Bản
tin ngày 14 tháng 02 năm 2005
TT
Giác Đẳng: Từ chùa Pháp Luân,
Houston, Texas Hoa ky`, chúng tôi xin gửi
đến qúi Ngài và qúi vị bản tin trong ngày.
1)
Bạo động
tại Thái Lan
Theo
tin tức mới nhất từ miền nam Thái Lan lại có những xô xát bạo
động xăy ra giữa những người dân Hồi
giáo và dân địa phương.
Theo tin tức hôm nay được biết một
vị trưởng ấp đă bị giết chết và
ba nhân viên cảnh sát bị thương trong một
cuộc chạm súng mới đây.
Theo văn pho`ng của Thủ Tướng Thái Lan, những căng
thẳng leo thang tại niềm nam Thái Lan giữa những
người Hồi giáo và cộng đồng Phật giáo
đang là một trong những
mối lo hàng đầu của chính phủ Thái. Điều khó khăn nhất của
chính phủ Thái là hiện tại những phiến quân
Hồi giáo vẫn chưa có một tiếng nói chính
thức đại diện để có những
thương thảo khả dĩ dẫn đến
chỗ ti`m ra một giải pháp chung cho
vấn đề. Những
người này chỉ sử dụng những vũ khí
nhẹ như súng ngắn, và những hành động
bạo hành lén lúc nhiều hơn là có một cơ cấu
rơ ràng nhằm tạo ra một tiếng nói với chính
phủ tại Bangkok.
Sự
việc tương đối khác với Tích Lan. Tại Tích
Lan, tổ chức Tiger và chính phủ Tích Lan
không những chỉ đối thoại với nhau mà co`n
có sự dự phần của các tổ chức quốc
tế trong đó nổi bật là NaUy và Nhật Bản. Nauy
và Nhật Bản đă có thể làm môi giới trung gian
để nói chuyện giữa hai bên. Những phiến quân tại
miền nam Thái Lan ngược lại,
họ chỉ tấn công những mục tiêu, và hiện
tại họ vẫn chưa có một tiếng nói chính
thức nào
của họ
tại bất cứ diễn đàn của công luận trên
thế giới.
2)
Tết Nguyên Đán tại
Á Châu
Quay sang
một bản tin khác, ngày hôm qua có hai mẩu tin liên quan
đến sinh hoạt văn hoá của những
người Á Châu. Mặc dù là
sinh hoạt văn hóa nhưng lại có một ảnh
hưởng lớn đến sinh hoạt chung
của Phật giáo.
Bản tin đầu tiên nói về
trường hợp những người Đài Loan. Đài
Loan là một quốc gia đảo quốc giàu có, và có
thể nói rằng sinh hoạt của truyền thống
văn hoá Trung quốc lại hết sức nổi bật
tại đây. Với
người Trung quốc ngày tết Nguyên Đán hay tết âm
lịch là một ngày có thể nói rằng luôn luôn
được cử hành trọng thể . Thế nhưng năm nay theo
một sự thăm do` thi` một số lớn dân chúng
Đài Loan cảm thấy bắt đầu phiền toái
với phong tục ăn tết rất rườm rà. Đồng thời người
ta cảm thấy rằng ngày tết đă tạo nên một tốn kém lớn cho
ngân khoản gia đi`nh. Li` xi` là một hi`nh
thức tương đối quen thuộc trong tất
cả những ngày tết Nguyên Đán.
Riêng về các bà nội trợ thi`
phiền hà là ngày tết khiến cho họ cực nhiều
hơn vui vẻ. Chỉ riêng việc dọn dẹp nhà cửa
đăi đằng khách khứa cũng đă là một
sự phiền phức, họ chỉ muốn cho ngày
tết chóng đi qua mau.
Cùng
lúc đó thi` những ngày lễ của Tây phương
như Valentine như Chirstmas, new year v.v... Những lễ
đó càng ngày càng phổ biến, có sức hấp dẫn
lớn đối với những người trẻ,
bởi vi` tính đơn giản trực
tiếp và nặng tính cách thương mại. Theo một giáo sư của đại
học Trường Quốc Học Đài Bắc, trong tương
lai người ta sẽ phải chấp nhận một
hi`nh thức tổ chức tết Nguyên Đán đơn giản
hơn, qua đó những chi phí tốn kém có thể
được hạn chế
và tạo cho mọi người có niềm vui hơn là những
áp lực về tinh thần.
