Bản tin ngày 05 tháng 02 năm 2005
Bản tin ngày 05 tháng
02 năm 2005
TT Giác Đẳng:
Từ chùa Pháp Luân, thành phố Houston,
Texas Hoa Ky`, chúng tôi xin gửi đến qúi Ngài và quí vị
bản tin trong ngày với sự góp mặt của Hạt
Cát từ Pennsylvania, Hoa Ky` và Trí Đạt từ Adminton,
Canada và Chánh Hạnh từ Việt Nam.
1) Tin tức liên quan đến việc tuyệt
thực của Ni Sư Nam Hàn
TT Giác Đẳng Trong một diễn tiến mới nhất
liên quan đến sự việc chính phủ Nam Hàn có
đôi chút nhượng bộ trong yêu sách từ một
Sư cô tuyệt thực 100 ngày.
Sư cô vừa chấm dứt buổi tuyệt thực
trong ngày hôm qua. Ngày hôm nay
người ta được biết rằng chính phủ
sẽ đưa ra một ủy ban, ủy ban này sẽ duyệt
lại tất cả những gi` liên quan đến đề án thiết lập xa lộ
cho xe lửa tốc hành đi ngang một ngọn núi, và các
nhà môi sinh tin rằng đang đe dọa ít nhiều một
số các sinh vật trong nguy cơ diệt chủng. Chúng ta được biết rằng
đối với Nam Hàn đây là một trong những
điều đầu tiên mà chính phủ có vẻ nhân
nhượng với những yêu sách của dân chúng. Từ trước tới giờ
thi` đa phần chính phủ nuôi một chánh sách rất cứng
rắn đối với những đo`i hỏi mang tính
dân chủ tại quốc gia tuy rằng dân chủ nhưng
người ta vẫn áp dụng một thứ kỷ luật
hết sức hạn chế ở trong việc lắng
nghe y’ kiến của dân chúng xa gần. Theo giới quan sát cho rằng
đây là một trong những thành tựu có thể nói là do
cuộc tuyệt thực mang lại. Riêng về các nhà môi sinh họ vẫn
tiếp tục lo lắng là chính phủ vẫn cố gắng
để theo đuổi dự án này và khó có thể thực
hiện bất cứ điều gi` khác để thay
đổi những ảnh hưởng xa gần liên quan đến
môi trường.
2) Tin tức liên quan
đến việc chính phủ Hà Nội phóng thích các tù nhân
chính trị
TT Giác Đẳng: Trong mấy ngày qua thi` người ta
được biết trong dịp tết này, chính phủ
Việt Nam đă có một hành động đă phóng thích một
số tù nhân chính trị. Những
tù nhân bị bắt giữ vi` lên tiếng cho tự do nhân
quyền và dân chủ. Ở
trong đó có một vị Tăng sĩ Phật Giáo đó
là TT Thích Thiện Minh đến từ lục tỉnh miền
Nam. Trong một buổi phỏng
vấn mới đây trên tờ Á Châu Tự Do do cô Ỷ Lan
thực hiện. TT Thiện
Minh cho biết rằng cho đến hôm nay, mặc dầu
chính quyền đă trả tự do, tuy nhiên chính quyền vẫn
cố gắng có nhiều cảnh cáo rằng chính bản
thân của TT Thiện Minh mặc dầu được
phóng thích nhưng đừng làm bất cứ điều
gi`, hay lên tiếng bất cứ điều gi` có
phương hại đến chính quyền. Việc trả tự do cho một
số tù nhân chính trị trong giai đoạn này thi` đặc
biệt, theo giới quan sát; có thể người ta
đang cố gắng làm một cái gi` đó theo yêu sách của
chính quyền Hoa Ky` liên quan đến sự việc này.
Kính bạch Chư
Tôn Đức và thưa qúi Phật tử trong một đất
nước như Nhật Bản, không phải là một
điều ngẫu nhiên mà Phật Giáo và đạo Shinto
hay là thần đạo có những gặp gỡ quan trọng. Đạo Shinto là một tôn giáo
lâu đời tại Nhật Bản có thời gian ướt
tính mà người ta nói rằng phát xuất từ thời Heian,
có thể lên tới 10,000 năm.
