Bản
tin ngày 26 tháng 01 năm 2005
TT
Giác Đẳng: Từ chùa Pháp Luân, thành phố
Houston, Taxas Hoa ky`. Xin gửi
đến qúi Ngài và qúi Phật tử bản tin Phật sự
trong ngày.
Chuyến đi Việt
Nam của thiền sư Nhất Hạnh tiếp tục tạo
nên những căn thẳng và không kể những dư luận
ở ngoài nước, những gi` xảy ra hai hôm qua tại
Việt Nam, đă cho thấy rằng chính quyền Việt
Nam đă đặc biệt thành công trong việc sử dụng
chuyến đi này để tạo thêm những mâu thuẫn
trong nội bộ Phật giáo.
HT. Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện
Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
tại Thanh Minh Thiền Viện đă từ chối không
tiếp HT Nhất Hạnh. Với
ly' do là HT đă bị công an quản thúc hạn chế không
tiếp xúc khách bên ngoài.
Nhưng qua đó HT muốn gửi cho phái đoàn Làng
Mai một thông điệp rằng: Sự việc Chư
Tôn Giáo Phật ở trong nước đặc biệt là
Chư Tôn Giáo Phẩm thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất đang ở trong điều kiện bị
quản chế làm khó dễ từ phía chính quyền, không phải
đơn giản như là một số các vị trong phái
đoàn nghĩ.
Tại quán Hương
Già Lam, TT Tuệ Sĩ, một trong bốn vị Phó Viện
Trưởng Viện Đạo không tiếp HT Nhất Hạnh
vi` ly' do đang nhập thất.
Nhưng HT Nhất Hạnh có chừng 40 phút để
nói chuyện với HT Tri Quang.
Mặc dù ngày nay HT Tri Quang không giữ bất cứ
vai tro` gi` ở trong Hội Đồng Lưỡng Viện
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
nhưng người ta vẫn tin rằng HT là một trong
những tiếng nói rất ảnh hưởng đến
một số các vị Chư Tăng trong Giáo Hội, đặc
biệt là Chư Tăng tại chùa Già Lam. Đă có những lời nói ra vào
1;38 về cung cách tiếp đón thiền sư Nhất Hạnh
vị trụ tri` của Quản Hương Già Lam đă có
lúc phát biểu rằng, nếu giáo hội nhà nước cũng
như về phía phái đoàn Làng Mai muốn có một cuộc
tiếp đón trọng thể dành cho thiền sư Nhất
Hạnh thi` mai mốt chùa Già Lam sẽ có một sự tiếp
kiến với tư cách trọng thể như vậy dành
cho HT Thích Quảng Đô, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
khi Ngài đến thăm chùa Gia Lam, và kết cục thi`
người ta chọn sự gặp gỡ tiếp xúc
tương đối là nhẹ nhàng, không có nhiều hi`nh
thức bên ngoài.
Thiền sư Nhất
Hạnh cũng nói thêm rằng trong chuyến đi về Việt
Nam đă gây ra nhiều câu hỏi ở trong đó một số
ky’ giả ngoại quốc hỏi, “liệu rằng chính
quyền HàNội có dùng sự trở về của thiền
sư Nhất Hạnh như là một công cụ tuyên truyền
không”, thiền sư Nhất Hạnh đă từng trả
lời rằng, “Nếu có thi` chuyện đó cũng không
sao” thiền sư muốn lắng nghe từ mọi phía, và
nếu có bị trách cứ thi` cũng không hề gi`. Mặc dù đă có những lời
tuyên bố là sự thăm viếng của phái đoàn không
liên quan đến chính trị, thế nhưng một số
câu phát biểu của sư cô Chân không, người phụ
tá đặc biệt mật thiết của thiền
sư Nhất Hạnh đă tạo
nên những phản ứng rất mạnh mẽ từ
phía cộng đồng người Việt. Và dĩ nhiên sự trở về
của thiền sư Nhất Hạnh cho đến hôm nay
được xem như là một trong những điều
chính quyền Việt Nam tận dụng tối đa để
nói với thế giới rằng trong nước vẫn
có tự do tín ngưỡng và các tôn giáo không hề bị
đàn áp.