Chính ra tại Hoa Ky` vào những ngày
Chirstmas cũng có áp lực rất lớn trong việc tặng
quà, gửi thiệp. Nhưng
người Hoa ky` không xem nặng thể diện như người
Á Châu, họ có thể gửi một món quà rất khiêm tốn,
nhưng người Á Châu thường đặt vấn đề
quà cáp là một việc rất lớn, nhất là những
người có quen biết nhiều.
Trong
lúc đó tại Ấn Độ đă có một vài phong trào
nhiều tiếng nói lên án mạnh mẽ
những ngày lễ của Tây phương đang xâm nhập
vào nền văn hóa xứ này.
Ấn Độ vốn là quốc gia tự do, trong sự
tự do đó người ta thấy rằng đạo
Hindu, một tôn giáo của 80% dân số Ấn Độ vốn
dĩ là một tôn giáo đă ăn sâu vào
trong tâm khảm của người Ấn. Rất khó có một chủ thuyết
ngoại lai nào có thể phát triển trên xứ Ấn Độ,
bởi vi` tánh cách rất tự nhiên và bảo
thủ của đạo Hindu.
Đạo Hindu có khả năng dung hoá và biến các
niềm tin của các tôn giáo khác trở thành một phần
của niềm tin Hindu. Thế nhưng trong thời gian gần đây người
ta đă nhận ra một điều rằng một số
các ngày lễ, ví dụ như ngày Valentine hôm nay đă có một
ảnh hưởng hết sức lớn trong lo`ng những
người Ấn, đặc biệt là những người
sống tại thành thị.
Về điểm này phải nói rằng
văn hoá Tây phương mang một lợi thế về
phương diện truyền thông thương mại đă
dần dà xâm thực vào các quốc gia Á Châu. Người ta tự đặt
ra một câu hỏi ở trong tương lai liệu nền
văn hoá lâu đời của phương đông có co`n chịu
đựng được để tồn tại trước
sự xâm thực văn hóa lớn lao này. Tại Á Châu chỉ có một quốc
gia duy nhất là Thái Lan hiện đang dùng
niên lịch của Phật giáo là niên lịch hành chánh chính của
mi`nh. Trong lúc đó ở Nhật
Bản, một xứ Phật giáo khác thi` ngày tết Nguyên Đán
đă không co`n nữa, người Nhật Bản cử hành
lễ tân niên theo dương lịch.
3) Viện
Đại Học Berkeley thành lập trung tâm nghiên cứu Ph
ật giáo mới
By Janet Gilmore, Media Relations 11 February 2005
(A_B
dịch)
TT Giác Đẳng: Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa qúi
Phật tử, cũng sang lănh vực văn hoá chúng ta trở
về Hoa ky`.
Trong một bản tin mới nhất từ đại
học Berkeley, một đại học lớn của Hoa ky` đă công bố rằng sẽ thành lập
một phân khoa Phật giáo, một viện nghiên cứu đạo
Phật. Đại học
Berkeley là một trong những đại học danh tiếng
ở miền bắc California và trong thời ky`
chiến tranh Việt Nam, đại học này được
xem như là một trong những trung tâm nổi tiếng với
những hoạt động phản chiến của những
sinh viên. Nơi này cũng là nơi
xuất thân rất nhiều những học giả, cũng
như những công tri`nh nghiên cứu Phật
học ở trong đó phải kể là đại học
Berkeley đă từng xuất bản bộ Tam Tạng kinh điển
bằng tiếng Tây Tạng trước đây. Trên phương diện địa
dư cũng như lịch sử thi` đại học này
hoàn toàn có một nhu cầu rất lớn, làm sao cung ứng,
làm sao có một học viện, một phân khoa về Phật
giáo khả dị tương xứng với tầm cỡ
và địa phương mà đại học Berkeley đang
hoạt động, đó là miền bắc California nơi
quy tụ rất nhiều sắc dân Á Châu ở trong đó có
Phật giáo.
