Bản
tin ngày 01 tháng 02 năm 2005
Ng ài Ledi Sayadaw (29)
Ngài Ledi Sayadaw
sinh năm 1846 tại làng Saing-pyin, Xã Dipeyin, quận Shwebo
(thường gọi là quận Monywa) cuả miền
Bắc Miến Diện.
|
|
Khi đuợc
18 tuổi, Sa di Nana-dhaja cởi y và trở về
đời sốn g thế tục và sống như là
một thiện tín. Ngài đã
không thoả mãn việc học của Ngài vì cảm
thấy rằng quá hạn hẹp khi chỉ học Tam
Tạng kinh điển. Khoảng saú tháng sau, người
thầy đầu tiên và một vị thầy uyên thâm khác,
Ngài Myinhtin Sayadaw, đã gởi thư và cố găng'
thuyết phục Ngài trở về đời sống tu
viện; nhưng Ngài từ chối. Ngài Myinthtin Sayadaw
đề nghị rằng it' nhất Ngài cũng phải
tiếp tục việc học của Ngàị Vị Sadi
Nana-dhaja thông minh trẻ tuổi này, dưới sự
daỵ dỗ cuả Ngài Gandhama Sayadaw, đã uyên thâm bộ
Vệ Đà trong tám tháng và tiếp tục học Tam Tạng
Pali. Khi ngài đến tuổi 20, vào ngày 20 tháng 4 năm 1866,
ngài được xuất gia tỳ kheo vơi vi thầy
cũ là Ngài U Nandadhaja Sayadaw, vị Thầy tế
độ của Ngài.
Năm 1867,
trước lễ nhập hạ, tỳ kheo Nana-dhaja
rời thầy tế độ và quận Monywa nơi Ngài
sinh trưởng, để tiếp tục việc học
ở Mandalaỵ Trong thời gian đó, dưới
triều Vua Min Don Min trị vì từ năm 1853 đến
năm 1878, Mandalay là kinh đô của Miến Điện và
cũng là trung tâm văn hóa lớn nhất trong nuớc. Ngài
được học dưới sự hướng
dẫn của các vị sayadaw nổi tiếng cũng
như các học giả cư sĩ khác. Ngài thuờng
ở tu viện Maha Jotikarama và học với Ngài Kyaung
Sayadaw, một vị Thầy nổi danh ở Miến
Điện, người đã dịch Thanh Tịnh
Đạo (the Visuđhimagga) từ Pali ra tiếng Miến
Điện. Trong thời gian này, Ngài San-Kyaung Sayadaw
đưa ra một bài thi gồm 20 câu hỏi cho 2000 thí
sinh. Ngài Nana-dhaja là thí sinh duy nhất đã có thể trả
lời hoàn tòan đúng tất cả các câu hỏị
Những câu trả lơi của Ngài dược xuất
bản vào năm 1880, dưới tựa đề
Paramidipani (Chú Giải về các pháp Ba la mật) là quyển
sách đầu tiên trong số rất nhiều cuốn sách
được viết bằng Pali và tiếng Miến
của Ngài Ledi Sayadaw.
Trong thời
gian ngài học ở Mandalay, Đức Vua Min Don Min bảo
trợ kết tập Tam Tạng Pali lần thứ Năm
và kêu gọi tất cả các tỳ khưu ở tất cả
mọi nơi học thuộc lòng và hoàn chỉnh Tam
Tạng Pali. Cuộc kết tập được tổ
chức tại Mandaly năm 1871 và chánh văn của Tam
Tạng Pali đã được khắc trên 729 miếng
cẩm thạch và còn dựng cho đến ngày naỵ
Mỗi miếng cẩm thạch này đuợc dựng
trong một tháp nhỏ và tất cả 729 tháp nhỏ này
đuợc dựng quanh ngôi chùa bằng vàng Kuthodaw duới
chân ngọn đồi Mandalaỵ
Trong cuộc
kết tập này, Ngài Tỳ kheo Nana-dhaja soạn thảo và
phiên dịch tạng Abhidhamma. Sau tám năm xuất gia,
tỳ khưu Nana-dhaja chính thức là vị Thầy dạy
Pali taị Tu viện Maha-Jotikarama nơi mà Ngài đã
đuợc tu học. Quân đội Anh quốc chinh
phục phần trên nước Miến Diện vào năm
1885 và trục xuất Đức Vua ThiBaw là vị vua
cuối cùng của Miến Điện. Năm kế
tiếp là 1886, Tỳ kheo Nana-dhaja hành thiền trong khu
rừng Ledi, phía bắc Monywa. Sau đó, một số
tỳ kheo đi vào rừng và yêu cầu Ngài dạy
Thiền cho họ.
