......... .

Trung Bộ Kinh
Majjhima Mikaya


Việt dịch Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
English by: Sister Upalavanna
---o0o---

01. Kinh PHáp Môn Căn Bản
Mùlapariyàya Sutta
Origin and Behaviour of All Thoughts.


 

1. ^^^
 

 

1. Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc) Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương. Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!". - "Bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng cho các Người "Pháp môn căn bản tất cả pháp". Hăy nghe và khéo tác ư, Ta sẽ nói". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

1. I have heard that on one occasion the Blessed One was staying at Ukkattha, in the shade of a royal Sal tree in the Very Blessed Grove. There he addressed the monks, "Monks!"
"Yes, lord," the monks responded.
The Blessed One said, "Monks, I will teach you the sequence of the root of all phenomena [or: the root sequence of all phenomena]. Listen & pay close attention. I will speak."
"As you say, sir," they responded.

 

2. ^^^^^^
 

 

2. (Phàm phu)
Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đại là địa đại. V́ tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngă) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngă) như là địa đại, người ấy nghĩ: "Địa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. V́ sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.

 

2. The Blessed One said: "There is the case, monks, where an uninstructed run-of-the-mill person — who has no regard for noble ones, is not well-versed or disciplined in their Dhamma; who has no regard for men of integrity, is not well-versed or disciplined in their Dhamma — perceives earth as earth. Perceiving earth as earth, he conceives [things] about earth, he conceives [things] in earth, he conceives [things] coming out of earth, he conceives earth as 'mine,' he delights in earth. Why is that? Because he has not comprehended it, I tell you.

 

3. ^^^^^^
 

 

3. Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. V́ tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến (tự ngă) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngă) như là thủy đại, người ấy nghĩ: "Thủy đại là của ta" - dục hỷ thủy đại. V́ sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.
Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại. V́ tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến (tự ngă) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến (tự ngă) như là hỏa đại, người ấy nghĩ: "Hỏa đại là của ta"- dục hỷ hỏa đại. V́ sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại.
Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. V́ tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến (tự ngă) đối chiếu với phong đại, nghĩ đến (tự ngă) như là phong đại, người ấy nghĩ: "Phong đại là của ta"- dục hỷ phong đại. V́ sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại.
Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật... Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên... Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ... Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên... Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên... Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên... Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên... Người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng Giả) là Abhibhù...
Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ... Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ...
Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến... Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn... Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm... Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri...
Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất... Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt... Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả...

 

3. "He perceives water as water... fire as fire... wind as wind1 ... beings as beings... gods as gods...Pajapati as Pajapati...Brahma as Brahma... the luminous gods as luminous gods... the gods of refulgent glory as gods of refulgent glory... the gods of abundant fruit as the gods of abundant fruit... the Great Being as the Great Being2 ... the dimension of the infinitude of space as the dimension of the infinitude of space... the dimension of the infinitude of consciousness as the dimension of the infinitude of consciousness... the dimension of nothingness as the dimension of nothingness... the dimension of neither-perception-nor-non-perception as the dimension of neither-perception-nor-non-perception3 ... the seen as the seen... the heard as the heard... the sensed as the sensed... the cognized as the cognized4 ... singleness as singleness... multiplicity as multiplicity5 ... the All as the All6 ...

 

4. ^^^^^^
 

 

4. Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn. V́ tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngă) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngă) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - dục hỷ Niết-bàn. V́ sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.

 

4. "He perceives Unbinding as Unbinding.7 Perceiving Unbinding as Unbinding, he conceives things about Unbinding, he conceives things in Unbinding, he conceives things coming out of Unbinding, he conceives Unbinding as 'mine,' he delights in Unbinding. Why is that? Because he has not comprehended it, I tell you.

 

^^^^^^
 

 

Nhưng này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói đối nghịch với các vị Sa-môn, Bà-la-môn kia, những vị này nói như sau: "Có (kết quả của) bố thí, có (kết quả của) lễ hy sinh, có (kết quả của) tế tự, có kết quả, quả báo của các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trên đời có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chơn chánh hành tŕ, chơn chánh thực hành, và những vị này tuyên bố về đời này và về đời sau, sau khi đă chứng ngộ với thắng trí". Này các Gia chủ, các Ông nghĩ thế nào, có phải những vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy nói những lời đối nghịch với nhau?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

 

Householders, there are some other recluses and brahmins who have opposite views and declare. There are results for gifts, offerings, and sacrifices. There are results for good and bad actions. There is this and other world. There is mother, father. There are spontaneously arisen beings and recluses and brahmins in this world, come to the right path, have realized this world and the other world and declare it. Householders, do these two groups of recluses and brahmins bear completely opposite views and declare them?'
'They do venerable sir'.

 

^^^^^^^
 

 

-- Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không có kết quả của bố thí, không có kết quả của lễ hy sinh, không có kết quả của tế tự, không có kết quả, quả báo của các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trên đời không có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chơn chánh hành tŕ, chơn chánh thành tựu, và những vị này tuyên bố về đời này và về đời sau, sau khi đă chứng ngộ với thắng trí". Đối với những vị này, sự kiện này sẽ chờ đợi xảy ra: Sau khi từ bỏ ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, và sau khi chấp nhận ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, các vị này thực hành theo. V́ sao vậy? V́ những vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp.

 

Householders, those recluses and brahmins who have this view and declare there are no results for gifts, offerings, or sacrifices. There are no results for good and bad actions, there is no this world, no other world, no mother, no father. There are no spontaneously arisen beings recluses and brahmins in this world, who come to the right path, have realized this world and the other world and declare it. [2] We could expect this, they would abstain from these three things of merit such as good conduct by body, speech and mind, would observe these three things of demerit such as misconduct by body, speech and mind. What is the reason? These good recluses and brahmins do not see the dangers of demerit, the vile nature of defilements, the purity and the results of merit in giving up.