Kính bạch Chư Tôn Đức
và thưa qúi vị, trong lúc đó tại Tích Lan theo một
bản tin được đăng trên tờ báo từ Tích Lan. Chư Tăng Tích Lan
đang bắt đầu để phối hợp với
các tổ chức khi chính phủ làm công việc là làm thế
nào mà đưa những phái đoàn cứu trợ, những
nỗ lực cứu trợ về những nơi ít có sự
quan tâm của chính quyền. Với
một miền duyên hải kéo dài từ bắc xuống
nam, tất cả đều bị ảnh hưởng trầm
trọng trong nạn song thần vừa qua, chính phủ Tích
Lan đă tập trú vào một số các thành phố lớn
những nơi dân cư đông đảo. Trong lúc đó thi` những làng mạc
dọc theo miền biển ở những nơi
tương đối hẹp lánh thi` đôi lúc bị quên
lăng hoặc giả là nhận một số rất ít sự
quan tâm cứu trợ của chính quyền. Chư Tăng tại Tích Lan cho biết
rằng lại có một nỗ lực khác nhằm thay
đổi điều này và phải
nói rằng những nơi hẻo lánh nghèo khổ thi` dân
chúng tại đây đă chịu đựng rất nhiều
trong suốt ba tuần lễ vừa qua trước sự
đổ nát do thiên tai mang lại đồng thời bị
bỏ vào trong quên lăng. Và cũng
theo lời phát biểu của HT Sumatra nguời lănh đạo
chương tri`nh vận động này là Chư Tăng
Tích Lan phải nói lên được sự quan tâm toàn diện
của Tăng Già đối với tất cả những
người Tích Lan dù là Phật tử hay không phải Phật
tử trước một tai ương có thể nói rằng
lớn nhất trong lịch sử của Tích Lan từ
trước tới giờ khi nói về thiên tai.
Kính bạch Chư Tôn Đức và
thưa những công tŕnh xây dựng chùa chiền bảo tháp
để thờ phượng Đức Phật và xem
như là một biểu tượng của Phật Giáo,
tuy là mang tính hi`nh thức, nhưng ở một
phương diện nào đó có một ảnh hưởng
rất lớn đối với đời sống tâm linh
và nói lên sự có mặt ở trong xă hội. Người Nhật Bản trong
nhiều năm qua đă bỏ ra rất nhiều tiền
xây dựng những pho tượng Phật lớn, để
người ta đi làm về trên đường có thể
nhi`n thấy hi`nh ảnh Đức Phật từ xa, và tại
Trung quốc, Thái Lan và nhiều quốc gia khác nữa những
tượng Phật lộ thiên và những ngôi tháp có thể
nói rằng càng lúc người ta xây cất càng nhiều. Riêng tại Singapore một quốc
gia nhỏ bé nằm dưới bán đảo Mă Lai, tại
đây những người Phật tử đang cố gắng
xây dựng một công tri`nh thờ xá lợi Phật, công
tri`nh này có thể xem là một trong những công tri`nh tốn
kém nhất từ trước
đến giờ trong lịch sử xây dựng chùa
tháp tại Sngapore kính mời qúi Ngài và qúi vị nghe bản
dịch của Liễu Pháp qua lời tri`nh bày của Tâm Thinh.
bản số 12) Phố Tàu
(Chinatown) ở Singapore sẽ xây một ngôi chùa trị giá 53
triệu dollars để thờ xá lợi răng của
Đức Phật (Liễu Pháp dịch)
Theo tờ World News ra ngày 23
tháng 1 năm 2005 ở Singapore, phố Tàu ở Singapore
đă bắt đầu dự án xây dựng một ngôi chùa
trị giá 53 triệu đô la để thờ xá lợi
răng của đức Phật. Ngôi chùa ở trên
đường Sago, và sẽ khởi công vào tháng 3 sắp tới.
