dieuphap.com
Hoan Hỉ Đón Chào
Chư Tôn Đức và Quí Phật Tử
Minh Hạnh biên soạn
Câu thảo luận số một: Sao gọi là y ca sa?
ĐĐ Uyên Minh: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư Tăng, kính thưa đại chúng. Trước khi giải thích câu này chúng tôi xin đi một vo`ng, tức là có một số các Phật ngữ, có một số chữ dùng trong nhân gian Trung Quốc và Việt Nam mà mi`nh dùng quen mi`nh cứ tưởng y' nghĩa gi` cao siêu lắm, nhưng nếu đi nghiêng cứu cội nguồn chút xíu thi` cũng chỉ bi`nh thường thôi, và có nhiều chữ dùng ở trong nhân gian chúng tôi nghĩ rằng có một lúc nào chúng ta để y' thi` chúng ta mới giựt mi`nh rằng những chữ mà chúng ta vay mượn từ những nền văn hóa khác,.
Đặc biệt là văn hóa Phật Giáo, thí dụ như chúng ta thấy bên Tàu có loại ngọc lưu ly, theo chỗ chúng tôi nghiên cứu được biết trước khi Phật Giáo du nhập, thi` ngọc lưu ly người Tàu không gọi là ngọc lưu ly, nhưng từ khi đạo Phật du nhập vào Trung Quốc buổi đầu, thi` Phật Giáo tạm được gọi là món ăn mang tánh cách quí tộc, là vi` Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc buổi đầu theo chân của một vài vị người Ấn, gọi theo người Tàu là Hồ Tăng xứ Tây vực, những vị này buổi đầu chỉ được các giới vua quan quyền chức biết đến thôi. Rồi thêm một cái nữa là người Tàu hay người Việt Nam ngày xưa chỉ có người có tiền ăn học tới nơi tới chốn, co`n phần nhiều dân nghèo thi` không được biết chữ biết nghĩa nhiều, mà muốn hiểu Đạo Phật thi` chúng ta cần cái nền tảng văn hóa căn bản của đạo Khổng, đạo Lăo v.v…
Muốn có được những kiến thức đó, chúng ta phải có một điều kiện ăn học tương đối kha khá một chút, cho nên từ kinh điển Phật Giáo, rồi ngôn ngữ Phật Giáo thi` trước hết được phát triển trong giới trí thức, rồi từ từ mới đi ra ngoài nhân gian. Tức là Phật Giáo du nhập vào Trung Quốc thi` từ ở trên đi xuống, chứ không phải đi ngang như đi vào Việt Nam, chúng ta phải nói rơ như vậy. Cho nên chữ lưu ly chẳng hạn cũng từ chữ Phạn (Pali) là chữ van.n.a tức là ngọc lưu ly, và cái hoa lài thi` trước khi Đạo Phật du nhập vào Trung Quốc, thi` Trung Quốc cũng có một từ khác để gọi, nhưng khi Đạo Phật du nhập vào thi` những người trí thức họ không muốn gọi hoa lài bằng tên cũ nữa mà họ gọi bằng hoa Mạc Lợi để chứng tỏ là mi`nh có học, và chữ Mạc Lợi tư` đâu nó ra, nó từ chữ Mallikà của chữ Phạn mà ra, chữ Mallikà là hoa Lài (Jasmine) nhưng đối với trí thức thi` họ thích dùng chữ đó hơn. Giống như ở Việt Nam, người Sàig̣n bây giờ có phong trào thỉnh thoảng họ nói chuyện họ vẫn pha tiếng Anh tiếng Mỹ vào trong đó để chứng tỏ là họ có học, cũng là người có nếp sống hiện đại chẳng hạn, thi` người Tàu thời xưa cũng như vậy, khi họ được nghe, được tiếp xúc với kinh điển, với Chư Tăng với kinh điển, với sách vở Phật Giáo, họ đi nghe giảng thi` cũng được thâm nhiễm phần nào trong đó.