Căn bản của đạo Shinto là một tôn giáo
không có kinh điển, chỉ có một số ít căn bản. Người theo đạo Shinto lễ
bái tổ tiên, họ thờ phượng anh linh của những
anh hùng dân tộc, và đặc biệt là họ ti`m thấy
sự thiêng liêng trong những cảnh vật thiêng liêng
như cây, đá, rừng, núi v.v… Khi đạo Phật
được truyền vào Nhật Bản thi` chính Shinto và
đạo Zen đă có những sự hợp tác để
tạo nên một nền văn hoá Nhật Bản mà ở
đó thiên nhiên đóng một vai tro` không thể phủ nhận
được. Chúng tôi xin mời
qúi Ngài và qúi vị nghe bài đọc về một công tri`nh
khảo cổ, mà ở trong đó người ta ti`m thấy
rằng Phật giáo và Thần Đạo hay Shinto đă có một
thời gian rất dài trong sự hợp tác với nhau
để tạo nên một nền văn hoá độc
đáo của Nhật Bản nói chung và Phật Giáo Nhật
Bản nói riêng ngày nay. Xin mời
qúi vị nghe bài dịch của Minh Hạnh và giọng
đọc của Hạt Cát.
3) Phật Giáo Nhật
Bản với sự hoà hợp đạo Shinto
Minh Hạnh dịch
bài viết của ky' giả Sten McCarty Người ta đă khám phá đưọc
những cổ vật rải rác đó đây, cộng với
những tầng lớp truyền thuyết từ nhiều
tôn giáo, đă có liên hệ với The Elephant's Head Mountain Range
(Zozuzankei) trên đảo Shikoku. Không ai có thể khéo léo đặt
những miếng puzzle chung lại với nhau trong sự so
sánh và nhắc đến một tôn giáo triết học của
thời ky` Heian tại Nhật Bản. Theo sự khảo cứu
thi` toàn vùng Zozuzankei như là một nơi thiêng liêng. Giống
như vùng Phương Đông khác, nó lên đến cực
điểm trong sự cố gắng thống nhất các
trường phái Mandala đại diện cho miền núi và
văn hóa tôn giáo của Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản.
Ngày hôm nay tại chân núi Zozuzankei, trong quận
nhỏ Kagawa có hai thị trấn nhỏ nhưng rất nổi
tiếng là thị trấn của tôn giáo Monzen-machi. Kotohira
Shrine, co`n gọi là Kompira-san, nơi đây có nhiều vị
tu sĩ Shinto tu hành. Tu viện Zentsuji là một tu viện
Shingon lớn nơi quê hương của Kukai (774-835), một
vị cao tăng của Nhật Bản. Ngài học tại
thủ đô của hoàng đế Chang-an. Kukai thật sự
đă đưa thời ky` Heian vào thời ky` vàng son cho
nước Nhật. |
Gần đảo Seto, người ta kiếm
thấy một tảng đá lớn tuổi 10,000 năm về
truớc đó là tượng ngà voi. Cũng giống như
ngọn núi đầu voi (Zozuzan, những người Phật
tử gọi là núi Kompira) và gần nơi sinh quán của
Kukai tại thị trấn Zentsuji, một tảng đá lớn
tuổi khác được ti`m thấy tảng đá với
tuổi mới của thời đại Jomon.
Một vài chuông đồng của thời
đại Yayoi trước khi được chuyển
sang đời thượng cổ Nhật Bản, đă
được kiếm thấy tại Kyushu gần miền
đất của Phương Đông, có trên một chục
cái được kiếm thấy gần Kotohira và Zentsuji.
Những cái kiếm bằng đồng được kiếm
thấy tại thị trấn Zentsuji thi` hầu hết
được kiếm thấy tại Nhật Bản. Tại
Kotohira Shrine người ta kiếm thấy một cái chuông
tuổi chừng 2,000 năm. Những nhà khảo cổ
đă khám phá ra một chuyện cực ky` ly' thú vào thời
đại Yayoi đó là họ đă kiếm thấy một
chuông đồng trên ngọn núi, nơi kukai khi co`n là đứa
trẻ mà người ta tin tưởng rằng đă gặp
Đức Phật.
Có những lúc đạo Phật và
đạo Shinto, sự kết hợp của Kompira Daigongen
trở thành đồng nhất với Shinto Kami của núi
Kompira, O-Kuni-nushi-no-mikoto, một trong những vị trời
chính của Nhật Bản, vị trời đó có liên hệ
một cách mơ hồ với những con cá sấu ở
trong White Hare của huyền thoại Inaba ở Kojiki. Về
sau những Phật tử của Phật giáo và đạo
Shinto có thể coi như có niềm tin giống nhau, và hoà hợp
lại thành một tôn giáo.
