Bản tin ngày 02 tháng 02 năm 2005

 

TT Giác Đẳng: Từ chùa Pháp Luân, thành phố Houston Texas Hoa Ky` xin được gửi đến qúi Ngài và qúi vị bản tin trong ngày, đồng thời có sự hợp tác của Sư cô Liễu Pháp từ New Deli, Ấn Độ, và đạo hữu Trí Đạt từ .

 

Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa qúi Phật tử.  Trong một ghi nhận mới nhất về sự phát triển Phật Giáo tại các quốc gia Âu Châu và Hoa Ky`, người ta đă ghi nhận một điều rằng sự có mặt của Phật Giáo trở lên ồ ạt với tầm cỡ quy mô, từ sau năm 1975.  Điều này tương đối ngạc nhiên đối với tất cả chúng ta, bởi vi` nghĩ đến Phật Giáo phát triển tại Âu Châu và Hoa Ky`, chúng ta thường nghĩ tới Phật Giáo Zen tức là thiền học Nhật Bản, Phật giáo Tây Tạng và Phật Giáo Tích Lan, Miến Điện, những nguồn sinh lực của Phật giáo đă được truyền đạt sang Tây Phương, từ đầu tiền bán thế kỷ 20 cho đến về sau này.  Thế nhưng trong suốt gian đoạn này phần lớn những sự phát triển Phật giáo mang tính sách vở và kinh điển nhiều hơn những cơ sở Phật Giáo .  Vi` ly' do gi` đó, làn sóng tị nạn của người Đông Dương, Việt, Lào, Cambochia đă tạo nên một khí thế đặc biệt, nhằm lúc trùng hợp với sự phát triển mạnh mẽ với Phật giáo Tây Tạng.  Riêng Phật giáo Trung Hoa, trong một bản tin gửi đi từ San Francisco người ta cũng ghi nhận rằng trước năm 1975, sinh hoạt của Phật Giáo Trung Hoa, Phật Giáo Đài Loan tại Bắc Mỹ như Âu Châu cũng tương đối im li`m.  Như vậy thi` từ năm 1975 cho đến bây giờ chúng ta kể đă 30 năm.  Ba mươi năm đó đánh dấu là 30 năm phát triển quan trọng của Phật giáo về phương diện lượng lẫn phẩm, và nhất là trong 15 năm qua bao nhiêu là cơ sở xuất bản kinh sách Phật giáo mỗi lúc mỗi nhiều, và các thiền viện hầu như hôm nay nếu chúng ta muốn tính tất cả thi` chúng ta phải có một bản thống kê tường tận, chứ không thể là dùng trí nhớ của mi`nh để có thể khả dĩ nêu lên hết những danh sách, kể cả danh sách dài những trung tâm tu học của Phật giáo rải rác đó đây tại Âu Châu, Bắc Mỹ và Úc Châu.

 

Nói về Phật giáo phát triển trong một vùng đất mới như các xứ kỹ nghệ, các xứ Tây Phương,  chúng ta lại một lần nữa thử trở về với Ấn Độ, mảnh đất chúng ta gọi là quê hương tâm linh của những người Phật tử trong thế giới.  Chính tại nơi này cách nay 25 thế kỷ, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đă tuyên thuyết giáo pháp sơ thiện, trung thiện, hổ thiện của Ngài.  Với một gio`ng lịch sử nhiều đổi thay, xáo trộn của Ấn Độ, Phật giáo hầu như đă biến mất hoàn toàn ở trên xứ Phật kể từ thế kỷ thứ 12.  Nhưng vào thế kỷ vừa qua và có thể nói rằng những dấu hiệu chúng ta ti`m thấy ngày nay, thi` Phật giáo Ấn Độ đang trên đà phát triển.  Kính mời Chư Tôn Đức và qúi vị nghe bài tường tri`nh qua lời dịch và đọc của Sư cô Liễu Pháp về sự phục hưng Phật giáo Ấn Độ.