Một
Thiền viện được xây dựng tại đây
tên làThiền Viên Ledi-tawya. Từ Thiền viện này Ngài
đã được nổi tiếng với pháp danh là Ledi
Sayadaw. Theo truyền tụng thì một trong những lý do
chánh để Monywa đuợc phát triển thành một
thành phố lớn như ngày nay là nhờ rất nhiều
nguời đuợc lôi cuốn đến Thiền
viện của Ngài Ledi Sayadaw. Trong khi Ngài dạy cho các
đệ tử ham học tại Ledi tawya, Ngài tiếp
tục sống ẩn dật hành thiền trong một
cốc nhỏ bên kia sông.
Trong khoảng
hơn 10 năm ngụ tại Thiền viện Ledi Forest,
những tác phẩm khảo cưú của Ngài đã
được xuất bản. Quyển sách đầu tiên
là Paramattha-dipani (Chú Giải về pháp Chơn Đế),
đuợc xuất bản năm 1897. Quyển sách thứ
hai được xuất bản trong thời kỳ này là
quyển sách văn phạm Pali Nirutta-dipanị. Qua những quyển sách này, Ngài
được nổi danh là một một trong những
vị tỳ kheo bậc nhất tại Miến Diện.
Mặc dù chủ yếu sống tại tu viện Ledi, Ngài
cũng đã đi khắp Miến Điện, dạy hành
thiền và thuyết pháp. Thật sự ngài là một
hiện tượng rất hiếm hoi, xuất sắc
cả về pháp học lẫn pháp hành. Sau đó, Ngài
cũng viết rất nhiều quyển sách về Phật
Pháp bằng tiếng Miến. Ngài nói rằng Ngài muốn
viết theo một phuơng cách mà ngay cả người
nông dân ít kiến thức cũng có thể hiểu
được. Truớc Ngài, Giáo Pháp đã không đuợc
viết để cho thiện tín đuợc thông hiểu
dễ dàng. Ngay cả khi giảng dạy, chư tăng
thuờng đọc một đoạn kinh Pali dài và
dịch từng chũ một khiến cho nguời
thuờng khó có thể hiểu đuợc. Ắt hẳn
đây là sức mạnh của sự hiểu biết
thực tế và kết quả của Tâm Từ của
Ngài Ledi Sayadaw đã tràn đầy trong sự mong
ước của Ngài vào việc truyền bá Giáo pháp cho
tất cả các tầng lớp trong xã hộị
Quyển sách Paramattha-sankhepa, một quyển sách với 2000
bài thơ tiếng Miến dịch từ Abhidhammatthasangaha,
đã đuợc viết cho giới trẻ và vẫn còn
rất thông dụng đến ngày hôm nay.
Trong chuyến
đi du hành khắp nước, Ngài Ledi Sayadaw không tán thành
sự tiêu thụ thịt bò. Ngài viết một quyển
sách gọi là Gomamsa-matika kêu gọi mọi người
đừng giết bò để làm thực phẩm và
khuyến khích ăn chay. Trong thời gian này, Ngài U Po Thet là
nguời đã học Thiền Vipassana từ Ngài và đã
viếng thăm Ngài lần đầu tiên sau sự
khởi đầu của thế kỷ. Ngài U Po Thet về sau đã trở
thành một trong những vị Cư sĩ thiền sư
nổi tiếng của Miến điện và là thầy dạy
của Ngài Sayagyi U Ba Khin.
Ngài Sayagyi U Ba
Khin là thầy dạy của Ngài Goenkaji.Đến năm
1911, danh tiếng của Ngài Ledi Sayadaw về cả Pháp
học và Pháp hành đã được lan rộng
đến một mức độ mà Chính phủ Anh
quốc của Ấn độ, và cũng là Chính phủ
của Miến điện, đã trao cho Ngài danh hiệu
Aggamaha-Pandita (Vị học giả cao quý và vĩ
đại nhất). Ngài cũng đã được phong
thuởng bằng Tiến Sĩ Văn Chuơng (Doctorate of
Literature) của đại học Rangoon. Trong suốt
những năm 1913 đến năm 1917 Ngài đã có liên
lạc với Bà Rhys-Davis của Hội Pali Text ở Luân
đôn, và bản dịch của những bài thảo
luận của Ngài về những điểm trong Abhidhamma
đã đuợc xuất bản trong tờ tạp chí
của Hội Pali Text.
Trong những
năm cuối cùng của đời Ngài, thị lực
của Ngài bắt đầu kém dần vì những năm
Ngài đã phải đọc, học và viết trong
điều kiện thiếu ánh sáng. Đến tuổi 73,
Ngài bị mù nhưng Ngài vẫn tận tụy dành những
năm còn lại trong đời để chuyên về hành
thiền và dạy thiền. Ngài viên tịch năm 1923
thọ 77 tuổi tại Pyinmana, giữa Mandalay va Rangoon,
một trong những tu viện sáng lập trong Pháp danh
của Ngài như là kết quả của những
chuyến du hành và truyền bá giáo lý khắp nước Miến
Điện.