TT
Giác Đẳng: Vào thế kỷ thứ 20 và thế
kỷ thứ 21 đă đưa sự giáo dục của
nhân loại vào một giai đoạn mới, qua đó chúng
ta ti`m thấy rất nhiều môn học trước kia nằm
trong khuôn viên của chùa chiền, của tu viện, bây giờ
đă nghiễm nhiên trở thành môn học ở trong các
trường đại học.
Phật Giáo là một môn học có thể nói rằng
phát triển rất nhanh từ Phương Đông và ngày
nay đă có rất nhiều trung tâm Phật học và những
trung tâm này không nằm chỉ ở trong những mái chùa,
không nằm bên cạnh những bảo tháp cao mà chúng ta ti`m
thấy hết sức là quen thuộc từ ngàn năm
trước. Ngay cả những
người giảng dậy không phải là nhà Sư mà là những
vị giáo sư đă nhiều năm nghiên cứu những
tác phẩm có giá trị liên quan đến Phật học. Kính bạch Chư Tôn Đức
và thưa qúi vị, nó là một điều rất dễ
ngạc nhiên, nó khiến cho nhiều người cảm thấy
ngạc nhiên rằng có đôi khi người Phật tử
sống ở một thành phố xa lạ, không hề biết
rằng tại đó có một trung tâm học Phật quan
trọng có tầm cở thế giới. Trong bài tường tri`nh hôm nay
chúng tôi xin được điểm qua một vài trung tâm
Phật học mang tánh cách kinh điển khoa bản, ở
trong đó phần lớn những môi trường đại
học đóng vai tro` quan trọng.
Xin mời qúi Ngài và qúi vị nghe bản tường
tri`nh về một số trung tâm học Phật qua bản
dịch của Minh Hạnh với sự tri`nh bày của
Trí Đạt
4) Trung
Tâm Phât Học Quốc Tế (Minh Hạnh dịch)
Barre Center là một trung tâm Phật học
tại tiểu bang Massachusetts. Trung tâm với sự cống
hiến mang lại cho các giảng sư, các Phật tử,
các nhà học giả và những người tu tập, với
những ai có tâm nguyện ti`m hiểu, tư tưởng
giáo ly' của Phật Pháp và thực hành trong đời sống
hằng ngày, chung thành với truyền thống căn
nguyên, chưa thích ứng và trong đời sống trong mỗi
thời gian và hoàn cảnh mới.
Trung Tâm Học Phật, Hồng Kông.
Trung Tâm Học Phật được thiết lập vào
tháng 9, năm 2000. Đây là một trung tâm học viện thứ
nhất đặt trọng tâm vào việc học Phật
pháp tại trường đại học Hồng Kông và tại
những trường đại học ở những
nơi khác. Chương tri`nh được giảng dậy
thi` được mô tả tại web site
Trung Tâm Học Phật tại đại học Bristol
Trung Tâm Phật Học tại trường đại học
Bristol được thiết lập năm 1993, nằm
trong khoa Thần Học và Tôn Giáo của trường đại
học Bristol. Đó là trung tâm học Phật duy nhất tại
UK, và cũng giống như những bằng cấp trongcác
ngành cao học và nghiên cứu khác đo`i hỏi giảng dậy
MA trong ngành Phật Học tại UK.
Khoa Pali & Phật Học, tại đại học của
Peradeniya, Tích Lan.
Những chương tri`nh học
được đưa ra là
Những dữ kiện trên đây cung cấp tin tức về
vấn đề các chương tri`nh giảng dậy cử
nhân tại các ngành Triết Học Phương Đông và các tôn
giáo (bao gồm Đạo Phật, Ấn Độ Giáo, đạo
Khổng và Đạo Tào Động) được một số
các viện đại học trên thế giới giảng dậy
Cư Nhân Phật Học, Singapore.
Chương tri`nh giảng dậy
được đưa ra như sau: Các bằng Cử
Nhân và bằng cấp cao hơn bởi các bài học hay những
việc nghiên cứu; nhóm nghiên cứu chuyên đề đặt
trọng tâm đặc biệt vào ngành Phật Học, ngành
ngôn ngữ học trong các mạch văn của Phật Học
cổ xưa; Có những chương tri`nh ngắn hạn
giảng dậy về Phật Pháp.
Phật Giáo Quốc Tế Theravada tại Missionary University.