 

SỰ PHỤC HƯNG PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ



(Đại Đức Prayudh Payutto) Cô Liễu Pháp dịch


Vào năm 1200 sau Công nguyên, Phật giáo hoàn toàn biến mất khỏi Ấn độ và người dân Ấn hầu như quên hẳn Phật giáo. Măi cho đến giữa thế kỷ thứ 18 người ta mới có ư thức rơ rệt về sự tồn tại và một thời hoàn kim của Phật giáo. Sự kiện này được xem như là khởi đầu cho giai đoạn hiện đại của Phật giáo ở Ấn độ.Bắt đầu là việc một nhân viên người Anh phát hiện ra một mảnh vỡ từ bia kư trên cột trụ đá của vua A Dục ở Delhi. Sau đó người ta phát hiện thêm nhiều mảnh khác, và việc nghiên cứu các bia kư của vua A Dục cùng với sự quan tâm đến các truyền thống Phật giáo phát triển dần. Năm 1819, động Ajanta, một hang động có các công tŕnh điêu khắc Phật giáo đại, được 2 người lính Anh t́nh cờ phát hiện. Tháp Sanchi được phát hiện năm 1851 và được khai quật bởi nhà khảo cổ học người Anh nổi tiếng là Alexander Cunningham.

Sau đó có hàng loạt các phát hiện khác, nên việc khai quật và phục hồi các di tích Phật giáo được thực hiện rất mạnh mẽ. Lịch sử huy hoàng của Phật giáo được bộc lộ, tầm cỡ của Phật giáo được phát hiện đă khiến cho người dân Ấn độ cũng như thế giới bắt đầu chú ư đến.Công việc của các nhà thám hiểm và khảo cổ học được tiếp nối bằng hoạt động văn học của các học giả phương tây từ năm 1826. Việc phiên dịch và phiên âm Tam tạng Pali cùng với các bộ luận, chú giải, sử Phật giáo, sách văn phạm, các khảo luận về Phật giáo và ngôn ngữ Pali, các bộ từ điển Pali được soạn thảo bởi các học giả của các nước Anh, Pháp, Đức, Hà lan, Mỹ, v.v…

Việc thành lập Hội Pali Text Society ở Luân đôn bởi Giáo sư Rhys Davids năm 1881 là một bước tiến rất lớn trong việc nghiên cứ Pali. Văn học Phật giáo Sanskrit cũng như các nền văn học Hán Tạng và Tây Tạng cũng phát triển mạnh. Ở Anh, các tác phẩm nghiên cứu Phật giáo được thực hiện đều đặn và không gián đoạn cho đến tận ngày nay và đă đóng góp rất lớn cho ngành nghiên cứu Phật học. Pháp và Đức cũng có những cống hiến đáng kể. Tuy nhiên Hoa kỳ, tuy đi sau, nhưng lại là nước dẫn đầu trong việc nghiên cứu và xuất bản các tác phẩm Phật giáo, đặc biệt là những năm gần đây.Sự nỗ lực của các học giả phương tây đă làm thức tỉnh các học giả Ấn Độ.

Hội Văn Học Phật giáo được thành lập năm 1892 ở Calcutta. Dần dần Santiniketan, Patna, và Nalanda ở phía đông Ấn và Bombay, Puna, và bảoda ở Tây Ấn cũng trở thành các trung tâm nghiên cứu Phật giáo. Cùng các hoạt động văn học, việc phục hưng Phật giáo ở Ấn độ trở thành một phong trào có tổ chức với sự thành lập của Hội Phật giáo Maha Bodhi Society năm 1891.Người sáng lập Hội Maha Bodhi Society là Dharmapala, một Phật tử trẻ người Tích Lan. Năm 1885, Edwin Arnold, tác giả của cuốn Ánh sáng Á Châu (The Light of Asia) đến thăm Bồ Đề Đạo Tràng, lúc đó đang ở trong tay của người Hindu và bị bỏ phế một cách thê thảm. Ông viết một loạt bài báo đăng trong tờ London Telegraph để nói về sự kiện này. Xúc động với những bài báo của Edwin Arnold, Dharmapala đến thăm Bồ Đề Đạo Tràng và sửng sốt trước cảnh điêu tàn ở đây. Ông phát nguyện sẽ dành trọn cả đời ḿnh cho việc lấy lại các Phật tích cho Phật giáo và cho việc phục hưng giáo pháp cao thượng trên quê hương của Đức Phật.