 

^^^^^^^
 

 

V́ rằng có đời sau, nếu có quan điểm nào nói rằng không có đời sau, thời đó là một tà kiến. V́ rằng có đời sau, nếu có ai suy tư rằng không có đời sau, thời đó là tà tư duy. V́ rằng có đời sau, nếu có ai nói rằng không có đời sau, thời đó là tà ngữ. V́ rằng có đời sau, nếu có ai nói rằng không có đời sau, thời tự mâu thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đă biết được có đời sau. V́ rằng có đời sau, nếu có ai thuyết phục người khác là không có đời sau, thời sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, và v́ sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, người ấy khen ḿnh chê người. Như vậy, trước khi thiện giới của người ấy bị từ bỏ, các ác giới đă được chấp tŕ. Và tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục chống lại diệu pháp, sự khen ḿnh chê người, như vậy các ác bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến.

 

There's another world. [3] So their view there is no other world, becomes wrong view. Words that say, there is no other world, becomes wrong speech. The view, there is no other world, is completely opposite to what the noble ones say. The noble ones talk of another world. Their instructions, there is no other world, becomes wrong instructions, and the wrong teaching. Giving the wrong instructions, they praise themselves and disparage others. By that they decrease in their virtues andaccumulate various things of demerit, on account of wrong view. Such as wrong thoughts, wrong speech, giving instructions in the wrong teaching quite opposite to the noble one's teaching, and praising themselves and disparaging others.

 

^^^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu không có đời sau, thời vị này sau khi thân hoại mạng chung, tự ngă cảm thấy an toàn. Nếu có đời sau, thời vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu muốn đời sau không có đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này, ngay trong hiện tại bị những người có trí quở trách: "Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ trương hư vô luận". C̣n nếu có đời sau, thời vị này cả hai mặt đều gặp bất hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đoạn xứ, địa ngục. Như vậy pháp "không ǵ chuyển hướng" này bị chấp tŕ, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ có chấp nhận một phía, và bỏ phía thiện pháp.

 

A wise man reflects, if there is no other world, these good persons will be well and good after death. If there is another world, after death they would go to decrease, to hell. Let us say there is no, other world, and the words of these good recluses and brahmins are true. Yet they are blamed by the wise, here and now, as un -virtuous ones bearing wrong view, and negative ideas. If there is the other world, these good persons will have unlucky throws on both sides. The wise will blame them here and now, they will decrease in virtues and birth in hell after death. Thus if this pervading teaching is observed, it pervades both sides and neglects the side of demerit.

 

^^^^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có kết quả của bố thí, có kết quả của lễ hy sinh, có kết quả của tế tự, có kết quả, quả báo của các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trên đời có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chơn chánh hành tŕ, chơn chánh thành tựu, và những vị này tuyên bố về đời này và về đời sau, sau khi đă chứng ngộ với thắng trí". Đối với những vị này, sự kiện này sẽ chờ đợi xẩy ra: Sau khi từ bỏ ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, và sau khi chấp nhận ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, các vị này thực hành theo. V́ sao vậy? V́ những vị Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp.

 

Householders, there are recluses and brahmins who have this view and declare, there are results for gifts, offerings, and sacrifices, there are results for good and bad actions, there is this and other world, there is mother and father. There are spontaneously arisen beings, recluses and brahmins in this world, who come to the right path, have realized this world and the other world and declare it We could expect this Giving up these demerits such as misconduct by body, speech and mind, theywould be of right conduct by body, speech and mind. Why is that? These good recluses and brahmins see the danger of demerit, the impurity of defiling things, the results and the purity of giving up.

 

^^^^^^^^
 

 

V́ rằng có đời sau, nếu có quan điểm nào nói rằng có đời sau, thời đó là một chánh kiến. V́ rằng có đời sau, nếu có ai suy tư rằng có đời sau, thời đó là chánh tư duy. V́ rằng có đời sau, nếu có ai nói rằng có đời sau, thời đó là chánh ngữ. V́ rằng có đời sau, nếu có ai nói rằng có đời sau, thời không tự mâu thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đă biết được có đời sau. V́ rằng có đời sau, nếu có ai thuyết phục người khác là có đời sau, thời sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, và v́ sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, vị ấy không khen ḿnh chê người. Như vậy, trước khi ác giới của vị ấy được từ bỏ, các thiện giới đă được chấp tŕ. Và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với diệu pháp, sự không khen ḿnh chê người, như vậy những thiện pháp sai biệt này khởi lên, do duyên chánh kiến.

 

If there is another world, their view there is another world, becomes right view. The thought `there is another world, ` becomes their right thoughts. The words `there is another world, ` are right words for them. They that say, `there is another world, ` come to the same view as the noble ones. They give the right instructions in the right Teaching. Thus they do not praise themselves or disparage others. Even from the beginning their evil virtues are dispelled Thus they develop much merit on account of right view, such as right speech, giving instructions in the teaching which is the same that the noble ones say and by that not praising themselves and not disparaging others.

 

^^^^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu có đời sau, thời vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này. Nếu muốn cho đời sau không có đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại được những người có trí tán thán: "Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương hữu luận". C̣n nếu có đời sau, thời vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại, được những người trí tán thán; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này. Như vậy, "pháp không ǵ chuyển hướng" này được chấp tŕ, được thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía, và bỏ qua phía bất thiện pháp.

 

Here, householders a wise man reflects thus: If there was another world, these good persons after death will go to increase will be born in heaven. Perhaps there was no other world and the words of these good recluses and brahmins would not be true. Yet they are here and now praised by the wise: These are virtuous persons, with the right view, they think there are results for actions. If there was another world, these persons are lucky both ways. Here and now they are praised by the wise, and after death, will increase will be born in heaven. Thus those who abide by this pervading teaching, pervades both sides and keeps away from demerit.