Trung tâm cao học Phật Giáo Theravada, với những
chương tri`nh mà bài học được hướng
dẫn bằng tiếng Anh. (Một nguồn tin cho biết
rằng hầu hết những giảng viên không nói
được tiếng Anh nhiều).
Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya
Chùa Mahadhatu tại Bangkok Thái Lan do vua Chulalongkorn xây dựng từ
năm BE 2430 / CE1887 với tri`nh độ Phật Học
cao cấp cho Chư Tăng, những người tập sự
và những người thường học tại đại
học Mahachulalongkornragavidyalaya sẽ được cấp
chứng chỉ bởi chính phủ Thái Lan.
Muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc tại:
Wat Mahadhatu, Bangkok, 10200 (662) 623-6328, 255-8686 ext. 106
Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya (MCU) do vua
Chulalongkorn xây từ năm 2432 / CE 1889, trước Tây lịch,
với sự chăm sóc của Đức Vua, MCU trở
thành học viện cao học cho Phật Giáo, nghiên cứu
và phục vụ quần chúng, giáo dục Chư Tăng. Những
người tập sự và người thường thi`
tại các trường đại học của Thái Lan
MCU tại Bangkok giảng dậy các tri`nh độ như Cử
Nhân, Master, và bằng tiến sĩ với ngành đại họtc
Phật giáo, ngành giáo dục, ngành Nhân Chủng Học, và
Khoa Học Xă Hội.
Chương tri`nh giảng dậy quốc tế thi` cung cấp
bằng master’s ngành Phật học và triết ly’,
Đại học Mahamakuta Rajavidyalaya
Đại học Phật Giáo Mahamakut là một trường
đại học cao học của Tăng Già Thái Lan.
Được thiết lập bởi vua Ram V vào ngày 1 tháng
10 B.E. 2436 và được đặt tên là
Mahamakuta-rajavidyalay để tưởng nhớ Đức
Vua King Rama IV. Đại học tọa lạc tại chùa
Wat Bovonnivesvihara, tỉnh Phanakorn, Bangkok Thái Lan. Ngày hôm nay
đại học Phật Giáo Mahamakut gồm có 5 ngành học
với 11 lớp cho bằng Cử Nhân như : Ngành Triết
học (môn học về Triết học là chính), ngành Nhân
Chủng Học (sinh ngữ Anh và Sanskrit là môn học chính),
Ngành Xă Hội học, Ngành Giáo Dục. Các ngành Master Degree (Phật
Học và Triết Học)
TT Giác Đẳng: Trong câu truyện về
các nhân vật Phật giáo hàng tuần, ngày hôm nay chúng tôi xin
gửi đến qúi Ngài và qúi vị một bài tiểu sử
của vị danh tăng, có lẽ rất quen thuộc với
phần lớn chúng ta. Cơn
sóng thần tsunami đă làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến cư dân ở chung quanh vùng Nam Á. Những quốc gia người
Việt Nam nghe đến nhiều nhất đó là Indonesia,
Mă Lai và Thái Lan. Bởi vi` những
quốc gia này đă từng là nơi tạm dung của hàng
trăm ngàn người tỵ nạn Việt Nam, nhưng
những quốc gia khác, có thể nói rằng sự ảnh
hưởng trầm trọng không kém, đó là Tích Lan, có nhiều
người đặt câu hỏi rằng, Tích Lan có bao giờ
có quan hệ gi` với Việt Nam không. Thưa qúi vị chính vị danh
tăng này đă là một xứ giả, một nhịp cầu
đă giới thiệu, là một gạch nối giữa
hai quốc gia Tích Lan và Việt Nam.
