc
hầu như bị đàn áp và gần như bị biến
mất ở Trung quốc ở trong thời gian nhiều thập
niên và trong thời Cách Mạng Văn Hoá. Riêng ở tại Đài Loan hiện
nay Phật Giáo Mật Tông tương đối là
được quần chúng ủng
hộ rất nhiều bởi vi` Phật Giáo Mật Tông
đáp ứng được một số các nhu cầu về
tín ngưỡng mà chúng ta sẽ nói sau, nhưng phải nói rất đa dạng. Cũng phải nói thêm rằng Phật
Giáo Đài Loan với sự sung túc về tiền bạc
đă có một số sự phát triển rất quan trọng
về phương diện nghiên cứu, nhiều đại
học Phật Giáo được thành lập, nhiều tổ
chức nghiên cứu được hi`nh thành, và để
đáp ứng được điều này thi` Phật
Giáo Đài Loan đă mời thỉnh một số vị
danh tăng, và danh tăng
người Tích lan nhiều nhất và sau này Phật
Quang Sơn thi` có liên hệ với tổ chức Dhamakai tức
là một tổ chức Phật Giáo tại Thái Lan, nhưng
nhiều nhất là các nhà sư Tích Lan được thỉnh
giảng tại các trường đại học Phật
Giáo về Tam Tạng pali cũng như sự giảng giải
về từ ngữ Pali bắt đầu phổ thông tại Đài Loan, ly' do rất
đơn giản là thông thường trong những đại
hội Phật Giáo thế giới người ta nhi`n thấy
rằng những nhà Sư Phật giáo ở Đài Loan hay
nói chung Phật Giáo Bắc Truyền có trở ngại về
Anh ngữ, ít có khi có thể diễn giảng được
bằng Anh ngữ trong những buổi giảng và đồng
thời nếu có diễn giảng thi` là những đề
tài quen thuộc nói đi nói lại nhiều hơn là có một
sự thông bác về Phật Học như những nhà
Sư Tích Lan, do vậy những hi`nh ảnh của những
nhà Sư Nam Tông ở trong lo`ng Phật tử Đài Loan và
nhất là Tăng Già Đài Loan như là những nhà Sư
có học và có kiến văn và thường được
mời thỉnh để giảng giải.
Sở
dĩ chúng tôi phải nói thêm về Phật Giáo Tây Tạng
và Phật Giáo Nam Tông ở Đài Loan là bởi vi` trong những
lần chúng tôi sang thăm viếng Đài Loan và nhất là lần
vừa qua thi` chúng tôi nhận thấy một điều rằng
thái độ của qúi Phật tử rất là cởi mở,
rất là đa dạng và đây là một dấu hiệu
cho thấy một sự hứa hẹn ở trong
tương lai về một phần đất tuy rằng
hiện tại đang có những khủng khoảng về
chính trị, thật ra thi` ở nơi đó có một nền
dân chủ rất ổn định và Đài Loan có một
nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới mặc
dầu với đảo quốc chỉ có 22 triệu dân
thôi và diện tích rất là khiêm tốn, nhưng Đài Loan
là một nền kinh tế lớn của thế giới,
như qúi vị biết đứng hàng thứ 7 trên thế
giới thi` không phải là tầm thường. Tuy vậy điểm quan trọng
nhất mà mi`nh phải nói tại đây đó là tinh thần
khoan nhượng cởi mở, tinh thần có thể chấp
nhận nhiều sự dị biệt và sống ở trong
thế giới ngày hôm nay thi` chúng ta phải nhi`n nhận rằng
bất cứ một xă hội nào mà mang tinh thần khoan
nhượng, mang tinh thần bao dung có nghĩa là biết chấp
nhận lẫn nhau, biết tôn trọng lẫn nhau, biết
học hỏi lẫn nhau và biết cảm nhận tinh hoa
của nhau thi` điều đó hứa hẹn một
đất nước đi lên và một điều kiện
phát triển hứa hẹn một tương lai lâu dài.
Thật
ra những ngày thăm viếng Đài Loan chúng tôi có một
nỗi buồn rất lớn, nỗi buồn lớn không
phải là những gi` nghe thấy tại Đài Loan mà nỗi
buồn rất lớn vi` chúng tôi nhận được
tin chính quyền cộng sản Hà Nội Việt nam đă
lên tiếng yêu cầu các quốc gia tại Đông Nam Á,
đă từng dung chứa thuyền nhân Việt Nam
như Mă Lai, Indonesia đập
bỏ các tượng đài, các bản kỷ niệm về
thuyền nhân Việt Nam về những chuyến đi ti`m
tự do về y' nghĩa lịch sử của người
Việt Nam. Chính quyền của
các nước này thi` trước áp lực của chính quyền
Việt Nam thi` họ chỉ đập thôi, nhưng điều
đó nó nhắc lại một điều đáng buồn
là tri`nh độ của đất nước Việt Nam
của chúng ta vẫn chưa phát triển, chúng ta vẫn
chưa có tri`nh độ văn hoá, vẫn chưa có sự
trưởng thành, thái độ đó cho chúng ta thấy một
cái gi` rất là ấu trĩ, rất là thiếu văn
hóa. Thật ra thi` đất
nước Việt Nam ngày xưa vẫn có những hi`nh ảnh
rất đẹp , ví dụ như đời nhà Trần
khi quân Nguyên xâm lăng Việt Nam thi` khi quân Nguyên rút đi
người ta có dâng lên một tờ biểu với vua Trần
Nhân Tông, trong đó ghi danh sách của những người
đă toa rập với quân Nguyên, thi` nhà vua đă ra lệnh
đốt tờ biểu đó tại chỗ và nói lên một
sự tha thứ rất lớn, và vi` vậy cộng đồng
của dân tộc đă đoàn kết lại và đó là một
thời đại cực thịnh của Việt Nam, chúng
ta có nhiều hi`nh ảnh đẹp khác trong lịch sử
nói rằng nhà Hậu Lê trở về sau này qua đời Hậu
Lê, rồi đời Mạc chúng ta nghe những hi`nh ảnh
rất là tệ, ví dụ như vụ án của Nguyễn
Trăi hay chuyện Nho Giáo khi lên cầm quyền ti`m mọi
cách để đàn áp Phật Giáo, và cho ra những tác phẩm
biếm nhă Phật Giáo, rồi có những đối xử rất tệ hại đối
với Phật Giáo, và tệ hại nhất là hi`nh ảnh
vua Gia Long sau khi lập quốc lên ngôi rồi lại đào
mả của vua Quang Trung để đổ đi, những
điều đó cho thấy một sự xuống dốc
trầm trọng của một nền văn hoá.