Từ
Hoa ky` chúng tôi xin mời qúi vị nghe lời dịch và đọc
của A_B trong bản tường tri`nh về sự thành lập
một trung tâm Phật Giáo của đại học Berkeley
Hoa ky`
Berkeley, Calif. Phật giáo tân thời đă và đang cho
ra hàng trăm loại sách tự lực, phim ảnh có giá
trị, và tạo ra tiếng vang
xa hơn là chỉ ảnh hưởng đến
một vài ngôi sao điện ảnh nổi tiếng.
Nhưng
quan điểm về đạo Phật tân thời này có
giống với những ǵ mà các nhà học giả về
Phật học đă từng tu tập ở châu Á không? Ông Robert Sharf, giám đốc
trường đại học California, Trung Tâm Nghiên Cứu Phật
Học mới ở Berkeley, trả lời một cách
thẳng thắng là: không
Ông
Sharf muốn làm thay đổi vấn đề này. Chẳng những ông hy vọng sẽ tổ
chức các buổi hội nghị để chia sẻ và
bàn luận những khám phá mới, mà c̣n tổ chức
những sự kiện nhắm vào những người
không chuyên về Phật học. Hội
nghị của trung tâm “nói về Đức Phật,
đạo Phật, và phương tiện” diễn ra trong
tuần này đă phản ảnh điều đó.
“Tôi muốn
bắt đầu một buổi đàm luận mà sẽ
dẫn đến sự nhận chân giá trị một cách
sâu xa hơn về lịch sử và Phật pháp” ông Sharf
đă nói như vậy
Theo truyền
thống của Mỹ, th́ đạo Phật là một tôn
giáo rất khó phân biệt rơ ràng theo từng thời
đại, tâm linh được hứa hẹn như 1
chân thiện mỹ về hạnh phúc và giác ngộ của
1 nhân thể, tuy nhiên Phật giáo không đ̣i hỏi về
h́nh thức chẳng hạn như: lễ nghi, hội
họp, và việc học đạo.
Các nhà học
giả chuyên nghiên cứu đạo Phật dựa theo
bản nguyên văn từ tiếng Phạn, tiếng Tây Tạng,
tiếng Trung Hoa, và đă quen thuộc với truyền
thống Phật giáo c̣n
tồn tại ở các quốc gia bên Á Châu, thường
rất ngạc nhiên và mất niềm tin vào những ǵ mà
Phật giáo được tuyên truyền ở Mỹ quốc, họ cho
rằng người Mỹ đă làm thay đổi bản
chất thật sự của Phật giáo. Ông
Sharf nói có hai sự hiểu biết khác nhau về nền
tảng của Phật pháp. Ông Sharf đưa ra
một ví dụ như trong lịch sử Phật học,
tuy Phật tử hiểu rất rơ giá trị của
thiền quán, việc hành thiền chỉ dành riêng cho chư
tăng, và được xem là không thích hợp cho các cư
sĩ tại gia.
Quan niệm rằng hành
thiền có thể giúp ích trong việc cải hóa con
người trở thành bậc cha mẹ, vợ chồng,
anh em, chủ tớ và ngay cả t́nh nhân tốt đẹp
hơn - một quan niệm được lập đi
lập lại nhiều lần trong sách “Phật” phổ
thông - có thể được xem như là một
điều quái lạ và có thể nguy hiểm đối
với cái nh́n của chư tăng theo truyền thống.
Ông tin rằng nếu
cứ lư tưởng hoá cho rằng chư
tăng th́ phải sống cuộc đời độc
cư thiền định cũng là một ư nghĩ sai
lầm.
Những cơ sở
Phật giáo, cũng như một số nhà thờ Thiên chúa
giáo khác, quan tâm sâu xa đến vấn đề kinh tế
và chính trị, tuy là để tuyên dương ḥa b́nh,
nhưng đôi lúc lại đồng loă với chiến
tranh và kỳ thị chủng tộc.
Ông Sharf nói rằng: Muốn
duy tŕ Phật giáo một cách đúng đắn và thích
hợp với thời đại, th́ Phật giáo phải
bỏ đi những quan điểm khác nhau này. “Tô son cho đạo Phật không đem lại
lợi ích cho ai hết, luôn cả những tín đồ
Phật giáo”. Ông Sharf nói tiếp: “Phật giáo phải
được hiểu một cách chinh xác hơn. Phật giáo là một truyền thống tâm linh
đa dạng với một gia tài văn học và nghệ
thuật phong phú.”