Dharmapala trở về Tích Lan năm 1891 và thành lập Hội Maha Bodhi Society ở Colombo. Cùng năm đó, một phái đoàn truyền giáo được cử sang Ấn độ và một hội nghị Phật giáo thế giới được tổ chức ở đây. Năm sau, một tờ báo được khai trương và trụ sở của Hội đặt ở Calcutta. Các chi nhánh của Hội được thành lập ở nhiều nơi, và năm 1920, một ngôi chùa Phật giáo được thành lập ở Calcutta. Đến đây th́ phong trào phục hưng Phật giáo đă phát triển mạnh và được duy tŕ đều đặn. Dharmapala xuất gia năm 1931 và qua đ̣i sau đó hai năm. Các đồng sự và đệ tử của ông thay ông thực hiện những sứ mạng mà ông chưa kịp hoàn thành.Ấn độ giành được độc lập ngày 15 tháng 8 năm 1947. Khi chọn quốc huy cho đất nước Ấn độ vừa mới tự do, Hội Đồng lập pháp Ấn độ đă quay về với di sản Phật giáo.

H́nh ảnh bánh xe pháp được đặt ngay giữa trung tâm của lá cờ để nhắc nhở cả dân tộc về giáo lư của Đức Phật cũng như cuộc chinh phục bằng công bằng và lẽ phải của vua A Dục. Biểu tượng đầu sư tử của vua A Dục, biểu tượng cho sự truyền bá giáo pháp một cách mạnh mẽ, can đảm đi khắp bốn phương, được chọn làm quốc huy của Ấn độ. Chủ tịch hội đồng soạn thảo Hiến pháp, Tiến sĩ Ambedkar, là người đứng đầu đẳng cấp thấp kém nhất của Ấn độ, đẳng cấp Thủ đà la, đă hướng dẫn họ quy y Phật giáo và biến sự phục hưng Phật giáo thành một phong trào của đại chúng. Hai sự kiện khác làm gia tăng sự quan tâm của quần chúng Ấn độ đối với Phật giáo là lễ cung nghinh xá lợi của hai vị đại đệ tử của Đức Phật năm 1949, và lễ kỷ niệm 2500 năm ngày Đức Phật nhập Niết bàn năm 1956.