 

^^^^^^^^^
 

 

(II. Thuyết vô tác dụng)
Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây áo năo hay khiến người gây áo năo, tự ḿnh gây ra sợ hăi, hay khiến người gây ra sợ hăi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác ǵ. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cơi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt, cũng không v́ vậy có tội ác, có gây ra sự tiếp tục của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không v́ vậy có tội ác, có gây ra sự tiếp tục của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không v́ vậy có phước báo, có tạo thành sự tiếp tục của phước báo".

 

Householders, there are recluses and brahmins who have this view and declare it. The doer and the subject, the destroyer and the destroyed, the tormentor and one tormented, the griever and the one that causes it, the one frightened and the monster, the killer, the taker of the not given, the one who cuts limbs, the plunderer, the prison keeper, the one waiting in ambush, the one going to others' wives, the one telling lies, does no demerit. If one was to roll a wheel with blades fixed to the rim, up to the southern bank of the Ganges, killing all beings and making it, a mass of flesh, the destroyer does not accumulate demerit, on account of it. If one goes up to the northern bank of the Ganges giving gifts and making others to give gifts, making sacrifices and making others to sacrifice, there is no merit accumulated on account of it.

 

^^^^^^^
 

 

Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói những lời đối nghịch với các Sa-môn, Bà-la-môn kia. Các vị này nói như sau: "Tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây ác năo hay khiến người gây ác năo, tự ḿnh gây sợ hăi, hay khiến người gây sợ hăi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy có tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cơi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt, th́ do nhân duyên này có tội ác, có gây ra sự tiếp tục của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu khiến người đốt nấu, th́ do nhân duyên này có tội ác, có gây ra sự tiếp tục của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng, bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, th́ do nhân duyên này, có phước báo, có tạo thành sự tiếp tục của phước báo. Bố thí, điều phục, tự chế, nói thật, đều có phước báo, có tạo thành sự tiếp tục của phước báo".
V́ sao vậy? Này các Gia chủ, có phải những Sa-môn, Bà-la-môn này nói lời đối nghịch với nhau?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

 

Then householders, there are recluses and brahmins who hold a completely opposite view to this and declare it The doer and the subject, the destroyer and the destroyed, the tormentor and his subject, the griever and the one causing it, the frightened and the monster, the killer, the taker of the not given, the one who cuts limbs, the plunderer, the prison keeper, the one waiting in ambush, the one going to others' wives, the deceiver, doesdemerit. If one was to roll a wheel with blades fixed to the rim, up to the southern bank of the Ganges, killing all beings and making it, a mass of flesh, the destroyer accumulates demerit, on account of it. If one goes up to the northern bank of the Ganges giving gifts and making others to give gifts, making sacrifices and making others to sacrifice, there's merit accumulated on account of it. Householders, do these two groups of recluses have completely opposite views?'
`Yes, venerable sir, they have.

 

^^^^^^^^^
 

 

-- Ở đây, này các Gia chủ, có những Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự làm hay khiến người làm,... (như trên)... không đưa đến phước báo". Đối với những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, và sau khi chấp nhận ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, các vị này thực hành theo. V́ sao vậy? Những Sa-môn, Bà-la-môn này không thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp.
V́ rằng có tác dụng, nếu có quan điểm nào nói rằng không có tác dụng, thời đó là một tà kiến. V́ rằng có tác dụng, nếu ai có suy tư rằng không có tác dụng, thời đó là tà tư duy. V́ rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng không có tác dụng, thời đó là tà ngữ. V́ rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng không có tác dụng, thời tự mẫu thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đă biết được có tác dụng. V́ rằng có tác dụng, nếu có ai thuyết phục người khác là không có tác dụng, thời sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, và v́ sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, người ấy khen ḿnh chê người. Như vậy, trước khi thiện giới của người ấy bị từ bỏ, các ác giới đă được chấp tŕ. Và tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục chống lại diệu pháp, sự khen ḿnh chê người, như vậy những ác bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến.

 

Householders, there are recluses and brahmins who have this view and declare it. The doer and the subject neither do demerit. The destroyer and the destroyed, the tormentor and his subject, the griever and the giver of grief, the frightened and the monster, neither of them do demerit. The killer, the taker of the not given, the one who cuts limbs, the plunderer, the prison keeper, the one waiting in ambush, the one going to others' wives, the deceiver, they do no demerit. If one was to roll a wheel with blades fixed to the rim, up to the southern bank of the Ganges, killing all beings and making it, a mass of flesh, the destroyer does not accumulate demerit, on account of it. If one goes up to the northern bank of the Ganges giving gifts and making others to give gifts, making sacrifices and making others to sacrifice, there is no merit accumulated on account of it. We could expect this, from them. They would refrain from the three merits, of good conduct by body, speech and mind. Would. Observe the three demerits of misconduct by body, speech and mind. What is the reason? These good recluses and brahmins do not see the dangers of demerit, the vile nature of defilements, the purity and the results of merit in giving up. There are results for actions, their view, `there are no results for actions', becomes to them wrong view. Words that say `there are no results for actions, ` becomes to them wrong speech. This view is completely opposite to what the noble ones say, the noble ones talk of the results of actions. The instructions, `there are no results for actions, ` that comes to be giving instructions in the wrong Teaching. The giver of wrong instructions praises his, self and disparages others. Thus he loses whatever virtues he was endowed with and he accumulates various things of demerit on account of wrong view, such as wrong thoughts, wrong speech, giving instructions in the wrong Teaching quite opposite to the noble one's teaching, and praising himself and disparaging others. Thus he accumulates much demerit on account of wrong view.

 

^^^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, người có trí suy nghĩ như sau: Nếu không có tác dụng, thời vị này, sau khi thân hoại mạng chung, tự ngă cảm thấy an toàn. Nếu có tác dụng, thời vị này sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu muốn không có tác dụng đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này, ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách: "Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ trương không tác dụng". C̣n nếu có tác dụng, thời vị này cả hai mặt đều gặp sự bất hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy pháp "không ǵ chuyển hướng" này bị chấp tŕ, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ có chấp nhận một phía, và bỏ qua phía thiện pháp.