|
Theo một bản tin trong tờ
The Straits Times, ngôi chùa sẽ có 10.000 tượng Phật,
trong đó có một tượng Phật Di Lặc cao 6 mét,
và toàn bộ Tam Tạng. Xá lợi răng sẽ
được thờ trong một ngôi tháp bằng vàng h́nh
ṿm cao 2 mét. Ngôi chùa cao 5 tầng, trong đó có 3 tầng hầm
và một tầng lửng. Chùa dự định sẽ xây
xong trong 2 năm, và sẽ có một viện bảo tàng sáp,
và một khu ăn uống. TT Pháp Giáo, vị trụ tŕ của chùa, nói rằng ông hy vọng
ngôi chùa sẽ tiếp thêm sinh lực cho phố Tàu, trong khi
Tổng Cục Du Lịch của Singapore tin rằng dự
án này sẽ thu hút thêm những du khách quan tâm đến Phật
giáo. |
Ông Nhất Giang Huy, 50 tuổi,
phó giám đốc điều hành của ngôi chùa đang
được xây dựng cho phóng viên tờ The Straits Times
biết rằng việc đấu thầu để xây dựng
công tŕnh sẽ bắt đầu vào ngày thứ Hai, 24 tháng 1
và chấm dứt ngày 18 tháng 2. Lễ đặt đá dự
định vào ngày 13 tháng 3. Tuy nhiên, ông Nhất không cho biết
mảnh đất rộng 2.600 mét vuông trị giá bao nhiêu.
Ông nói rằng chi phí cho dự án được kêu gọi bằng
cách cho người ta nhận tài trợ từng phần của
ngôi chùa. Chẳng hạn, người ta có thể nhận
tài trợ cho100 tượng Phật cao 90 cm, mỗi tượng
trị giá 100.000 đô la, mỗi viên ngói 50 đô la, và mỗi
viên gạch 10 đô la. Ban điều hành của chùa cũng
quyên góp vàng, như dây chuyền, nhẫn, ṿng đeo tay,
để nấu chảy và đúc tháp thờ xá lợi. Cần
có 250 kư vàng để thực hiện công tŕnh này và hiện
giờ người ta đă cúng dường được
60 kư vàng. Cho đến nay đă quyên góp được ít nhất
là 10 triệu đô la để xây chùa. (Liễu Pháp dịch)
TT Giác Đẳng Trong lúc những công tri`nh phát triển Phật Giáo tại phương Tây đặc biệt là Âu Châu Hoa ky` và Úc Đại Lợi thường được nói đến qua những tổ chức những cơ sở và đặc biệt là việc in ấn các tác phẩm Phật Giáo. Măi cho đến cuối thế kỷ 20 chúng ta mới bắt đầu nghe được một khái niệm mới về sự phát triển Phật Giáo tại Tây phương đó là tổ chức Tăng già. Đúng ra thi` sự tồn tại của Phật Giáo là sự tồn tại của Tăng lữ, bởi vi` chính sự có mặt của giáo đoàn Tăng lữ mới nói lên một sự tồn tại tiêu chuẩn mà đúng theo luật mà Đức Phật đă truyền dạy, và chúng ta có thể nói rằng một trong những hi`nh thành đặc biệt vô cùng quan trọng của Phật giáo tại Tây phương hay là chúng ta nói chung ở trong thế giới nói tiếng Anh, thi` ở đó phải nói đến sự hi`nh thành của Tăng đoàn Amaravati. Chúng tôi xin mời qúi Ngài và quí vị nghe phần dịch thuật và tri`n h bày của Trí Đạt.
Số 13) Tu viện
Phật Giáo Amaravati (Trí Đạt dịch)
Amaravati là một thiền viện theo
truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, và là một
trung tâm của pháp học và pháp hành. Trọng tâm của thiền
viện là tập thể tăng ni, ở nơi đây việc
hành thiền và làm việc được mở rộng ra
cho mọi người đến viếng thăm để
chia xẽ lối sống đạo của người Phật
tử.