Chúng tôi muốn mời quí Ngài và qúi vị nhi`n lại
công hạnh và cuộc đời của Ngài Narada Maha Thera một
vị danh tăng, mà nhiều tác phẩm của Ngài, ở
trong đó Đức Phật và Phật pháp đă trở thành một
tập sách quen thuộc với những người học
Phật Việt Nam. Sau đây
là phần tiểu sử của Ngài Narada được biên
soạn bởi tiến sĩ B́nh Anson qua giọng đọc
của Chánh Hạnh
5) Ḥa thượng
Narada(1898-1983)
Tiến Sĩ
B́nh An Sơn Ḥa thượng Narada (Narada Maha Thera) có thế danh là Sumanapala. Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka). Ngài xuất thân từ một gia đ́nh trung lưu trí thức, và được gửi đi học cấp tiểu học và trung học của nhà ḍng La-san đạo Gia-tô. Dù rằng ngài đă được đào tạo trong môi trường đạo Thiên Chúa, ngài lúc nào cũng hâm mộ đạo Phật và học tập Phật Pháp từ một người chú, và ngài học thêm tiếng Sanskrit từ Ḥa thượng Palita, tham dự nhiều khóa giáo lư vào các ngày cuối tuần tại chùa Paramananda trong vùng. Năm 18 tuổi ngài quyết định xuất gia, thọ giới Sa di với pháp danh là Narada, vị thầy bổn sư là Ḥa thượng Vajiranana, một vị danh tăng vào thời đó. Thầy truyền giới là Ḥa thượng Revata, và thầy truyền pháp là Tỳ kheo Pelene. Sau đó, ngài theo học các khóa Vi Diệu Pháp và Ngữ học Đông phương. Sa di Narada thọ giới cụ túc (tỳ kheo) vào năm lên 20 tuổi. |
Ngài được gửi
đi học các khóa Đạo đức học và Triết
học tại Đại học Tích Lan (Ceylon University
College), với nhiều giáo sư danh tiếng như Đại
đức Sumangala, Tiến sĩ Chandrasena, và Bác sĩ
Pereira (về sau xuất gia, và trở thành Đại đức
Kassapa rất nổi tiếng). Năm 30 tuổi, ngài
được cử đi tham dự lễ khánh thành chùa
Mulagandhakuti tại Saranath (Xa-nặc), Benares (Ba-na-lại), Ấn
Độ, và tham gia các công tác hoằng pháp tại đó.
Trong thời gian này, ngài có dịp công tác với ông Jawaharial
Nehru mà về sau trở thành vị thủ tướng
đầu tiên của Ấn Độ. Ít lâu sau ngài
được cử đi truyền giáo tại Trung Quốc
và các nước Đông Nam Á -- Cam Bốt, Lào, Việt Nam,
Nam Dương, Mă Lai. Tại những nơi này, ngài
thường được tiếp đón rất nồng
hậu. Quốc vương Cam Bốt tôn vinh ngài là Đức
Đại Tôn Giả (Sri Maha Sadhu).
Ngoài ra ngài co`̣n có nhiều chuyến
đi truyền đạo tại các nước Tây
phương. Năm 1955, ngài sang Úc, và giúp tổ chức các
hội Phật Giáo địa phương tại các bang
New South Wales, Victoria, Tasmania và Queensland. Năm 1956, ngài du hành
sang Anh quốc, tổ chức cử hành lễ Tưởng
Niệm 2.500 năm sau ngày Đại Bát Niết Bàn của
Đức Phật. Sau đó ngài giúp củng cố Phật
sự và xây dựng ngôi chùa danh tiếng mang tên Chùa Phật
Giáo Luân Đôn (London Buddhist Vihara). Ngài sang Hoa Kỳ hoằng
pháp, và được cung thỉnh thuyết giảng về
đề tài "Đức Phật và Triết lư đạo
Phật" tại đài kỷ niệm Washington (Washington
Memorial) trước một cử tọa rất đông
đảo. Ngài là một sứ giả Như Lai rất
hăng hái và nhiệt t́nh, thu hút được nhiều
người nghe, và lúc nào cũng khuyến khích thành lập
các hội Phật Giáo địa phương để bồi
đắp công tŕnh hoằng dương đạo pháp.
Ngài có nhiều gắn bó với đất nước và Phật
tử Việt Nam. Ngài đă từng đến Việt
Nam vào đầu thập niên 1930, mang theo nhiều nhánh cây bồ
đề để trồng tại nhiều nơi trong
nước: Phú Lâm (Chợ Lớn), Cần Thơ, Châu Đốc,
Vĩnh Long ở miền Tây Nam bộ, Biên Ḥa, Phước
Tuy, Vũng Tàu ở miền Đông Nam bộ, ra đến
miền Trung (Đà Lạt, Huế) và miền Bắc (Vinh,
Hà Nội). Trong thập niên 1950, khi Giáo hội Tăng già
Nguyên thủy Việt Nam được thành lập, ngài
đến Việt Nam nhiều lần để thuyết
pháp, hằng tuần tại chùa Kỳ Viên (Quận Ba, Sài
G̣n) thu hút đông đảo Phật tử đến
nghe, và có rất nhiều người đến xin quy y với
ngài.