Xá lợi của ngài Mục Kiền Liên và ngài Xá Lợi Phất đă được chính phủ Anh trả về Ấn độ để thờ ở tháp Sanchi, chính nơi mà ngày xưa người ta t́m thấy, theo lời yêu cầu của Hội Maha Bodhi Society. Lễ cung nghinh xá lợi hai ngài đại đệ tử được tổ chức cùng vơi lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập hội Maha Bodhi Society và Hội nghị Phật giáo thế giới với sự tham dự của thủ tướng Ấn độ và Miến Điện cùng với các nhà lănh đạo Phật giáo thế giới. Lễ Phật Đản Phật lịch 2500 bắt đầu vào tháng 5 năm 1956 và kéo dài suốt cả một năm, cho đến tháng 5 năm 1957. Chính phủ Ấn độ cho xuất bản toàn bộ Tam Tạng Pali bằng mẫu tự Devanagari, và cuốn “2500 năm Phật giáo” là một tập sách đánh dấu cho sự cung kính của tầng lớp trí thức Ấn độ đối với Phật giáo.Ngày 14 tháng 10 cùng năm đó, Tiến sĩ Ambedkar dẫn đầu nửa triệu người trong buổi lễ chính thức quy y Phật giáo. Theo sau sự kiện này, rất nhiều người bỏ Ấn độ giáo để theo Đạo Phật, đặc biệt là những người thuộc đẳng cấp thấp mong cầu có b́nh đẳng xă hội. Đến năm 1965 đă có 4 triệu Phật tử ở Ấn độ so với con số 50 000 năm 1891. Số lượng chư tăng, chùa chiền và các tổ chức Phật giáo cũng gia tăng đáng kể. Năm 1908, môn học Pali đă được đưa vào trường Đại học Calcutta, và các trường đại học khác ở Ấn độ cũng làm tương tự. Viện Nghiên cứu Pali ở Nalanda được thành lập năm 1951, và trường Đại học Ma Kiệt Đà được thành lập năm 1962 cho thấy việc nghiên cứu Pali và Phật pháp đă rất được chú trọng ở Ấn độ.Năm 1950, rất nhiều chư tăng và Phật tử Tây Tạng đến tỵ nạn ở Ấn độ. Cộng đồng Phật giáo Tây Tạng cũng là một đóng góp đáng kể cho tương lai của Phật giáo ở đây.Chỉ cách đây một thế kỷ, Phật giáo không hề được nhắc đến trên xứ Phật, v́ hầu như mọi vết tích của Phật giáo đă bị xoá sạch. Thế nhưng ngày nay, hạt giống của cây bồ đề giác ngộ, được ấp ủ từ lâu trong ḷng đất, đă được tưới tẩm với bàn tay của những người con Phật từ khắp nơi trên thế giới, đă nảy mầm và bắt đầu lớn mạnh.
(Liễu Pháp dịch)

TT Giác Đẳng:  Sư Cô Liễu Pháp học tại New Deli, Ấn Độ về Phật Giáo một thời gian dài.  Thưa Sư cô có thể cho biết về một vài điểm là có rất nhiều người sang hành hương tại Ấn Độ họ ghi nhận rằng sự phục hưng Phật giáo Ấn Độ, người Ấn Độ xuất gia tu học, những người Phật tử xây dựng những đạo tràng, có thể nói rằng tất cả đều theo truyền thống Nam Tông.  Riêng về Phật giáo Bắc Tông, trong cộng đồng người Ấn hoàn toàn không có và Phật giáo Mật Tông chỉ có trong Phật Giáo Tây Tạng.  Sự ghi nhận đó có chính xác hay không?  Sư cô có ti`m thấy người Ấn tu tập xuất gia, xây dựng chùa chiền, Sư cô có ti`m thấy trong đó có Bắc Tông và Mật Tông không?

 

Sư Cô Liễu Pháp: Kính bạch Sư, theo như sự nhận xét của con, thời gian học và sinh hoạt ở Ấn Độ thi` hầu hết Chư Tăng và chùa chiền của Ấn Độ đều theo truyền thống Nam Tông, chỉ có cộng đồng của Tây Tạng khi qua tị nạn ở Ấn Độ theo Mật Tông thôi.  Ngoài Mật TôngTây Tạng ra con chưa gặp vị Sư hay chùa nào theo truyền thống Bắc Tông.  Những nước Bắc Tông khi qua đây ở tại các Phật tích thi` không nói, như chùa Việt Nam hay chùa Nhật Bản. Riêng chùa Phật giáo Ấn Độ thi` hầu hết theo truyền thống Nam Tông.  Con xin thưa với Sư như vậy

 

TT Giác Đẳng: Cám ơn Sư cô.  Và cũng ghi nhận rằng ngay tại Nepal, trước kia một hi`nh thức Phật giáo hầu như ngự trị hoàn toàn Nepal tức là Phật Giáo Mật Tông, nhưng sự phục hưng Tăng già Nepal vẫn là sự phát triển của Phật giáo Nam Tông, đó là một điều chúng ta cần ghi nhận.