Ngài Ledi Sayadaw
có lẽ là hình ảnh của một nhân vật nổi danh
nhất của Phật giáo trong thời của Ngàị
Tất cả những nguời đã và đang buớc vào
con đuờng của Giáo pháp trong những năm gần
đây đều mang một món nợ vĩ đại
về lòng biết ơn với vị học giả Thánh
Tăng nàỵ Ngài Ledi Sayadaw đã góp phần vào việc làm
sống lại truyền thống thực hành Thiền Minh
Sát (Vipassana) và làm cho Thiền Minh Sát dễ tiếp cận
hơn cho nguời xuất gia cũng như cho hàng tại
gia cư sĩ. Ngoài ra, sự vắn tắt, rõ ràng và uyên
thâm thông thái trong các tác phẩm của Ngài đã làm sáng
tỏ thêm phuơng diện thực nghiệm của Giáo
pháp.
(Tinh Tấn dịch)
(30) Các Nhà
Sư Nhật Bản Giúp ĐỡXây Dựng Và Sữa
Chưã Lại Chùa Chiền Tại TíchLan.
Theo tờ Tin Tức Hàng Ngày ( Daily News) ,phóng viên Malmi
Sellahannadi.
Khoãng 79 ngôi chùa đã bị tàn phá vàthiệt hại nặng
nề bởi thảm họa sóng thần Tsunami. Theo lơì
tuyên bố của ViệnTrưởng Phật giáo Sasana,
ngài Ratnasiri Wickremanayake vào ngaỳ thứ sáu, ngày 28 năm
2005.
|
|
Những đại diện của viện Phật Giáo
Sasana và Tổng lảnh sự quánNhật Bản sẽ cùng
nhau hổ trợ và kết hợp để xây dựng
lại những ngôi chuà bị tàn phá bơỉ thảm
họa sóng thần Tsunami , theolơì Đại Đức
Otani Thera.
( DươngTiêu dịch)-LieuPhap hieu dinh-
(31)Tích Lan
nhận “những món quà tặngđặc biệt” từ
Thai Lan sau thãm họa sóng thầnTsunami.
Theo tờ PK balachanđdran Colombo, ngày 29tháng 1 năm 2005.
Những người dân Tích Lan tại quận ven biễn
Batticaloa đã bắt đầu thờ phụng 2
đền thờ của 2 nhà sư Thái Lan đã bị
cơn sóng thần Tsunami cuốn ra đại dưong
nhưng lại trôi dạt trở lại vào bờ biển
ngày 26 tháng 12 năm 2004.
Hai đền thờ tuy nhỏ và nặng nề này đã
bị cuốn ra đại dương tại Vaharai, khu
vực đang bị khống chế bởi nhóm phiến
loại cực đoan Hôì giáo Tamil, gọt tắt là LTTE, và
tại Mankerni, khu vực dưới sự kiểm soát
của quân đội chínhphủ Tích Lan.
“Đền thờ tại Mankerni thờ 1tượng
Phật, 1 chiếc giường cỗ nhỏ, 1 cái
gối, và 1 vài vật quý giá linh thiêng màu vàng được
gọi là (Nool),” theo lời 1 cư dân tại quận
Batticaloa tường thuật với tờ báo Hindustan Times.
Cũng theo lời cư dân này “Đền thờ này bây
giờ đã trở thành vật thờ phụng và là biễu
tượng tôn giáo cho những người dân Hồi
giáoTamils và quân đội theo Phật giáo của chính
phủ Tích Lan ở những vùng lân cận, 1 nhà sư
từ Batticaloa đã đến viếng thăm ngôi
đền thờ này nhằm quan sát coi ngôi đền có
thễ đủ điều kiện đễ trở
thành vật thờ phụng đúng nghiã tôn giáo hay không.
Tương tự tại Vaharai, dân chúng tại đây
đã bắt đầu thờ phụng ngôi đền
thờ trôi dạt từ biển vào này , theo lời
Thống Đốc vùng Vaharai, ông M.Uthaya Kurma. Ngôi
đền thờ này còn mang theo 1 lá cờ Phật giáo.
“Ngôi đền thờ mang sắc thái truyền thống
của Nepal và Thai Lan, có thể trôi dạt từ vùng
biển Thai Lan , tại những nơi cũng bị
ảnh hưởng cuả thãm họa sóng thần Tsunami”
theo lời ông Uthaya Kumar.
(DươngTiêu dịch)- LieuPhap Hieu Dinh