|
"Amaravati" có nghĩa là " cảnh
gio*'i bất tử" theo
ngôn ngữ của kinh tạng Pali, một lời nhắc nhỡ đạt
tới đạo quả tâm linh cao
thượng nhất. Có rất nhiều phương thức
thực hành trong đạo Phật. Đạo Phật bắt
nguồn từ đức Phật lịch sử, do thái
tư? Siđhartha Gotama đi tu thành đạo, và Ngài đă
đi hoằng pháp ở miền bắc Ấn độ
cách nay trên 2500 năm. Tăng đoàn đầu tiên do đức
Phật thành lập và hướng dẫn tu tập luôn được phát triển tiếp
nối cho đến ngày hôm
nay bằng nếp sống trí
tuệ, và tỉnh thức. |
Trong suốt bao thế kỹ, Phật
pháp, The Buđha Dhamma, đă lan rộng ra từ Ấn Độ
đi khắp nơi trên thế giới. Tùy duyên mà đạo
Phật đă thể nhập vào những nền văn hóa
địa phương.
Ngày hôm nay người ta có thể kể
đến 3 tông phái chính trong đạo Phật, đó là :
Thu*' nhất là Phật giáo Nguyên Thủy Theravada, c̣n gọi
là Thượng Tọa Bộ "Lời dạy của những
bậc trưởng thượng". Theravada đă và
đang phát triển mạnh tại Tích Lan, Campuchia, Miến
Điện, và Thái Lan. Phật giáo Nguyên Thủy cũng c̣n
được gọi là Phật
giáo Nam Tông.
Tông phái thứ hai của đạo Phật
là Mahayana, tức là "Cổ xe lớn", dịch sang tiếng
Hán Việt là "Đại Thừa", hay c̣n gọi là
Phật giáo Bắc Tông. Tông phái này phát triển mạnh mẽ
tại Trung Quốc, Đại Hàn, và Nhật Bản
vo"i nhu*~ng truyền thống văn hoá và tập tục
khác nhau.
Tông phái thứ ba là Vajrayana, tức là
"Kim Cương Thừa", cổ xe kim cương,
được phát triển mạnh tại Tây Tạng. Dù
theo bất cứ tông phái nào th́ Tứ Diệu Đế vẫn
là nền tảng căn bản của giáo lư nhà Phật. Tứ
Diệu Đế là chân lư dẫn tới sự chấm dứt
khổ đau. Đây cũng là chân lư khi quay về
nương tựa nơi Tam Bảo.
thiền viện Amaravati ở Thái Lan
đă được sự hổ trợ của nhiều
vị cao tăng nổi tiếng. Một trong quí vị cao
tăng là ngài Luang Por Chah, nổi tiếng với hạnh của
một vị tăng tu trong rừng. Nhằm mục
đích hổ trợ cho tăng đoàn trong tu viện ở
Anh Quốc, Hội Tăng Già Anh Quốc thành lập năm
1956, đă cung thỉnh ngài
Luang Por Chah đến Anh Quốc vào năm 1977. Ngài Luang Por
Chah đă mang về nước Anh một đệ tử
lớn của Ngài là Sư Ajahn Sumedho, một vị tỳ
kheo người tây phương đă tu học hơn 10
năm với ngài. V́ cảm nhận tâm nhiệt thành cầu
pháp của người Tây Phương trong chuyến viếng
thăm này, Thiền sư Luang Por Chah đă cho phép Sư
Ajahn Sumedho, cùng 3 vị tỳ kheo khác ở lại Anh Quốc
nơi trụ sơ? Giáo Hội Tăng Già tại Hampstead,
London, và bắt đầu công cuộc hoằng pháp.
Không bao lâu th́ đă đến lúc cần
t́m một nơi rộng răi thích hợp hơn để
xây cất thiền viện. Vào mùa hè năm 1978, một
đại thí chủ đă phát tâm tặng Giáo Hội 108 mẫu
đất trong rừng Hammer Wood, tại West Sussex. Năm
1979, Giáo hội đă bán ngôi chùa Hampstead để mua
Chithusrst House cách khu rừng nói trên nửa dậm. Một
thí chủ khác phát tâm mua một ngôi nhà nhỏ cạnh bên
Hammer Wood để làm tu viện đào tạo ni sinh lần
đầu tiên tại Anh Quốc. Những công tŕnh này
đă h́nh thành một khu Tu Viện Trong Ru*`ng đầu tiên
tại Anh Quốc, mang tên là Cittaviveka, Chithurst Buđhist
Monastery.