 

Then a wise man reflects thus. If there are no results for actions, these good persons will be well and good after death. If there be results for actions, after death they would go to decrease, to hell. Let us say there are no results for actions and the words of these good recluses and brahmins become true. Yet they are blamed by the wise, here and now, as un virtuous ones bearing the wrong view, there are no results for actions. If there are results for actions, these good persons will have unlucky throws on both ways. They will be blamed by the wise here and now, and will have a decrease and birth in hell after death. Thus if this pervading teaching is observed, it pervades both sides and neglects the side of demerit.

 

^^^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự làm hay khiến người làm... (như trên)... có đưa đến phước báo". Đối với những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, và sau khi chấp nhận ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, các vị này thực hành theo. V́ sao vậy ? V́ những Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp. V́ rằng có tác dụng, nếu có quan điểm nào nói rằng có tác dụng, thời đó là chánh kiến. V́ rằng có tác dụng, nếu có ai suy tư rằng có tác dụng, thời đó là chánh tư duy. V́ rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng có tác dụng, thời đó là chánh ngữ, v́ rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng có tác dụng, thời không tự mâu thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đă biết được có tác dụng. V́ rằng có tác dụng, nếu có ai thuyết phục người khác là có tác dụng, thời sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, và v́ sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, vị ấy không khen ḿnh chê người. Như vậy trước khi ác giới của vị ấy được từ bỏ, các thiện giới đă được chấp tŕ. Và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với diệu pháp, sự không khen ḿnh chê người, như vậy những thiện pháp sai biệt này khởi lên, do duyên chánh kiến.
Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu có tác dụng, thời vị này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này. Nếu muốn tác dụng không có đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại được những người có trí tán thán: "Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương có tác dụng". C̣n nếu có tác dụng, thời vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại, được những người trí tán thán; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này. Như vậy, pháp "không ǵ chuyển hướng" này được chấp tŕ, được thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía, và bỏ qua phía bất thiện pháp.

 

Householders, there are recluses and brahmins who hold this view and declare it. The doer and the subject, the destroyer and the destroyed, the tormentor and the subject, the griever and the one that causes it, the frightened and the monster, do demerit. The killer, the taker of the not given, the one who cuts limbs, the plunderer, the prison keeper, the one waiting in ambush, the one going to others' wives, and the deceiver, does demerit. If one was to roll a wheel with blades fixed to the rim, up to the southern bank of the Ganges, killing all beings and making it, a mass of flesh, the destroyer accumulates demerit, on account of it. If one goes up to the northern bank of the Ganges giving gifts and making others to give gifts, making sacrifices and making others to sacrifice, there is merit accumulated on account of it. We could expect this from them. They would give up these demerits such as misconduct by body, speech and mind, would abide in the three merits of right conduct by body, speech and mind. Why is that? These good recluses and brahmins see the danger of demerit, the impurity of defiling things, the results and the purity of giving up. If there are results for actions, their view `there are results for actions' becomes right view, for them. When they think, `there are results for actions, that becomes right thoughts for them. When they talk that `there are results for actions', that becomes right words for them. The view, there are results for actions, is the same as the view of the noble ones, and the instructions they give is the right Teaching. On account of that they do not praise themselves or disparage others. Thus from the beginning their evil virtues were dispelled, and they accumulate much merit on account of right view, such as right speech, giving instructions in the teaching which is the same that the noble ones say and by that not praising themselves nor disparaging others.
ßThen a wise man reflects. If there are results for actions, these good persons will go to increase will be born in heaven, after death. Let us say there are no results for actions, and the words of these good recluses and brahmins are not true. Yet they are praised by the wise, here and now, as virtuous, as ones with the right view of actions. If there are results for actions, these good persons will have lucky throws on both ways. The wise will praise them here and now, they will come to increase and birth in heaven after death. Thus if this pervading teaching is observed, it pervades both sides and neglects the side of demerit.

 

^^^^^^^
 

 

(III. Thuyết vô nhân duyên)

Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không có nhân, không có duyên, các loài hữu t́nh bị nhiễm ô; vô nhân vô duyên, các loài hữu t́nh bị nhiễm ô. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu t́nh được thanh tịnh; vô nhân vô duyên, các loài hữu t́nh được thanh tịnh. Không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người. Tất cả loài chúng sanh, tất cả loài hữu t́nh, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng đều không tự tại, không lực, không tinh tấn. Các chúng sanh ấy bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi sự t́nh cờ, bởi bản tánh của họ. Các chúng sanh ấy hưởng thọ khổ lạc, y theo sáu loại thác sanh của họ".
Này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói lời mâu thuẫn đối nghịch với những Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Những vị này đă nói như sau: "Có nhân có duyên, các loài hữu t́nh bị nhiễm ô; không có nhân, không có duyên các loài hữu t́nh bị nhiễm ô. Có nhân, có duyên, các loài hữu t́nh được thanh tịnh. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu t́nh được thanh tịnh. Có lực, có tinh tấn, có nhân lực, có sự cố gắng của người. Tất cả loài chúng sanh, tất cả loài hữu t́nh, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng đều không phải không tự tại, không có lực, không có tinh tấn. Không phải các chúng sanh ấy bị dẫn dắt, chi phối bởi định mệnh, bởi sự t́nh cờ, bởi bản tánh của họ. Không phải họ hưởng thọ khổ lạc y theo sáu loại thác sanh của họ". Này các Gia chủ, các Ông nghĩ thế nào? Có phải những vị Sa-môn, Bà-la-môn này nói lên những lời mâu thuẫn, đối nghịch nhau?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

 

Householders, there are recluses and brahmins of this view and declaring it. Beings are impure for no cause or reason, for the purity of beings there is no cause or reason. Beings are purified for no reason. There is no strength, no effort, no manly power, no manly courage, all beings, all living things, all born are led to maturity and are born in the higher six and experience pleasantness and unpleasantness. [4] without any reason. Then householders, there are recluses and brahmins with the view completely opposite to this and declaring it. Beings are impure with a cause and reason, for the purity of beings there is a cause and reason. beings are purified for some reason. There's strength, effort, manly power, manly courage, all beings, all living things, all born are not led to maturity and are born in the higher six and experience pleasantness and unpleasantness. `Householders, do these two groups of recluses and brahmins hold views, completely opposite to each other?' `They do venerable sir'.