Những tâm tư
của ông Shaft đă đưa ông đi khắp thế
giới đễ t́m hiểu thêm về Phật pháp khi ông
chọn con đường nầy .Ông bắt đầu quan
tâm đến Phật giáo ở tuổi thiếu niên, khi c̣n
định cư ở Canada, từ thập niên 60
đến đầu thập niên 70. Khi cảm thấy
cần phải t́m hiểu Phật pháp sâu xa hơn, ông
đă sang Ấn Độ và Miến Điện để
theo học với một số vị thầy, và sau đó
chính ông cũng xuất gia .
Khi c̣n là một sinh viên
đại học ,ông Sharf đă từng
đọc rất nhiều kinh Phật bằng nguyên
văn. Ông c̣n đạt được
bằng Thạc Sĩ ngôn ngữ Trung Hoa ở
trường đại học Toronto và bằng tiến
sĩ Phật học tại trường đại
học Michigan. Ông chuyên tâm nghiên cứu
sự thích nghi của các giáo lư và tổ chức của Phật
giáo Ấn Độ với xă hội Trung Hoa thời trung
cổ. V́ Zen hay Thiền Tông là một trong những
sự thích nghi này, nên công tŕnh nghiên cứu đă làm ông
đặt câu hỏi về sự nhận thức về
Zen của người Tây Phương. Một điểm
tập chú trong công tŕnh của ông là một số các phái
đoàn truyền giáo của Thiền Tông Nhật bản
đến châu Âu và Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ
trước. Ông Sharf cho rằng những đoàn truyền
giáo này, phần lớn là những trí thức thông hiểu
Triết học Tây phương, đă đem đến
phương Tây một h́nh thức thiền hấp dẫn
với nhũng người trí thức quan tâm đến
tôn giáo nhưng không thích các thể chế giáo hội. V́ vậy, những ư tưởng mà người
Mỹ cho là cốt lơi của Thiền, chẳng hạn
như kinh nghiệm tâm linh, thật sự đă
được lấy từ tư tưởng của các
triết gia tây phương, như là Williams James. Ông Sharf kết luận rằng Phật giáo đă
được chế biến cho phù hợp với sở
thích của những người phương tây đang
thèm khát tâm linh, nhưng lại không cần đến các
nghi lễ, giới điều hay tổ chức. Ông
Sharf thừa nhận rằng nét đặc sắc này
của Phật giáo trong nền văn hoá dân gian hiện đại
có một tác dụng tích cực đối với các
học giả, đó là nhu cầu ngày càng cao cần có các
chuyên gia Phật giáo trong các trường đại học
và cao đẳng ở Hoa kỳ. Trong những năm
gần đây, nhiều phân khoa và nhiều dự án mới
đă được thiết lập hay mở rộng
ở các viện nghiên cứu hàng đầu quốc gia,
kể cả các trường Đại học Berkeley,
Havard, Michigan, Stanford, Los Angeles và Yale. Phật
học đă trở thành một ngành học chính trong
giới học viện. Tuy nhiên, theo
lời ông Sharf, th́ tiếc là trong khi các học giả
đang t́m cách đào sâu kiến thức Phật học,
rất ít người có khuynh hướng đem kiến
thức đó đến trực tiếp cho quần chúng.
Ông nói
rằng phần lớn các học giả Phật giáo
thậm chí không cần cố gắng tiếp cận
với những người không chuyên về Phật
học v́ họ cảm thấy khoảng cách giữa
sự hiểu biết của các học giả và sự
hiểu biết của quần chúng nói chung quá lớn.
Tuy nhiên, mục tiêu của Trung Tâm Nghiên cứu Phật
học của trường Đại học Bekerley không
chỉ là đẩy mạnh việc nghiên cứu của
các học giả, mà c̣n đem kết quả của
những công tŕnh nghiên cứu này đến với
những người không chuyên nhưng quan tâm đến
lịch sử và giáo lư của Phật giáo. Ông c̣n nói
rằng trách nhiệm của một học giả không
chỉ là t́m hiểu xem mỗi người nên chọn cách
tu tập như thế nào cho riêng ḿnh, mà qua trung tâm này, ông
c̣n muốn bắt đầu một cuộc đàm
luận với cộng đồng để làm giảm
bớt cái khoảng cách giữa các học giả và
quần chúng.