Qua năm tháng, tăng chúng cứ phát triển
dần dần, đều đặn, và cho đến giữa
năm 1983, thiền viện Cittavevika trở nên quá chật
hẹp. V́ vậy Giáo Hội Phật Giáo Anh đă mua lại
khu đất trước kia là một trường học
gần Hemel Hemstead và cải tạo thành Thiền Viện
Amaravati. Khu đất rộng răi với nhiều toà nhà và
sân rộng là điều kiện tu học rất tốt
cho tăng chúng và cũng thuận tiện cho các Phật tử
đến hành thiền. Bây giờ th́ thiền viện
đă có đủ cơ sở vật chất để có
thể tổ chức các khoá thiền dài hạn, có chỗ
tạm trú cho khách, tố chức các khoá tu định kỳ,
lễ lượt và thậm chí mở các hội nghị có
tầm cỡ vào các ngày lễ Phật giáo.
TT Giác Đẳng:
Trong lúc người ta nói nhiều về Nepal, nơi có thánh
địa Lâm Ty` Ni Đức Thế Tôn đă ra đời
tại đây, theo lịch sử ghi nhận như vậy
và kể cả trụ đá của vua A Dục đánh dấu
nơi ra đời của Đức Phật. Người ta lại nói đến
một số khía cạnh khác của đất nước
Nepal, ở trong đó có ngọn Everst là một trong những
đỉnh núi cao nhất thế giới, phân chia vùng đất
Nepal và Trung quốc. Người
ta cũng nói đến những phiến quân Maoist, những
phiến quân đă gây ra bao nhiêu tử vong tại đất
nước Nepal. Tất nhiên
người ta cũng nói đến thung lũng Kàthmàndu, chiến
nôi của nền văn hoá Nepal, ở đó có rất nhiều
tranh thanka, những pho tượng và những ngôi chùa với
đường nét rất Nepal và rất lạ. Thế nhưng người ta ít
nói đến một sự việc là sự phục
hưng của Tăng Già tại Nepal ra sao, có thể nói rằng
trong nhiều thế kỷ những người Nepal chỉ
co`n biết đến đạo Phật bằng những
ngôi chùa, bằng những pho tượng và những hi`nh vẽ
ở trên tường, trong lúc đó thi` thiếu vắng
hoàn toàn hoặc sự có mặt ... ngày hôm nay chúng ta sẽ
trở về lại Nepal để đọc lại một
chút lịch sử cận đại về nỗ lực
hi`nh thành Tăng đoàn ở tại Nepal của một vị
Danh Tăng vị đó cũng có nhiều liên hệ đến
Việt Nam chúng ta. Kính mời
Chư Tôn Đức và Phật tử nghe bản dịch của
Dương Tiêu qua phần tri`nh bày của Liễu Pháp
Tin Số 14:
Phật Giáo Nam Tông tại Nepal viết bởi
Kondanya, Sanharam
Theo tài liệu
lịch sữ lưu giữ ở Nepal, sau khi xă hội bị
thống trị dưới thớ vua Jayasthiti Malla, đạo
phật trên đà tàn phá và huỹ diệt. Tỳ kheo Mahaprajna, sinh ra trong một
gia đ́nh Bà La Môn, sau đó trở tha`nh ngưó đầu
tiên quy y và thọ giới tử vào năm 1924 bởI một
nhà sư Tây Tạng nổi tiếng, tỳ kheo Tsering Norbu ở
Kathmandu. Suốt cuối thớ kỳ thủ tướng Chandra Shamsher
Jung Bahadur Rana, Luật lệ của Nepal cực kỳ
nghiêm cấm
sự đỗi đạo và niềm
tin. Tỳ kheo Mahaprajna đă bị trục xuất ra khỏi
Nepal cùng vơí bốn tu sĩ tây tạng. khác. Tỳ kheo
Mahaprajna sau khi bị trục xuất đă trỡ thành một
nhà sư Nam Tông vào năm 1928 tại Kushinara với hoà
thượng U.Chandra Mani Mahathera ngườI Miến Điện.
va` sau đó tỳ kheo. Bhikshu Mahaprajna Thera, mợt nhà sư
ngườI epal đầu tiên trong thớ kỳ hiện
đại.