Thật
ra nền văn hoá Phật Giáo là một nền văn hoá rất
bao dung và nền văn hoá Việt Nam ảnh hưởng
văn hoá Phật Giáo rất đẹp, nhưng chúng ta có
những vết dơ rất lớn ở trong lịch sử
cho chúng ta thấy thiếu sự suy nghĩ. Một quốc gia có tri`nh độ
trưởng thành thi` bất cứ công tri`nh văn hoá nào của
ai nhưng nó đă đánh dấu một sự kiện lịch
sử thi` chúng ta nên giữ lại để biết. Khi đi thăm viếng những
quốc gia trên thế giới như Vạn Ly' Trường
Thành của Trung quốc chẳng hạn, Vạn Ly' Trường
Thành nếu nói một thời gian nào đó họ xem như
là một sản phẩm của Tần Thủy Hoàng nói lên một thời đại
độc tài hung ác, một chế độ rất bạo
ngược, nhưng ngày hôm nay người ta xem đó là niềm
hănh diện của một đất nước Trung quốc. Chúng tôi nghĩ rằng những
tượng đài kỷ niệm giống như những
bia đánh dấu thuyền nhân Việt Nam tại các quốc
gia Đông Nam Á như Indonesia hay Mă Lai nói lên một giai đoạn rất
bi tráng của dân tộc và cho dù đứng từ phe phái
nào đi nữa thi` với số hàng trăm ngàn người
đă chết trên biển cả và với một cuộc
hành tri`nh đầy y' nghĩ đó, ngày hôm nay người Việt Nam ở
trong nước hay ngoài nước chế độ này hay
chế độ khác mà tỏ ra một chế độ bất
măn không bao dung thi` chúng tôi nghĩ rằng chế độ
đó rất là thiếu văn hoá, rất là ấu trĩ. Và điều đó cho chúng ta thấy
rằng đất nước Việt Nam vẫn co`n có một
khuyết tật, một sự khập khễnh, chúng ta
chưa có thật sự trưởng thành và chúng ta chưa
có được một nền văn hoá khả dĩ có
thể gọi đủ để hay là cạnh tranh, đủ
để sánh vai với các nước láng giềng, bởi
vi` tinh thần rất cục bộ, tinh thần rất thiếu
hiểu biết, có thể nói rằng một cái nhi`n hết
sức thiển cận của chúng ta ở trên sự phát
triển của cộng đồng thế giới.
Thi`
bây giờ trở lại Đài Loan, chúng tôi xin thưa một
điều rằng trong một nỗi buồn khó tả
như vậy, khi nhi`n thấy đất nước
người thi` chúng ta phải nói rằng họ đă có sự
phát triển hết sức lớn mà chúng ta có thể học
được, nhưng chúng tôi nghĩ cái dấu hiệu
quan trọng nhất của một đất nước
Đài Loan đang phát triển trong tương lai là càng lúc
người dân đă có một nền dân trí trưởng
thành hơn, họ có thể chấp nhận và dung hợp
được nhiều nền văn hoá cổ kim đông
tây, riêng về trường hợp của Phật Giáo thi`
chúng tôi thấy rằng người Phật tử Đài
Loan họ không có thái độ cực đoan như ngày
xưa, sùng tín thi` họ rất sùng tín nhưng rồi họ
không có một thái độ nghi kỵ hay phiến diện
cục bộ, và đó là một dấu hiệu rất tốt,
dĩ nhiên bên cạnh đó cũng có những dấu hiệu
tiêu cực chúng tôi sẽ nói trong những bản tường
tri`nh sau, nhưng nhân trong buổi tường tri`nh đầu
tiên này chúng tôi chỉ muốn nói đến một điểm
một khía cạnh mà chúng tôi có thể ghi nhận tại
Đài Loan, là hiện tại chúng tôi nhi`n thấy người
Đài Loan nói chung và người Phật tử Đài Loan
nói riêng đă có một sự tiến bộ rất lớn
ở trong đời sống tu học, ở trong tinh thần
của họ đó là một tinh thần biết tận dụng
cái hay cái đẹp của nhiều tông nhiều phái nhiều
quốc gia, kể cả cái
xưa cái nay để làm một cái gi` đó thật sự
tốt đẹp cho cuộc sống ngày hôm nay, thi` đó
là dấu hiệu đáng mừng mà chúng tôi muốn nói lên
trong phần tường tri`nh đầu tiên. Ngày mai chúng tôi sẽ nói qua một
số các học viện, các tổ chức mang tính tiêu biểu
của Phật Giáo Đài Loan mà chúng tôi nghĩ rằng từ
ở đó chúng ta có thể thấy hướng đi của
Phật Giáo Đài Loan trong tương lai như thế nào