4) CHÙA PATHOM CHEDI (Cô Liễu Pháp dịch)
TT
Giác Đẳng: Qúi vị vừa nghe bản tin về
đại học Berkeley, một đại học của
Phật giáo qua lời dịch và đọc của A_B từ
Tennessee Hoa
ky`. Một ngôi tháp có thể
nói rằng lớn nhất của Thái Lan đánh dấu
nơi mà Ngài Sona đă đem Phật giáo truyền vào quê
hương này, lúc bấy giờ thời đó vẫn
chưa có một vương quốc mang danh là Thái lan, mà
được lịch sử ghi là Suvannabhumi, bảo tháp Pathom
Chedi có thể nói rằng là một trong những trung tâm hành
hương lừng danh của người Thái Lan của
nhiều du khách ngoại quốc.
Từ New Delhi Liễu Pháp dịch và đọc, chúng
tôi xin kính mời qúi vị theo dơi
Chùa Pathom Chedi là di tích
Phật giáo xưa nhất ở Thái lan, nằm ở thành
phố Nakhon Pathom, cách Bangkok 60 km về phía Nam. Nền của
ngôi chùa đă có hơn 2000 năm. Dưới thời vua A Dục
vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, một đoàn
truyền giáo đă được phái đến Thái Lan,
vào thời đó được gọi là Suvannabhumi. Chứng
tích cho sự kiện này chính là sự phát hiện ra bánh xe
pháp luân bằng đá, những cái bàn thờ có chạm trổ,
và những đấu chân của Đức Phật, tất
cả nhũng chứng tích này đều có trước khi
tượng Phật đầu tiên được tạo
vào năm 143 trước công nguyên.
Pathom Chedi có nghĩa là ngôi
tháp đầu tiên. Ngôi tháp nguyên thuỷ cao 39 mét, và được
xây theo mẫu của tháp Sanchi ở Ấn Độ. Ngôi
tháp này được coi là thiêng liêng v́ có tôn thờ xá lợi
Phật do phái đoàn truyền giáo ngày xưa đem sang Thái
Lan. Ngôi tháp cổ hiện nay vẫn c̣n, nhưng đă được
xây thêm và trùng tu dưới sự chỉ đạo của
nhiều vị vua khác nhau. Đây thực sự là một
ngôi tháp rất đặc biệt cho các nhà vua Thái Lan, v́ theo
truyền thống, tất cả vua chúa khi đi ngang qua
tháp Pathom Chedi đều phải dừng lại để
dâng hương đèn cúng dường.
Ngôi tháp hiện nay là giấc
mơ thành hiện thực của Vua Mongkut Rama đệ tứ,
người mà khi c̣n là hoàng tử đă từng xuất gia
và từng hành hương đến đây nhiều lần.
Lúc bấy giờ ngôi tháp đă bắt đầu bị hư
hoại, và vị hoàng tử này đă nguyện là sẽ
trùng tu lại ngôi bảo tháp. Khi lên ngôi vua, ông đă cho xây một
ngôi tháp rất lớn để trùm lên bên trên che chở cho
ngôi tháp cổ. Đây là một công việc rất khó khăn,
và ngôi tháp đầu tiên đă bị sụp đổ do thời
tiết xấu. Tuy vậy, vào năm 1870, công tŕnh cũng được
hoàn thành, và chóp nhọn của tháp được dựng
lên dười thời của vị vua kế vị là vua
Chulalongkorn.
Trước năm 1897, ngôi tháp nằm giữa một khu rừng,
v́ vậy vua Chulalongkorn đă ra lện cho thành phố Nakorn
Chaisri dời đến thêm vài dặm nữa. Người
ta có thể tiếp cận đến ngôi tháp từ phía bắc,
dọc theo một đại lộ rộng lớn. Từ
xa đă có thể thấy một ngôi tháp rất là hùng vĩ.
Đến gần hơn sẽ có những bậc cấp bằng
đá cẩm thạch dẫn đến ngôi chánh điện
ở phía bắc, và ở đó hiện ra sừng sững
một tượng Đức Phật đứng rất đẹp.
Cao 120 mét, có lẽ đây là ngôi tháp Phật giáo cao nhất
thế giới.