 

^^^^^
 

 

-- Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không có nhân, không có duyên... (như trên)... họ cảm thọ khổ lạc..". Đối với những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, và sau khi chấp nhận ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, các vị này sẽ thực hành theo. V́ sao vậy? Những Sa-môn, Bà-la-môn này không thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp.
V́ rằng có nhân, nếu có quan điểm nào nói rằng không có nhân, thời đó là một tà kiến. V́ rằng có nhân, nếu có ai suy tư rằng không có nhân, thời đó là tư duy. V́ rằng có nhân, nếu có ai nói rằng không có nhân, thời đó là tà ngữ. V́ rằng có nhân, nếu có ai nói rằng không có nhân, thời tự mâu thuẫn, đối nghịch với các vị A-la-hán đă biết được có nhân. V́ rằng có nhân, nếu có ai thuyết phục người khác là không có nhân, thời sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, và v́ sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, người ấy khen ḿnh chê người. Như vậy, trước khi thiện giới của người ấy bị từ bỏ, các ác giới đă được chấp tŕ. Và tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục chống lại diệu pháp, sự khen ḿnh chê người, như vậy những ác bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến.

 

Then householders, there are recluses and brahmins of this view and declaring it. For the impurity of beings there is no cause or reason, for the purity of beings there is no cause or reason. There is no strength, no effort, no manly power, no manly courage. All beings, living things, all born are led to maturity, and are born in the higher sixand experience pleasantness and unpleasantness. [4] We should expect this from them. They would not observe these three things of merit such as good conduct by body, speech and mind. Would observe these three things of demerit such as misconduct by body, speech and mind. What is the reason? These good recluses and brahmins do not see the danger of demerit, the vile nature of defilements, the purity and the results of merit in giving up. When there is a cause they have the view there is no cause. That becomes wrong view, words that say there is no cause or reason, becomes wrong speech. When there is a cause they said, there is no cause. This view is completely opposite to what the noble ones say, the noble ones talk of a cause. When there is a cause, they instructed there is no cause. That becomes giving instructions in the wrong Teaching. Giving wrong instructions he praises his self and disparages others. Thus he loses whatever virtues he was endowed with. He accumulates various things of demerit on account of wrong view, such as wrong thoughts, wrong speech, giving instructions in the wrong Teaching quite opposite to the noble one's teaching, and praising themselves and disparaging others. Thus he accumulates much demerit on account of wrong view.

 

^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, người có trí suy nghĩ như sau: Nếu không có nhân, thời vị này, sau khi thân hoại mạng chung, tự cảm thấy an toàn. Nếu có nhân, thời vị này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu muốn không có nhân đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách. "Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ trương không nhân". C̣n nếu có nhân, thời vị này, cả hai mặt đều gặp sự bất hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, pháp "không có chuyển hướng" này bị chấp tŕ, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ có chấp nhận một phía, và bỏ qua phía thiện pháp.

 

A wise man reflects thus. If there is no cause, these good persons will be well and good after death. If there be a cause, after death they would go to decrease, to hell. Let us say, there is no cause, then the words of these good recluses and brahmins become true. Yet they are blamed by the wise, here and now, as un virtuous ones with the wrong view, there is no cause. If there is a cause, these good persons will have unlucky throws on both ways. The wise will blame them here and now, after death, a decrease and birth in hell. Thus if this pervading teaching is observed, it pervades both sides and neglects the side of demerit.

 

^^^^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có nhân, có duyên... (như trên)... họ cảm thọ hưởng lạc". Đối với những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành, và sau khi chấp nhận ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ư thiện hành, các vị này thực hành theo. V́ sao vậy? V́ những Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp.
V́ rằng có nhân, nếu có quan điểm nào nói rằng có nhân, thời đó là chánh kiến. V́ rằng có nhân, nếu có ai suy tư rằng có nhân, thời đó là chánh tư duy. V́ rằng có nhân, nếu có ai nói rằng có nhân, thời đó là chánh ngữ. V́ rằng có nhân, nếu có ai nói rằng có nhân, thời không tự mâu thuẫn, đối nghịch với các vị A-la-hán đă biết được có nhân. V́ rằng có nhân, nếu có ai thuyết phục người khác là có nhân, thời sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, và v́ sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, vị ấy không khen ḿnh chê người. Như vậy, trước khi ác giới của vị ấy được từ bỏ, các thiện giới đă được chấp tŕ. Và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với diệu pháp, sự không khen ḿnh chê người, như vậy những thiện pháp sai biệt này khởi lên, do duyên chánh kiến.
Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu có nhân, thời vị này sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này. Nếu muốn không có nhân đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại, được những người có trí tán thán: "Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương có nhân". C̣n nếu có nhân, thời vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại, được những người có trí tán thán, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới, cơi đời này". Như vậy, pháp "không ǵ chuyển hướng" này được chấp tŕ, được thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía và bỏ qua phía bất thiện pháp.