Đây là
thớ điễm thịnh hành cho các nhà sư và ni cô của
nền Phật Giáo Nguyên Thủy. Vị tỳ kheo đầu
tiên xuất hiện trên đuờng phố của Kathmandu
vào năm 1930, đó là tỳ kheo Bhikshu Prajnananda. Sau đó
Praijnananda, Subodhananda, Buđaghosh trỡ thành nhà sư luôn.
Tưong tự như vậy, Ratnapali, Dharmapali và Sanghapali
đă xuất hiện như là những nữ tu sĩ Phật
Giáo đầu tiên .
Vào năm
1943, tỳ kheo Dhammalok thành lập thiền viện Anandakuti
Vihara tọa lạc tạI phía tây của Swayambhu Hill gần
KTM. Đây là Thiền Viện Nam Tông đầu tiên trong thó
kỳ hiện đạI cũa Nepal. V́ theo lịch sữ
cuă thiền viện Anandakuti Vihara, Ḥa Thượng Narada
Mahathera mang xá lợI Đức Phật cùng vớI cành cây của
cây Bồ Đề năm xưa Đức Phật thành
đa.o từ Anuradhapur, Tích
Lan. Những xá lợI Phật đó đă bị đánh cắp
một vài năm về trước và được thay
thế những xá lợI khác từ Tích Lan.
Vào năm
1994, Thủ Tướng Juđha Shamsher J.B Rana đă triệu
tập 8 nhà sư sống tạI KTM lúc đó là tỳ kheo
Bhikshus Prajnananda, Dhammaloka, Subodhananda, Prajnarashmi và Samaneras
Prajnarasa, Ratnajyoti, Aggdhamma, ngài Kumar ( Chủ tịch cũa tất
că hộI đoàn ỡ Nepal đă hạ lệnh cho tất
că phật tữ thờ phụng giáo pháp cũa Đức
Phật. Nhưng các nhà sư đă từ chốI một
cách thẵng thừng. Chính v́ thế, vị thũ tướng
đương thờI nghiêm ngặt ra lệnh các nhà sư
naỳ rờI khơi đất nước trong ṿng 3 ngày.
Trong thớ điễm này, tỳ kheo Amritananda đang ơ
Saranath , Ấn Độ.
Tất că
đến Saranath từ Nepal
thành lập một nhóm xă hộI Phật Giáo đầu
tiên cuă Nepal gọI là “Dharmodaya Sabha” dướI sự điều
hành cũa Hoà Thượng
U.Chandra Muni Mahathera. Nhóm xă hộI vẫn c̣n tồn tạI
và là môt tỗ chức phật giáo lớn nhất trên thế
giới. ĐạI hộI Phật Giáo thế giơí lần
thứ 4 và lần thứ 15 đă được tỗ chức
tạI KTM và đă 5 lần tổ chức Quốc hộI
Phật giáo toàn quốc trong nhiều vùng khác nhau cũa
Nepal.
Tỳ kheo
kiêm bác sĩ Amritananda là h́nh tượng lư tưỡng mẫu
mực của Phật Giáo Nam Tông ỡ Nepal. Hoà thượng
là 1 học giă Phật Giáo xuất sắc đă viết nhiều
Tác phẫm xuất sắc cho Phật Giáo. Ngài c̣n là một
Nhà Sư nổI tiếng của quốc tế. Ngài là 1 bực
thánh nhân và cũng là 1 h́nh ảnh tiêu biễu cũa Phật
Giáo Thế Giới. Trong thờI ngài c̣n sống, vào tháng
tư 1946, ngài đă hành hương sang Nepal nhằm truyền
đạo từ Tích Lan ( Ḥa Thượng Naranda Mahathera lúc
đó đang là thượng thũ. Cuộc truyền giáo
chĩ đuợc phép thăm những di tích Phật Giáo
nhưng không đuợc phép truyền giáo và lien lạc vớI
các nhà sư khác. VớI sự giúp đơ cũa tỳ kheo
Amritananda, đoàn đạI biễu Phật Giáo Tích Lan
đă gặp Thủ Tứơng Padma Shamsher J.B. Rana và vị
thủ tướng này đă cho phép tỳ kheo Dhammalok cũng
như các nhà sư khác được phép trỡ về
Nepal.