(Liễu Pháp dịch)
5) Các Trường Thiền Minh Sát
trên Thế GiớI
(Phần 1)
TT Giác Đẳng:
Chúng ta vừa nghe bài tường tri`nh về bảo tháp Pathom
Chedi do Sư Cô Liễu Pháp từ New Delhi Ấn Độ dịch
và đọc. Thưa
qúi vị hiện nay có một điều làm cho nhiều
người ngạc nhiên là những ngôi trường thiền
không hẳn là những trung tâm tu tập thiền định
ở dưới những mái chùa và khắp nơi trên thế
giới hiện đă có rất mhiều trung tâm thiền
định. Những trung tâm này được xây cất với
tầm cỡ quy mô và có một tổ chức tương
đối thường xuyên với một nguồn tài
chánh dồi dào. Đặc biệt những trung tâm này lại có một
phương pháp tổ chức mới. Chúng tôi xin mời qúi
vị cùng lượt qua một số các trung tâm nổi tiếng
được biết đến hiện nay. Những trung tâm này hoặc
đang có hàng trăm ngàn người tu tập mỗi
năm, tạo nên một phong trào thiền học rất lớn. Từ Ilinois Hoa ky`
Tinh Tấn đọc và dịch bản tin này.
Được viết tắt là IMS (Insight Meditation
Society), Hội Thiền Minh Sát tại Massachusetts,
được thành lập năm 1975, là một tổ
chức không vụ lợi để cống hiến
một địa điểm cho việc nỗ lực
thực tập Thiền Minh Sát.
IMS điều hành một trung tâm thiền tọa
lạc trong một khu rừng rộng 80 mẫu ở
tại trung tâm của tiểu bang Massachusetts. Trung tâm thiền này
cống hiến một môi trường biệt lập
để sự tập trung được sâu sắc
hơn trong khi thực hành thiền Minh Sát.
Được viết tắt là
NYI (New York Insight Meditation Center), Trung Tâm Thiền Minh Sát New
York là một trung tâm thiền do các hội viên tạm trú
đảm nhiệm để phục vụ cho các khóa
thiền Minh Sát, các lớp Phật Pháp lư thuyết và
thực hành, và những chương tŕnh khác cho những
người ở vùng New York. NYI là
một tổ chức không vụ lợi và luôn luôn đón
chào các thiền sinh sơ cơ cũng như nhiều kinh
nghiệm.
Được viết tắt là
SIMS (Seattle Insight Meditation Society), Hội Hành Thiền Minh Sát
Seattle là một tổ chức không vụ lợi đă
tận lực cống hiến Giáo Pháp của Đức
Phật vê` Minh Sát Tuệ và sự Giác Tỉnh cho tất
cả những ai đang khao khát mong t́m. SIMS cống hiến
các lớp học về thiền Minh Sát và tổ chức
các khóa thiền.
Trung Tâm Thiền Thạch Tâm
tọa lạc tại thị trấn Woodcare ở miền
tây quận Marin, chưa đến một giờ lái xe nếu đi từ phía bắc của thành
phố San Francisco. Trung tâm này
hổ trợ một chương tŕnh đầy
đủ cho những khóa học liên tục, những khóa
thiền trọn ngày và dài hạn để giúp hành giả
thực chứng đuợc chân lư của Giáo Pháp trong
thiền định và sự liên hệ của thiền
định về đời sống trong xă hội
hiện đại. Những
khóa thiền được giảng dạy bởi 17
vị hội viên của Hội Cố vấn Thiền
Sư Thạch Tâm và bởi các vị Thiền Sư cao niên
du hành từ các trung tâm thiền huynh đệ, từ
hội IMS ở Massachusetts, và từ Gaia House ở Anh
quốc.
Hội Phật Pháp Vùng Giữa
Nước Mỹ cống hiến Thiền Minh Sát cho vùng
trung tâm của Nước Mỹ. Mạng của hội cung cấp thông tin về
những nhóm thiền địa phương trong vùng
khỏang giữa Appalachian and Rocky Mountain, những khóa
thiền của Hội Phật Pháp Vùng Giữa Nước
Mỹ và phần lớn của những nhóm Thiền Minh
Sát khắp nước Mỹ, và liên kết với
những mạng Thiền Minh Sát khắp hoàn cầu.