 

Các dư luận trên chuyến trở về của thiền sư Nhất Hạnh

 

TT Giác Đẳng: Chúng ta trở lại một vấn đề thời sự rất quen thuộc, nếu chính quyền Việt Nam thật sự muốn dùng sự trở về thăm quê hương của thiền sư Nhất Hạnh để tạo nên sự mâu thuẫn trong nội bộ Phật giáo thi` quả thật chính quyền Việt Nam đă có nhiều thành công đáng kể.  Ở tại hải ngoại, ngày hôm qua có một lá thơ của TT Thích Nguyên Lạc, một thành viên trong thành phần điều hành của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hải ngoại tại Canada, gửi cho giáo sư Vơ Văn Ái, Văn pho`ng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, với một số y' kiến bày tỏ bất đồng về những phản ứng của pho`ng thông tin đối với sự trở về của thiền sư Nhất Hạnh.  Và cũng có một số Phật tử xa gần trong đó có một số các vị Tăng Ni đă cảm thấy rằng dường như sự lên tiếng của pho`ng thông tin và một số tăng sĩ để phản bác những lời phát ngôn của cô Cao ngọc Phượng và chuyến trở về của thiền sư Nhất Hạnh đang bị lợi dụng bởi những người ngoại giáo và những phe cực đoan để nhằm có những mạ lị đối với Phật Giáo.  Quan niệm của một số người; đành rằng người ta không đồng y’ với sự trở về của thiền sư Nhất Hạnh, nhưng người ta không muốn rằng cũng trong dịp này những người có ác y’ sử dụng sự trở về đó như  một chỗ nhược để tấn công đập phá và mạ lỵ Phật giáo.  Một số người nói rằng họ rất đau lo`ng khi nhi`n thấy những forum như trên paltalk hay những tờ báo có những lời chửi bới rất thậm tệ đối với thiền sư Nhất Hạnh.  Và một vài tổ chức ngoại vi của chính quyền Việt Nam như tổ chức Giao Điểm Foundation tại California cũng đă có những bài phỏng vấn và có những lên tiếng để bắt đầu cải chính về một số dư luận chung quanh sự trở về của thiền sư Nhất Hạnh.  Phải mất rất nhiều ngày để chúng ta có thể biết được chuyến đi này có một ảnh hưởng sâu xa như thế nào trong cộng đồng Phật tử Việt Nam.

 

Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa quí Phật tử, Hoa Ky` là một quốc gia giàu có và bên cạnh sự giàu có đó, Hoa Ky` có một số tù nhân khổng lồ.  Một tỷ lệ cao, có thể nói cao nhất so với bất cứ quốc gia phát triển nào khác.  Với con số gần 300 triệu dân Hoa ky` thi` có 1.7 dân chúng bị giam  trong các nhà tù.  Bây giờ lại có một vấn đề nảy sanh ra từ đây,  trong số các tù nhân tại các nhà tù,  có một số là Phật tử và một số khác là những người phát tâm để tu tập theo Phật Giáo trong thời gian bị giam cầm cấm cố.  Dần dà người ta thấy được một nhu cầu làm sao tổ chức được một hệ thống liên lạc mà tại Hoa Ky` họ dùng chữ Sangha, mặc dầu tại Phương Đông và đặc biệt tại các quốc gia Phật giáo Nam Tông, chữ Sangha chỉ dành cho những người xuất gia, nhưng tại Hoa Ky` đôi lúc họ dùng chữ Sangha để chỉ cho một cộng đồng Phật tử.  Có một nhu cầu như vậy đang được đề ra và đă có những tổ chức hoặc lớn hoặc nhỏ cố gắng để xây dựng làm thế nào đáp ứng được nhu cầu tu học cho những người tù nhân đang mang niềm tin Phật giáo.  Chúng tôi xin mời qúi Ngài và quí vị nghe lời dịch của Sư Cô Liễu Pháp và lời đọc của Trí Đạt liên quan đến làm thế nào để chuyển hóa đời sống tâm linh và chuyển hóa xă hội.