Rồi chữ ca sa thi` từ chữ Phạn là kasava, kasava là màu, là tên của màu đà , có hai nguồn giải thích khác nhau, có nguồn giải thích rằng kasava này là màu vàng đất, rồi có một nguồn thi` giải thích rằng sở dĩ Đức Phật Ngài gọi y chư Tăng là y kasava là bởi vi` màu đất là màu căn bản, nó vừa giản dị và nó vừa không dơ, bởi vi` nó đă là màu đất cho nên nếu nó có dính đất thi` mi`nh nhi`n vào cũng không thấy, nhờ vậy đối với người tu hành cũng không bị khó khăn trong chuyện mi`nh bảo tri` lá y của mi`nh, mi`nh cũng ráng giữ sạch sẽ, nếu có đi những chuyến du hóa đường dài để khất thực chẳng hạn có bị mưa gió băo bùng nếu có bị dính si`nh dính đất thi` nhi`n cũng không đến nỗi là bẩn mắt, không có khó chịu cho đại chúng lắm bởi vi` căn bản thi` lá y của mi`nh đă giống màu đất vàng rồi, đó là một lối giải thích.
Giải thích khác mà chúng tôi được đọc, theo ông Hoành Sơn Hoàng Sơn Quí thi` ông nói rằng màu vàng đó, bởi vi` đây là kasava, là màu áo của người tử tù Ấn Độ xưa, người Ấn xưa thi` những người tử tù họ mặc màu áo kasava này, mà người tu chọn màu áo này là bởi vi` người đó luôn luôn sống trong tâm trạng của người tử tù là luôn luôn y’ thức được rằng chuyện đời là phù du, sống nay chết mai, những chuyện mà vinh nhục thành bại đắc thất trong đời này nó đều là chuyện mong manh như sương như khói, chính vi` vậy mà Đức Phật Ngài đă chọn màu này .
Tuy nhiên đó là lối giải thích mà chúng tôi đă đọc được ở các tài liệu và chúng tôi chia sẻ đến các vị mà thôi, chứ thật ra trong luật tạng thi` Đức Thế Tôn Ngài cho ba màu, chứ không phải chỉ có một màu, đó là màu vàng, màu đà, và màu đất. Và từ đó qua gio`ng chảy của lịch sử, qua thời gian, qua các điều kiện của xă hội, khi Phật Giáo du nhập vào các xứ do các điều kiện. Điều kiện không phải lúc nào cũng thoải mái dễ dàng, có nhiều khi màu vàng được biến thể ra nhiều màu vàng khác nhau. Nhiều khi chúng ta nhi`n vào trong một hội chúng chư Tăng, Đức Phật Ngài cho có ba màu thôi, mà trong một hội chúng chư Tăng thí dụ như 5, 7 chục vị mi`nh ngó kỹ kỹ hi`nh như 5, 7 màu lận, thi` chắc chắn là trong đó có những màu không đúng lắm.
Nhưng chúng ta cũng khó quá, bởi vi` do điều kiện mà thôi, chẳng hạn màu y mà chúng tôi thường mặc thi`không biết là gọi màu gi`, nhưng chúng tôi nhớ không lầm thi` người Mỹ gọi là màu creame yellow hoặc gọi theo Việt Nam thi` gọi là màu dưa cải, màu này TT Giác Đẳng cũng thường mặc và các vị Chư Tăng Thái Lan theo trường phái Đầu Đà trong rừng thi` các Ngài cũng mặc màu y này và những y này thi` thỉnh từ bên Thái do trường phái Đầu Đà mặc, co`n có một số vị mặc màu vàng, có một số thi` hợp với màu đà như chư Tăng Miến Điện chẳng hạn.
Chữ kasava chỉ là tên màu thôi chứ không có gi` hết, từ chữ kasava này các vị dịch kinh họ âm ra, chữ kasava không phải là chữ dịch, mà là chữ âm, cũng giống như Washington mà được âm thành Hoa Thịnh Đốn hoặc San Fransico âm thành Cựu Kim
Sơn.
Những chữ đó
cũng chỉ là chữ âm thôi, chứ không phải chữ
dịch. Thi` ở đây trong câu thảo
luận một, chúng tôi tri`nh bày y’ nghĩa của chữ ca
sa là như vậy. Tức
là bản thân của chữ ca sa không có gi` là cao siêu là đặc
biệt hết, chỉ là tên của một màu giống như
là xanh vàng đỏ trắng mà thôi chứ nó không có gi` hết,
cái quan trọng là Đức Thế Tôn Ngài đă cho phép các
vị Ty` kheo mặc ba màu trong điều kiện mà mi`nh có
được thi` được gọi là y ca sa, chứ đừng
có nghĩ rằng y ca sa này có y’ nghĩa gi` khác . Nam Mô Bổn
Sư Thích Mâu Ni Phật
Minh Hạnh biên soạn