Được viết tắt là
IMC (Insight Meditation Center), Trung Tâm Thiền Minh Sát tại
Redwood City là một trung tâm thiền Minh Sát đặt
căn bản vào cộng đồng của vùng phụ
cận thành phố. Trung tâm này
do các hội viên tạm trú ở Redwood City, California,
đảm nhiệm và tận tâm trong việc nghiên cứu
và thực hành Phật Pháp. IMC cống hiến một tầm mức rộng lớn
trong việc hành thiền cũng như tham dự những
họat động cộng đồng. Điều này bao
gồm chương tŕnh hành thiền cuối tuần, pháp
đàm (đàm luận về pháp học và pháp hành), các khóa
giảng, các nhóm thảo luận, thực tập Yoga, các
phương pháp hành thiền khác nhau, và các khóa thiền.
Cộng
đồng Hành Thiền Minh Sát ở thủ đô Washington
DC là một nhóm hành thiền Minh Sát phỏng theo
truyền thống của Hội Hành Thiền Minh Sát
tại Barre, tiểu bang Massachusetts ở Mỹ. Tara Brach là một
vị Pháp Sư đă thành lập hội và hướng
dẫn trên 100 thiền sinh tham dự lớp tọa
thiền cuối tuần.
Những khóa thiền từ một, ba,
hay bảy ngày được tổ chức thường
xuyên tại vùng thủ đô Washington DC.
Đây là
những trang nhà được những hội đưa
lên mạng khắp thế giới để cống
hiến những khóa học hành thiền Minh Sát theo
truyền thống của Ngài Sayagyi U Ba Khịn Ngài U Ba Khin là thầy của Ngài
S.N. Goenka và vị Thiền Sư phụ tá của Ngài Goenka.
Có năm Trung
Tâm Thiền trên Thế Giới theo
truyền thống của Ngài Sayagyi U Ba Khin. Mỗi Trung Tâm Thiền ở Âu
Mỹ và Úc là mỗi nhánh trực tiếp từ Trung Tâm
Thiền Quốc Tế ở Yangon, Miến Điên là Trung
Tâm Thiền đă được Ngài Sayagyi U Ba Khin sáng
lâp. Tất
cả những Trung tâm này được hướng
dẫn bởi Mẹ Sayamagyi và Ngài Sayagyi U Chit Tin là hai
vị đệ tử cận hành của Ngài Sayagyi U Ba
Khin. Hai
vị Thiền Sư này đă hành thiền và dạy
thiền hơn 40 năm và thực hiện truyền
thống này từ khi Ngài Sayagyi U Ba Khin tạ thế năm
1971.
Đây là nhóm cộng đồng
nhỏ hành thiền Minh Sát tại Maui đă hướng
dẫn những khóa thiền tỉnh lặng về Tâm
Từ và Minh Sát được tổ chức trọn ngày,
cuối tuần, hay hai
tuần, và một khóa trọn tháng Tám hàng năm. Hành giả nhất quyết trau
dồi sự Giác Tỉnh xuyên qua truyền thống
thực hành về hạnh bố thí, thanh lọc tâm,
Thiền Chỉ, Thiền Quán, và Thiền Tâm Từ với
sự thông hiểu rằng tâm không bị ràng buột sẽ
đem đến hạnh phúc vĩ
đại nhất: đó là sự An Lạc. Hai vị Thiền
Sư tại đây tên là Kamala Master và Steven Armstrong. Nhiều vị
Thiền Sư cao niên thường được mời
đến thuyết pháp tại Maui.
Nhóm Thiền
Minh Sát Madison thuộc thành phần của những
người có tŕnh độ khác nhau trong sự rèn
luyện cũng như kinh nghiệm về hành thiền Minh
Sát. Những vị này chú tâm
vào sự tinh túy của Giáo Pháp mà Đức Phật đă
giảng dạy nhưng trong khoảng thời gian 2500
năm sau khi Đức Phật Niết bàn, sự tinh túy
đó đă bị che lấp bởi những nền văn
hóa và truyền thống khác nhau.
TT Giác Đẳng: Kính bạch quí Ngài và
quí vị, sau bản tin tức về các trường thiền,
chúng tôi xin chấm dứt bản tin Phật sự tại
đây, chúng tôi xin hẹn qúi Ngài và qúi vị vào tin tức Phật
sự ngày mai.