 

CHUYỂN HÓA CUỘC ĐỜI TRONG TỪNG HƠI THỞ

của tác giả Bethany Saltman, Cô Liễu Pháp dịch



Nước Mỹ có tỷ lệ người bị tù cao nhất thế giới. Đầu năm 2004, Cục Thống Kê Công Lư cho biết có khoảng một triệu rưởi người đang bị giam giữ trong các nhà tù của tiểu bang và liên bang, và một số khác lại cho rằng con số đó có thể lên đến hai triệu cho đến hiện nay. Điều này có nghĩa là có khoảng 0.7% dân số Mỹ bị ở tù, so với con số 0.117% của Trung Quốc. Vào thời tổng thống Bush c̣n là Thống Đốc Bang Texas, tỷ lệ người bị tù của tiểu bang này là 1%. Xem ra, làm một tín đồ thiên chúa giáo sẽ rất có lợi v́ gần đây những chương tŕnh hoạt động của Thiên chúa giáo được tổng thống Bush ủng hộ đang phát triển mạnh. Chẳng hạn Hội Mục Sư Ái Hữu Trại Giam thành lập năm 1976 đang tăng dần thế lực. Chương tŕnh hoạt động của họ gồm cả việc hứa hẹn đem lại pizza, những cái ôm thân ái, việc dạy nghề và trên hết là sự cứu rỗi cho những tù nhân nào sẵn sàng ôm chúa Jesus vào ḷng, hay ít nhất nói rằng họ tin tưởng vào Chúa. C̣n những tù nhân khác th́ phải đấu tranh để có được thời gian, không gian và thậm chí được cho phép thực hành các tôn giáo khác.Năm 1980, một tù nhân ở Green Haven tỉnh Stormville viết thư cho ngài John Daido Loori, Trụ tŕ thiền viện núi Tremper thỉnh cầu ngài cấp cho anh ta giấy bảo lănh chứng nhận thiền tông là một tôn giáo được công nhận trong các nhà tù ở New York.


Sau nhiều năm, với sự can thiệp của toà án, Thiền tông Phật giáo được bang New York công nhận là một tôn giáo chính thức và cho phép thực hành trong các nhà tù. Và sau đó th́ Hội Tù Nhân Phật giáo Quốc gia được thành lập và điều hành bởi Đại Đức Geoffrey Shugen Arnold, một thiền sư và là tri sự của thiền viện Zen.Hội Tù Nhân Phật giáo Quốc gia là một tổ chức có tầm cỡ quốc gia cho những tù nhân quan tâm đến giáo lư thiền tông. Hội đă xuất bản nhiều cuốn sách hướng dẫn, giải thích những giáo lư cơ bản của thiền tông, phương pháp ngồi thiền, nghi lễ, và cách áp dụng lối sống đạo đức của Phật giáo, tất cả đều nhắm vào đối tượng là những người đang thực tập trong tù. Vào những ngày lễ Phật giáo, có nhiều người t́nh nguyện đến nhà tù để thăm hỏi, động viên, và tổ chức ngồi thiền tập thể. Mỗi tuần có khoảng 20 lá thư của các tù nhân thuộc Hội Tù Nhân Phật giáo Quốc gia gởi đến thiền viện, và tổng số mỗi năm có khoảng 1.000 lá thư. Mỗi lá thư đều được đích thân Đại Đức Arnold hay các đệ tử của ngài trong thiền viện trả lời. Có lá thư chỉ vỏn vẹn có ḍng chữ “Hăy giúp tôi, tôi đang đau khổ”. Cũng có những lá thư rất dài, chi tiết, với những mô tả đầy suy tư về cuộc sống của nhà tù, cuộc sồng trước khi bị tù, và diễn tả việc cố gắng thực tập sự tĩnh lặng của thiền trong một môi trường bạo động nhất trên thế giới khó khăn ra sao.Khi được hỏi về nội dung của các lá thư, Đại Đức Arnold cho biết có ba chủ đề lớn là quá khứ, hiện tại và tương lai. Và ngài nói một cách ngắn gọn rằng luật nhân quả nghiệp báo là cốt lỏi của Phật pháp, rằng ḿnh làm cái ǵ th́ ḿnh phải gánh chịu điều đó. Nhưng đây lại là viên thuốc đắng rất khó nuốt và khó tiêu hoá. Tuy nhiên, cho những phạm nhân muốn hoàn lương, điều này c̣n khẩn thiết hơn là cho nhiều người trong chúng ta. Những tù nhân thường hay đặt câu hỏi “V́ sao tôi phải ở đây, và v́ sao những người khác cũng phải ở đây.” Có tù nhân khi nghĩ đến tương lai sẽ được phóng thích, lại đặt một câu hỏi mà chúng ta không thể ngờ tới, là là làm sao tôi có thể rời nơi đây khi biết rằng những người khác vẫn phải tiếp tục chịu đau khổ ở đây?Bang New York hiện có 70.000 tù nhân. Bang này đứng đầu nước Mỹ về việc sử dụng chế độ biệt giam hà khắc, và trừng phạt tù nhân với chế độ ăn uống khổ sở chỉ có bánh ḿ, bắp cải sống và nước, và c̣n rất nhiều tệ nạn khác trong các nhà tù. Giữa t́nh huống phức tạp đáng buồn này Hội Tù Nhân Phật giáo Quốc gia là một phần của truyền thống Phật giáo lâu đời, đang lắng nghe tiếng nói của các tù nhân, và đang ra sức cải tạo nhà tù. Dù chỉ là những hoạt động riêng lẻ, và không thể ngày một ngày hai thay đổi được các vấn đề xă hội, nhưng bằng cách đem truyền thống Phật giáo lâu đời đến cho những người đang phải sống trong cơn ác mộng, họ đang giúp từng người, trong từng hơi thở, chuyển  hóa cuộc đời.