 

Householders, there are recluses and brahmins with the view, for the impurity of beings there is a cause and reason, for the purity of beings there is a cause and reason. There is strength, effort, manly power and courage. All beings, all living things, all born are not led to maturity by accident and are born in the higher six and experience pleasantness and unpleasantness, on account of a reason. We could expect this, from them. They would give up these demerits such as misconduct by body, speech and mind and would abide in the three merits of right conduct by body, speech and mind. Why is that? These good recluses and brahmins see the danger of demerit, the impurity of defiling things, the results and the purity of giving up. If there is a cause The view, there is a cause, becomes right view. The thoughts there is a cause, become right thoughts. Their words about a cause, become right words. The view there is a cause, is the view of the noble ones, and the given instructions become instructions in the right Teaching. On account of that they do not praise themselves or disparage others. Thus even earlier their evil virtues were given up and they develop much merit on account of right view, such as right speech, giving instructions in the teaching which is the same that the noble ones say and by it not praising themselves and not disparaging others.
ßThen a wise man reflects. If there is a cause, these good persons will go to increase will be born in heaven after death. Let us say there is no cause, and the words of these good recluses and brahmins are not true. They are praised by the wise, here and now, as virtuous ones, with right view, as ones with the right view of cause and effect. If there is a cause these good persons will have lucky throws on both ways. Praise from the wise here and now, an increase and birth in heaven after death. Thus if this pervading teaching is observed, it pervades both sides and neglects the side of demerit.

 

^^^^^
 

 

(IV. Thuyết Không có cơi vô sắc)
Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tuyệt đối không thể có cơi vô sắc".
Lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói lời mâu thuẫn, đối nghịch với các Sa-môn, Ba la môn ấy. Các vị này đă nói như sau: "Chắc chắn có cơi vô sắc". Này các Gia chủ, các Ông nghĩ thế nào? Có phải những vị Sa-môn, Bà-la-môn này nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch nhau?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-- Ở đây, này các Gia chủ, một người có trí suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan niệm như sau: "Tuyệt đối không thể có cơi vô sắc", ta không có thấy như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tuyệt đối có cơi vô sắc", ta không có biết như vậy. Và nếu ta không biết, không thấy mà chỉ chấp nhận một bên và tuyên bố: "Đây là sự thật, ngoài ra đều là mê lầm," thời như vậy không xứng đáng với ta. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tuyệt đối không thể có cơi vô sắc", nếu lời nói của những Sa-môn, Ba la môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy ra: Ta chắc chắn sẽ tái sanh tại chỗ các chư Thiên có sắc do ư sở thành. C̣n nếu những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tuyệt đối có cơi vô sắc", nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy ra: Ta chắc chắn sẽ tái sanh tại chỗ các chư Thiên vô sắc, do tưởng sở thành. Do duyên với cái ǵ có sắc, chấp gậy, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ đều được thấy. Nhưng sẽ không có những sự việc này trong cơi vô sắc". Do suy tư như vậy, vị ấy thành tựu sự yểm ly, sự ly tham, sự diệt tận các sắc pháp.

 

Householders, there are recluses and brahmins who have this view and declare it. There aren't completely immaterial states. There are other recluses and brahmins who are completely opposite to this view and declare. There are completely immaterial states. Householders, do they have completely opposite views?'
`Yes venerable sir, they have,'
`Then a wise man reflects. Those recluses and brahmins who hold the view and declare, there aren't completely immaterial states would say. I have not seen this. Those recluses and brahmins who say there are completely immaterial states would say. I know this. I who do not see or do not know, should not take a superficial view of it. Saying, this only is the truth, all else is not the truth. To think in this manner is not suitable for one like me. If the words of those recluses and brahmins who said there are no completely immaterial states are true. My birth among material gods of mental nature could not be shown. [5] If the words of those recluses and brahmins who said there are completely immaterial states was true, my birth among immaterial perceptive gods could not be shown. [6] For material reasons, there's taking sticks, weapons, disputes, fights, taking sides and slandering, going on. These are not evident in completely immaterial states. So wisely reflecting we could detach from matter, and fall to the path of cessation.

 

^^^^
 

 

(V. Thuyết Không có Đoạn diệt)

Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không thể có một sự hữu diệt (Bhavanirodha) toàn diện".
Này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói lời mâu thuẫn đối nghịch với các Sa-môn, Bà-la-môn. Các vị này đă nói như sau: "Có thể có một sự hữu diệt toàn diện". Này các Gia chủ, các Ông nghĩ thế nào? Có phải những Sa-môn, Bà-la-môn này nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch nhau?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-- Ở đây, này các Gia chủ, một người có trí suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không thể có sự hữu diệt toàn diện", ta không có thấy như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có thể có một sự hữu diệt toàn diện", ta không có biết như vậy. Và nếu ta không biết, không thấy mà chỉ chấp nhận một bên và tuyên bố: "Đây là sự thật, ngoài ra đều là mê lầm", thời như vậy không xứng đáng với ta. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào, có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không thể có một sự hữu diệt toàn diện", nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy ra: Ta chắc chắn sẽ tái sanh chỗ các chư Thiên vô sắc do tưởng sở thành. C̣n nếu những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có thể có một sự hữu diệt toàn diện", nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy ra: Ta chắc chắn sẽ nhập Niết-bàn ngay trong hiện tại. Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không thể có một sự hữu diệt toàn diện", thời quan điểm này của các vị ấy gần với tham ái, gần với kiết sử, gần với ái lạc, gần với chấp trước, gần với chấp thủ. C̣n những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có thể có sự hữu diệt toàn diện", thời quan điểm này của những vị ấy là gần với ly tham, gần với không kiết phược, gần với không ái lạc, gần với không chấp trước, gần với không chấp thủ". Do suy tư như vậy, vị ấy thành tựu sự yểm ly, sự vô tham, sự diệt tận đối với các hữu.