Đặc biệt là vào năm 1963,
ngài đă khuyến khích ủng hộ công tác xây cất
bảo tháp Thích Ca Phật Đài tại Vũng Tàu, ngày nay
được xem như là một di tích lịch sử.
Ngoài ra, ngài c̣n giúp xây dựng một bảo tháp khác ở
Vĩnh Long. Ngoài các thời thuyết pháp và công tác tổ chức
Phật sự, ngài c̣n hướng dẫn các lớp Vi
Diệu Pháp và các khóa hành thiền, khuyến khích việc
phiên dịch các sách Phật Pháp sang Việt ngữ để
truyền bá rộng răi. Các tập sách nhỏ sau đây
đă được chuyển dịch: -
Hạnh Phúc Gia Đ́nh (Parents and
Children),- Phật Giáo - Di Sản Tinh Thần của Dân Tộc
Việt Nam (Buddhism - Heritage of Vietnam),- Phật Giáo Tóm Lược
(Buddhism in a Nutshell),- Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma Vihara),-
Những Vấn Đề của Kiếp Nhân Sinh (The
Problems of Life),- Những Bước Thăng Trầm (The
Eight Worldly Conditions),- Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta),-
Kinh Pháp Cú (The Dhammapada)- Vi Diệu Pháp Toát Yếu (The Manual of
Abhidhamma)- v.v. Đặc biệt nhất là quyển
"Đức Phật và Phật Pháp" (The Buddha and His
Teachings) đă được xuất bản tại Sài
G̣n bằng hai thứ tiếng: Anh và Việt. Bản Việt
ngữ do ông Phạm Kim Khánh chuyển dịch, với 4.000
quyển đầu tiên được in ra vào năm 1970,
và sau đó một năm, lại được tái bản
thêm 4.000 quyển. Từ đó đến nay, quyển này
đă được in lại rất nhiều lần,
trong nước cũng như tại hải ngoại, và
đă được xem như là một trong những
tài liệu căn bản quan trọng trong các khóa Phật học.
Gần đây (1998), ông Khánh đă hiệu đính lại
bản dịch đó, dựa theo ấn bản Anh ngữ
cuối cùng trước khi ngài viên tịch.
Ngài viên tịch vào ngày Chủ Nhật
2 tháng 10, 1983, hưởng thọ 85 tuổi, tại chùa
Vajirarama nơi ngài làm Tăng trưởng Chưởng quản
trong những năm cuối của đời ngài. Tang lễ
được chính phủ và Phật tử Tích Lan cử
hành trọng thể như là một quốc táng. Ông Phạm
Kim Khánh viết: "...Phần đóng góp của ngài vào công
tŕnh hoằng dương giáo pháp thật mênh mông rộng
lớn. Ngài là một vị cao tăng nổi tiếng là một
nhà truyền giáo lỗi lạc, một giảng sư có tài
diễn giải những điểm thâm sâu của Phật
Giáo một cách giản dị và rơ ràng. Ngài làm việc
không biết mệt để rải khắp mọi
nơi bức thông điệp ḥa b́nh đượm
nhuần từ bi và trí tuệ của Đức Bổn
Sư. Ngài cũng là tác giả của nhiều quyển sách
Phật Giáo đă được truyền bá rộng
răi khắp thế giới." Và ông Premadasa, thủ
tướng Tích Lan năm 1979, kết luận: "...Ngài
đă dành trọn cuộc đời ḿinh -- qua một
cách vị tha bất cầu lợi -- để phụng sự
cho ḥa b́nh trên thế giới và đem lại hạnh
phúc an lành cho nhân loại."
TT Giác Đẳng: Cũng nên nói thêm rằng đối
với các chùa Phật giáo Nam Tông tại Hoa ky`, trên bàn thờ
tổ thông thường ngoài hi`nh của chư vị Tôn Túc
như HT Hộ Tông, HT Giới Nghiêm, HT Tịnh Sự, HT Tịnh
Luật thi` HT Narada cũng được thờ như là
một trong những vị danh tăng đă có công đặt
nền móng trong giáo ly’ tại Việt Nam. Riêng tại Hoa Ky` thi` tác phẩm Đức
Phật và Phật Pháp của Ngài đă được tái
xuất bản ít nhất là bảy lần và số lượng
in có thể trên 50,000 quyển.
Với tiểu sử của Ngài Narada, chúng tôi xin kết
thúc bản tin Phật sự trong ngày.