 

TT Giác Đẳng: Nam Hàn là một quốc gia phát triển rất mạnh về kỹ nghệ trong suốt thời gian qua, với một vùng đất nhỏ bé và có rất nhiều nhu cầu về phát triển hạ tầng cơ sở.  Trong suốt thời gian qua chính phủ và dân chúng Nam Hàn đă phải đối diện một vấn đề gay go, làm thế nào vừa mở rộng đường xá và đồng thời cũng bảo tồn được những di sản truyền thống về thiên nhiên về những công tri`nh văn hoá.  Khi chính phủ Nam Hàn quyết định xây dựng một đường xe, một đại lộ ngầm xuyên qua một ngọn núi, và ngọn núi này được xem như là một ngọn núi linh thiêng đối với Phật giáo Đại Hàn thi` đă có nhiều dư luận phản đối.  Nhưng sự phản đối mạnh mẽ nhất đang tạo cho nhiều sự chú y’ đối với dân chúng Nam Hàn ngày nay đó là một sư cô người Nam Hàn đă tuyệt thực kéo dài tới ngày thứ 100.  Hiện là một điểm nóng cho vấn đề.  Chúng ta hăy nghe bài dịch của Sư Cô Liễu Pháp với lời đọc của  Trí Đạt.

 

MỘT SƯ CÔ TUYỆT THỰC ĐỂ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

 

bài viết của Kim Hyun ở Seoul, lời dịch của Sư Cô Liễu Pháp

 