 

Householders, there are recluses and brahmins who have this view and declare There isn't the complete cessation of being. There are other recluses and brahmins who are completely opposite to this view and declare. There is complete cessation of being. Householders, do they have completely opposite views?
Venerable sir, they have.
A wise man reflects. There are recluses and brahmins who hold the view and declare, there isn't complete cessation of being. They would say. I have not experienced that. Those recluses and brahmins who say there is complete cessation of being, would say. I have experienced it. I do not see or know this, so I should not look at it from a superficial angle. Saying, this only is the truth, all else is not the truth. To think in this manner is not suitable for one like me. If the words of those recluses and brahmins who said there is no complete cessation of being is true. My birth among immaterial gods of perceptive nature could not be shown. If the words of those recluses and brahmins who said there is complete cessation of being is true, there is a possibility that I should cease `to be' here and now. [7] The view of those recluses and brahmins who say there is no complete cessation of being is close upon greed, is fixed to the yoke, is with interest, is close upon appropriation, is close to holding. The view of those recluses and brahmins who say there is a complete cessation of being is close upon non-greed, unfixed from the yoke, without interest, far from appropriation and far from holding. He has fallen to the method of ceasing from being, detaching from being, giving up being, by reflecting.

 

^^^^^^
 

 

(Bốn hạng người)

Này các Gia chủ, có bốn hạng người này có mặt ở trong đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Gia chủ, có người tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh. Ở đây, này các Gia chủ, có người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Gia chủ, có người vừa tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Gia chủ, có người vừa tự không tự hành khổ ḿnh, không chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Vị này không tự hành khổ ḿnh, không hành khổ người, ngay trong hiện tại, không có tham dục, không có khao khát, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngă trú vào Phạm thể.

 

Householders, there are four persons evident in the world. What four: There is a person who torments his self yoked to tormenting. There is a person who torments others yoked to tormenting. There is a person who torments his self and others yoked to tormenting. There is a person who neither torments his self or others, is unyoked. He is here and now appeased, cooled and abides in pleasantness like Brahma.

 

^^^^^^
 

 

Và này các Gia chủ, thế nào là người tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh ? Ở đây, này các Gia chủ, có người sống lơa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng một chỗ, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không nhận mời đi ăn, không nhận từ nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy, không nhận giữa những cối giă gạo, không nhận từ hai người đang ăn, không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà đang giao cấu người đàn ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, hay chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, hay chỉ nhận ăn hai miếng... hay vị ấy chỉ nhận ăn bảy nhà, hay vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát,... nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa,... bảy ngày một bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn bột tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hay ăn phân ḅ. Vị ấy ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vỏ cây tirita làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện bằng từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cừu. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người chuyên sống theo hạnh nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, từ bỏ chỗ ngồi, là người ngồi chơ hỏ, chuyên sống theo hạnh ngồi chơ hỏ, một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Như vậy dưới nhiều h́nh thức, vị ấy sống tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh. Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là hạng người tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh.

 

Householders, who torments his self yoked to tormenting? A certain person goes without clothes, licks the hands without manners as in the Karandakasutaü. --- Thus he abides yoked to giving various kinds of torture to the body, tormenting his self yoked to tormenting.

 

^^^^^^^
 

 

Và này các Gia chủ, thế nào là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người? Ở đây, này các Gia chủ, có người là người đồ tể giết trâu ḅ, là người đồ tể giết heo, là người giết vịt, săn thú, là thợ săn, thợ đánh cá, ăn trộm, người xử tử các người ăn trộm, cai ngục và những người làm các nghề ác độc khác. Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.

 

Householders, which one tortures others yoked to it? A certain person kills pigs and sheep and is yoked to giving various kinds of torture to living things. This person torments others yoked to tormenting.

 

^^^^^^^^^
 

 

Và này các Gia chủ, thế nào là người vừa tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người ?

 

Householders, which one torments his self and others yoked to tormenting?

 

^^^^^^^
 

 

Ở đây, này các Gia chủ, có người làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lị, hay một Bà-la-môn triệu phú. Vị này cho xây dựng một giảng đường mới về phía Đông thành phố, cạo bỏ râu tóc, đắp áo da thô, toàn thân bôi thục tô và dầu, găi lưng với một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính và một Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống dưới đất trống trơn chỉ có lát cỏ. Vị vua sống với sữa từ vú một con ḅ cái, có con ḅ con cùng một mầu sắc; bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ hai; và vị Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba. Sữa từ vú thứ tư dùng để tế lửa. C̣n con nghé con th́ sống với đồ c̣n lại. Vị vua nói như sau: "Hăy giết một số ḅ đực để tế lễ, hăy giết một số nghé đực để tế lễ, hăy giết một số nghé cái để tế lễ, hăy giết một số dê để tế lễ, hăy giết một số cừu để tế lễ, hăy chặt một số cây để làm cột tế lễ, hăy thâu lượm một số cỏ dabbha để làm chỗ tế lễ. Và những người nô tỳ, những người phục vụ, những người làm công, những người này v́ sợ đ̣n gậy, v́ sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước mắt, khóc lóc làm các công việc. Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là hạng người vừa tự hành khổ ḿnh, chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.

 

Householders, a certain person is a king or a head anointed warrior-frightening others makes them work with tears in their eyes. This one, torments his self and others yoked to it.

 

^^^^^^
 

 

Và này các Gia chủ, thế nào là hạng người vừa không tự hành khổ ḿnh, không chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người; ngay trong hiện tại không có tham dục, không có khao khát, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, thân trú vào Phạm thể?

 

Householders, which one does not torment his self or others and is unyoked? Is here and now appeased, cooled and abides in pleasantness like Brahma?

 

^^^^^^^
 

 

.