Và sau đó
giáo hộI phật giáo thống nhất Nepal ( ALL NEPAL BHIKKU
ASSOCIATION) đuợc sáng lập bởI tỳ kheo kiêm bác sĩ
Amritananda, tạI Anandakuti Vihara vào năm 1951. vào thờI gian
đó trụ sỡ ANBA đuợc đặt tạI Vishwa
Shanti Vihara tạI New Baneshwar-Min Bhavan, Kathmandu. Vào thớ
điễm đó có sự hiện diện cuả 18 vị
tỳ kheo Nam Tông trong thung lũng KTM và 55 bên ngoài thung lũng.
Chĩ có 4 thiền viện cao
cấp tột bực như Thiền viện Anandkuti
Vihara-Swayambhu, Sumangala Vihara-Lalitpur, trung tâm phật giáo thiền
định quốc tế Shankhamul và Nagar mandapa Srikêerti
Vihara Kêertipur.
Nepal có khoăng
140 nhà sư Nam Tông, vị lớn tuỗI nhất là ĐạI
lăo Ḥa thượng Aniruđdha Mahathera 83 tuỗI, và 60
thượng toạ. Những vị cao niên kế tiếp
bao gồm: Thượng toạ Subodhananda, Buđdaghost,
Chunda, Ashwaghost, Kumar Kashyapa vân vân…
Có 120 tỳ
kheo ni, vi. Ni cao niên nhất là Sư Bà Sushila, Sư bà
đương kiêm là trụ tŕ chuà của nữ thiền
viện Dhammavati. Ngoài ra c̣n có Ni sư Dhammavati là phó chủ tịch
cũa HộI tăng ni toàn quốc Ni tạI Nepal. Có vào
khoăng 50 nhà sư và tỳ kheo ni đang học tạI Tích
Lan, Miến Điện, ThaiLand,
Đài Loan, Anh quốc, Và Hoa Kỳ. Phần lớn những
nghiên cứ sinh lâu năm tốt nghiệp từ TíchLan và Miến
Điện.
Tỳ kheo
Aswaghosh, Jnanapurnika, sudarshan và tỳ kheo ni Dhammavati là những
h́nh ảnh biểu tượng cho phật giáo Nepal hiện
nay.
Tỳ kheo
Ashwaghost là 1 học giă và tiếng noí ảnh hưởng sâu
đậm tạI Nepal. Ngài là thành viên của thượng
nghị viện Nepal và là phó chủ tịch của trung tâm
phát triễn Lâm Tỳ Ni. Ông ta thành lập trường phật
học Bhikshu tạI Chhetrapati – Dhalko, tạI KTM. Đó là
trung tâm đào tạo tăng ni đầu tiên tạI Nepal.
thiền viện mớI xây dựng mớI nhất là thiền
viện Vihara rất hấp dẫn và hiên đạI xây dựng
bởI Mă Lai Á, Tân Gia Ban vớI sự hợp tác cũa 1 số
ngườI Nepal. Thiền Viện naỳ được
trụ tŕ bỡI Tỳ kheo Jnapurnika. Gần đây, vị
tỳ kheo này trường đào tạo phật giáo cho những
vị sư nhơ tuỗI (15) bao gồm că 2 vị nữ tu sĩ
đang học tạI đây đặc biệt vệ Phật
Giáo. Các nghiên cứu sinh này cũng là sinh viên của các
trường công lập.