Ở Seoul, sư cô Jiyul 48 tuổi đang bước vào ngày tuyệt thực thứ 99 để phản đối việc làm đường hầm cho tàu tốc hành ở núi Cheonseong, phía nam tỉnh Gyeongsang. Hiện nay sư cô Jiyul chỉ uống nước sôi và ngậm muối ở trụ sở Hội Phật giáo Jungto ở Seoul. Cô thà chết chứ không chịu thoả hiệp vơi dự án xây dựng này. Các nhà môi trường học cho biết núi Cheonseong là nơi cư trú cho hơn 30 loài động vật đang có nguy cơ bị diệt chủng và của vùng đầm lầy đă có hàng ngàn năm. Núi này là nơi ở của những con kỳ nhông từng rất phổ biến ở các vùng núi của Hàn quốc, nhưng bây giờ đă dần dần biến mất sau khi các con đường mới được xây dựng gần đó. Ông Lee Heon-seok, đại diện cho hội công dân bảo vệ súc vật, một tổ chức năm ngoái đă kiện chính phủ về dự án xây dựng đường hầm cho biết, “Điều mà sư cô Jiyul và tất cả chúng tôi đ̣i hỏi trong suốt 3 năm nay là phải có một cuộc nghiên cứu tổng thể về ngọn núi, để biết bao nhiêu loại thú vật đang có nguy cơ bị diệt chủng ở đó và việc xây dựng này sẽ ảnh hưởng đến chúng như thế nào.”Họ yêu cầu Tổng thống Roh Moo-hyun giữ lời hứa của ông khi vận động tranh cử là sẽ xem xét lại từ đầu dự án xây dựng đường hầm, và xem xét lại những tác động môi trường của dự án đó. Ngọn núi này chỉ cách Busan, quê hương của tổng thống Roh có nửa tiếng lái xe.

Theo lời ông Lee, “Vấn đề ở đây không phải là thái độ quá cứng rắn của sư cô Jiyul, mà v́ tổng thống đă không giữ lời hứa và khiến cho một người phải liều mạng sống của ḿnh để đấu tranh.”Trong vụ kiện năm ngoái, do 240.000 người cùng kư đơn, toà án đă tuyên bố là dự án xây dựng đường hầm này không gây thiệt hại nào cả, và toà phúc thẩm cũng tán thành quyết định này. Bộ Môi trường cũng nói rằng Chính phủ sẽ không đ́nh chỉ dự án này, v́ một công tŕnh nghiên cứu suốt 2 năm qua của ngành đường sắt cho biết các loài động vật có nguy cơ bị tiệt chủng sống khá xa nơi người ta đào đường hầm. Vùng đầm lầy cũng cách đó 800m, đủ xa để không bị ảnh hưởng.

 

Ông Kim Chung-heung, nhân viên phụ trách bộ phận nghiên cứu ảnh hưởng môi trường cho biết “Kỹ thuật xây dựng được dùng để đào đường hầm là loại kỹ thuật có tính đến ảnh hưởng sinh thái. Nếu chính phủ có thể đ́nh chỉ dự án này th́ họ đă không để cho sư cô đó tuyệt thực cho đến mức nguy hiểm tính mạng như hiện nay.”Tuy nhiên Thủ tướng Lee Hae-chan tháng trước đă công nhận rằng dự án xây dựng đường tàu tốc hành là một thất bại của chính sách quốc gia, và ra lệnh cho văn pḥng của ông phân tích t́m hiểu nguyên nhân. Số hành khách hàng ngày không bằng một phần ba số hành khách mà người ta dự định là 220.000 ngươi/ngày. Các nhóm bảo vệ môi trường cho rằng không những dự án đường hầm ở núi Cheonseong mà ngay cả nhứng dự án ở các nơi khác cũng nên bị đ́nh chỉ, v́ càng nhiều tàu chạy th́ sự thâm hụt tài chánh càng cao.Sư cô Jiyul phát biểu trong một bài báo của cô rằng “Dân chúng theo dơi việc tuyệt thực của tôi và lo lắng về sức khoẻ của tôi, nhưng tốt hơn họ nên quan tâm về ngọn núi và những nỗi đau của nó. Tôi muốn hỏi họ rằng họ muốn chọn cái ǵ cho con cháu của họ - một đường hầm tối đen chỉ để rút ngắn chuyến đi của họ 10 phút, hay là một con đường núi yên tĩnh nơi họ có thể đi dạo trong không khí trong lành và những làn gió mát.”