Ở đây, này các Gia chủ, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài đă chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh ḷng tín ngưỡng Như Lai. Khi có ḷng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Đời sống gia đ́nh đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ ǵ cho một người sống ở gia đ́nh có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
Vị ấy xuất gia như vậy, hành tŕ các học giới và hạnh sống của các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hăi, có ḷng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu t́nh. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật đă cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.
Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều ǵ ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều ǵ ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống ḥa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ ḥa hợp, hoan hỷ trong ḥa hợp, thích thú trong ḥa hợp, hân hoan trong ḥa hợp, nói những lời đưa đến ḥa hợp. Vị ấy từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhă, đẹp ḷng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ư nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được ǵn giữ, những lời hợp thời, hợp lư, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc tŕnh diễn; từ bỏ không dùng ṿng hoa, hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt giống; từ bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, ḅ, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự ḿnh làm môi giới; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Vị ấy sống biết đủ, bằng ḷng với tấm y để che thân với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và b́nh bát). Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng ḷng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm.
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ, v́ con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân ấy, hộ tŕ con mắt, thực hành sự hộ tŕ con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ư nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân ǵ, v́ ư căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ ư căn, thực hành sự hộ tŕ ư căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ tŕ các căn này nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm.
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nh́n thẳng, khi nh́n quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, b́nh bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ tŕ các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.
Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, ḷng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh hữu t́nh, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do dục sanh, với tầm với tứ.
Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy vị ấy nhớ đến những đời sống quá khứ, cũng với các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rơ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: "Đây là Khổ", tuệ tri như thật: "Đây là Khổ tập", tuệ tri như thật: "Đây là Khổ diệt", tuệ tri như thật: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt" tuệ tri như thật: "Đây là những lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Đây là Con Đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Vị ấy tuệ tri: "Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, việc cần làm đă làm; sau đời hiện tại, không có trở lui đời sống này nữa".

 

Householders, the Thus Gone One is born in the world, perfect and rightfully enlightened, ---- dispelling the five hindrances and making the minor defilements weak, he secludes the mind from sensual desires and thoughts of demerith. With thoughts and thought processes, and with joy and pleasantness born of seclusion abides in the first jhàna-the second jhàna-third jhàna, ---fourth jhàna, -- When the mind is concentrated, pure without blemish free of minor defilements workable and malleable and is steady, he directs the mind to know previous births. Reflects innumerable previous births. -When the mind is concentrated, pure without blemish free from minor defilements, workable malleable and steady, he directs the mind to know the disappearing and appearing of beings. With the heavenly eye purified beyond human he sees beings disappear and appearnot exalted and exalted, beautiful and ugly, good and bad. Knows beings according their actions. When the mind is concentrated, pure, without blemish free from minor defilements, workable malleable and steady directs the mind for the destruction of desires. He knows as it really is, this is unpleasant---- knows the path to the cessation of desires as it really is. When he knows and sees thus, his mind is released from sensual desires released from the desires `to be' and released from the ignorant desires. When released knows I'm released. I have destroyed birth. The holy life is lived, what should be done is done, there is nothing more to wish.

 

^^^^^^^
 

 

Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là hạng người không tự hành khổ ḿnh, không chuyên tâm tự hành khổ ḿnh, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người; ngay trong hiện tại, không có tham dục, không có khao khát, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngă trú vào Phạm thể.

 

Householders, this one does not torment himself or others, is unyoked. Is here and now appeased, cooled and abides in pleasantness like Brahma.

 

^^^^^^
 

 

Khi được nói vậy, các Bà-la-môn, gia chủ trú ở Sala bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện tŕnh bày giải thích. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama chấp nhận cho chúng con làm những người cư sĩ. Từ nay cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng.

 

When this was said the brahmin householders of Sala said thus to the Blessed One. ßGood Gotama, now we understand. It is like something over turned is reinstalled. Like something covered is made manifest. As though the path is told to someone who had lost his way. It is as though an oil lamp is lighted for the darkness for those who have sight to see forms. In various ways good Gotama has explained the Teaching. Now we take refuge in Good Gotama, in the Teaching and the Community of bhikkhus. May we be remembered as lay disciples who have taken refuge from today until life lasts.

___________

Ghi chú:

[1] The inquiring Teaching. `apaơơaka' This means to reflect the matter thoroughly and to choose the correct course of actions.

[2] There are no spontaneously arisen beings, recluses and brahmins,' Natthi sattà opapàtikà natthi loke samanabrahmanà sammaggatà sammàpa. tipannà ye imanca lokaü paraüca lokaü sayaü abhi¤¤à sajjhikatvà pavedenti ` These are the beings who have realised the Teaching spontaneously. That is the four paths and four fruits. `maggaphala' They are the eight Great Beings.

[3] There is another world (loka) Another world is the next birth. A world is a being who experiences the world through his six spheres of mental contact. So another world is another birth.

[4] All born are led to maturity and are born in the higher six and experiences pleasantness and unpleasantness. `sabbe bhåtà sabbe jăvà avasà abalà aviriyà năyàti sanghatibhava pari¤¤atà chassevàbhijàtăsu sukhadukkhaü pa. tisanvedenti' This means that the one born matures later and experiencing contacts through six doors of mental contact, feel pleasant and unpleasant feelings.

[5] My birth among material gods of mental nature could not be shown. `natthi sabbaso àruppàti sace tesaü bhavataü samana. brahmanànaü saccaü vacanaü. thànametam vijjati ye te devà råpino manomayà apa. n. nakamme tatruppatti bhavissati `These are the mental beings that enjoy the five strands of sensual pleasures. The heaven of the thirtythree gods is one of them.

[6] Birth smong the immaterial perceptive gods could not be shown. These gods do not enjoy the five strands of sensual pleasures. They are perceptive gods, like those who have developed the four divine abidings.

[7] There is a possibility that I should cease to be here and now'. thànametaü vijjati yaü di. t. thevadhamme parinibbàyissàmi' To be is to be wishing, imagining, and thinking of sensualthings, of material things and immaterial things. When this stops it is called cessation and extinction.

Trang: | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10

Trang trước    Trang kế 

--- o0o ---

Tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Cập nhật ngày: 01-31-2006

--- o0o ---

Xin gởi ư kiến bài vở đến TT Thích Giác Đẳng
Email:giacdang@phapluan.com

Cập nhật ngày: 01-31-2006