Tỳ kheo
kiêm giáo sư Bhikshu Sudarshan là 1 học giă nổI tiếng về
lư luận và thuyết giăng. Ngài là 1 nhà văn học, Lịch
Sữ và khảo cỗ học. Ngài là giáo sư cũa
trường đạI học tribhuvan. Ngài là 1 trong những
vi tăng nỗI bật tạI Nepal. NổI tiếng nhất
là sự băo quạn và phát huy ngôi chùa Nagara Mandapa Sri Kêerti
Vihara. Ngôi chuà mang h́nh sắc Thái Lan đuợc xây dựng bỡI
sự quyên góp cũa các phật tữ ThaiLan và Nepal.Tỳ
kheo ni Dhmavati là 1 vị nữ tu sĩ rất nỗI tiếng
tạI Nepal. Vị tỵ kheo ni ỡ tạI nữ thiền
viện Dharmakêerti tạI KTM. Vị tỳ kheo này có khoăng
hơn 28 tỳ kheo ni trong thiền viện của bà. Bà
đă hoàn thành xây dựng “thiền viện Gautami” tạI
Lâm Tỳ Ni., vưà được khánh thành. Tương tự
như thế, tỳ kheo Sumanagala xây dựng căn băn Phật
Giáo trong thớ đạI Banepa và Ven. Tỳ kheo Maitri lănh
đạo 1 bệnh viện cho những vùng ngoạI thành
nghèo khổ dướI sự giúp đỡ cũa quyền
hạn chủ tịch cuả hộI phật giáo quốc tế
tạI Vườn Lâm Tỳ Ni.
Trong 3 thập
niên qua, Nepal Bauđdha Pariyatti Shiksha ( c̣n gọI là trường
Phật giáo Chủ Nhật) đă được sự d́u
dắt của giáo hộI phật giao’ thống nhất
Nepal.
Hiện nay,
trụ sỡ cũa Giáo HộI này được đặt
tạI Manimandapa Vihar, tạI Patan. Giáo HộI có nhiều chi
nhánh trên nhiều vùng khác nhau cũa Nepal. 2 tạp chí phật
giáo hang tháng đă được xuất bản bởI các
tỳ kheo. 1 Tạp chí Phật Giáo tên là “DHRMAKÊERTI”, tổng
biên tập là tỳ kheo Ashwaghosh và 1 tạp chí khác
“ANANDABHƠMI”, mà tổng biên tập là Tỳ kheo Kurma
Kashyapa. Các tỳ kheo bắt
đầu xuất bản dướI nhiều dạng khác
nhau: Sách vỡ, tạ.p chí và nhiều h́nh thức khác tuỳ
theo nhu cầu và khiá cạnh của Phật Giáo.
Suốt tháng
Bhadra ( từ tháng 8 đến tháng 9), tất cả phật
tử tụng kinh và cầu nguyện cho hoà b́nh và sự
than aí vào buỗI sang và buỗI chiều tạI Thiền Viện
Viharas. Quư chư Tăng Ni tưởng nhớ công đức
của Đức Phật bằng những buỗI tụng
kinh sang và chiều
Những Bài
kinh Thần thánh đuợc tụng và các phật tử cầu
nguyện cho Hoà B́nh và may mắn cho những gia đ́nh phật
tữ thuần thành.
Tu thiền,
Thuyết giảng, và những chương tŕnh đạc
biệt đuợc tỗ chức trọng thể trong những
ngày rằm tụ tập rất nhiều dân chúng. Quư vị
tăng ni được mớ đến nhà phật tử
và ngay că nhửng gia đ́nh ngoạI đạo.
Ngày Phật
Đản sanh được tỗ chức trọng thễ
vào tháng Veshakh (Rằm tháng 5 mỗI năm)
Sát sanh hoặc
ăn thịt động vật bị cấm triệt
đễ trong ngày này. Lễ mừng Phật Đăn sanh kéo
dài hang tuần trên mọI phần khác nhau cũa đất
nước.1 sự di chuyễn thành từng đoàn phật
tữ được diễn hành trong đêm trăng rằm
đặc biệt này.
Ca’c chuơng
tŕnh phát thanh về đớ sống và công cuộc tu tập
cũa Đức Phật được chiếu trên NTV và
Đài Phát Thanh mỗI tuần bởI các tỳ kheo. Đặc
biệt công việc trùng tu và bảo quăn các thiền viện
đuợc quan tâm trong nhửng ngày lễ Phật Giáo.
Dịch giả:
DươngTiêu