HÂN HOAN ĐÓN CHÀO
Minh Hạnh biên soạn
Câu thảo luận số một : Tại sao
có lúc trong kinh điển tán thán quả phúc sanh thiên có lúc
lại không ?
TT Trí Siêu: Trong bài
kệ 417
Vượt trói buộc thiên giới
Bỏ trói
buộc nhân gian
Giải thoát mọi
buộc ràng
Ta gọi là
Phạm chí
Bản Việt dịch của TT Giác
Đẳng
Có một vấn đề mà chúng
ta thấy rằng đối với một vị giải
thoát, là một vị đă vượt
bỏ trói buộc của loài người và cơi trời, tức là đối với
một vị A La Hán, thi` sự trói buộc của nhân thiên mà vị đó đă cởi
bỏ, không dính mắc, ở đây chúng ta cũng đă
biết rằng các thiện nghiệp, các phước báu mà chúng sanh làm,
nếu như các phước báu đó, thiện nghiệp
đó hướng tâm đến sự giải thoát thi`
phước báu này nó sẽ là phước vô lậu sẽ
đưa đến sự giải thoát, co`n nếu như
hướng tâm đến cơi chư thiên, cơi nhân loại thi` phước báu đó sẽ trở
thành quả phước hữu lậu. Trong kinh điển thi` chúng ta
cũng gặp rất nhiều trường hợp, trong
những duyên sự khi
đề cập đến vấn đề phước
báu, vấn đề thiện nghiệp, đối với
người tại gia cư sĩ, Đức Phật vẫn tán thán
quả phúc sanh thiên,
như trong Pháp Cú kinh,
trong những bài kệ trong các phẩm đầu, chúng ta
gặp rất nhiều "Nay vui đời sau vui, làm
phước hai đời vui, người vui ta làm
phước, sanh thiện thú vui hơn." Thiện thú
ở đây là chỉ cho cơi người
và cơi
trời v.v...
Như vậy trong kinh điển vẫn đề
cập đến quả phúc cơi nhân thiên, Đức Phật
cũng có nhiều trường
hợp Ngài tán thán về việc làm thiện có quả phúc
sanh thiên. Như thế
tại sao tinh thần của bài kệ lại đề
cập đến trạng thái giác ngộ của một
vị ALaHán, là một vị vượt bỏ trói buộc
cơi
chư thiên và cơi người, có hàm y' rằng cái hạnh phúc nhân thiên là một
hạnh phúc trói buộc đáng phải thoát ly. Như vậy trong vấn
đề này xin được cung thỉnh TT Giác Đẳng làm
sáng tỏ để cho
chư Phật tử được biết rơ thêm,
để không có sự nghi ngờ có lúc tán thán, có lúc
lại không, xin cung thỉnh TT.
TT Giác Đẳng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật: kính bạch TT Trí Siêu và thưa đại chúng,
đây là một câu hỏi cổ điển, chúng ta
thường thấy những y' nghĩa như vậy
ở trong vô số trường hợp, và Đức
Thế Tôn có những lần nói chuyện với người cư sĩ, Ngài dạy
những hạnh phúc mà người cư sĩ có thể
hưởng thụ được, ở trong đó
thậm chí Ngài nói rằng, một con người sống
ở thế gian, có thể tạo ra được
tiền bạc, sự nghiệp do chính mồ hôi
nước mắt, do chính nỗi lực lương thiện của mi`nh, và hưởng
thụ được tài sản đó là một thứ
hạnh phúc, tức là hưởng thụ được tài sản do
chính mồ hôi nước mắt
của mi`nh làm ra nó là một thứ hạnh phúc. Những
ví dụ như vậy không
có nghĩa là Đức Thế Tôn Ngài khuyến khích người ta, tất cả mọi người nên đi làm, nên nỗ lực
làm việc để mà có được tài sản,
để rồi hưởng thụ, như vậy là cứu cánh là hết.
Bên cạnh đó chúng ta phải
hiểu rằng ở trong một giai đoạn nào đó,
ở trong bối cảnh nào thi` Đức Phật Ngài cho
chúng ta biết rằng ở trong trường hợp như vậy, cái
gi` là cái được, cái gi` là cái
không được. Cũng như chúng ta đi trong một cuộc hành tri`nh dài, dĩ
nhiên một người có thể cho
chúng ta biết rằng có những quán ăn, có những công
viên, có những nơi chúng ta nên ghé
lại, hay chúng ta có thể ghé lại để mà nghỉ
ngơi giải lao,
nhưng không
nhất thiết giữ lời khuyên này là đặc
biệt khuyên chúng ta nên trú lại ở tại đó,
hoặc giả tự nhiên chúng ta không đi, không chạy
đến chỗ đó để ti`m những thứ
đó. Có thể rằng
lời khuyên đó hợp ly’, chỉ cho một người làm cuộc hành tri`nh dài, lời
khuyên đó chỉ có ích cho một người cần sự nghỉ ngơi nhất thời,
rồi lại tiếp tục lên đường.
Cho nên người học Phật phải có y’ thức rơ là trong
những lời dạy được ti`m thấy
ở trong kinh điển, trong Phật ngôn, cái nào cái mang
tánh cách giai đoạn, nó mang tánh cách là tùy theo căn cơ của chúng sanh, tùy theo hoàn
cảnh, và cái nào mang tánh cách tuyệt đối. Ví dụ như khi Đức Phật Ngài giảng về Niết bàn,
ví dụ như Đức
Phật Ngài giảng về đạo quả, Ngài giảng
về giác ngộ v.v… thi` lúc đó chúng ta thấy được tư tưởng toàn diện của Đạo Phật, hay ít
nhất thỉnh thoảng chúng ta được dịp ngồi xuống để
bàn về giáo ly’ duyên sinh và duyên hệ.
Thật ra nó cũng là một cái
gợi y’ và tạo ra một sự tranh luận rất
lớn cho những thế hệ về sau này, có một
số truyền thống Phật Giáo như Phật Giáo bắc truyền,
đặc biệt nói rằng Đức Thế Tôn Ngài
đă dựa theo căn cơ tri`nh
độ của chúng sanh mà có lời dạy riêng biệt
cho những tri`nh độ cao và tri`nh độ thấp. Thật ra thi` không riêng
đối với một vị tri`nh độ cao và tri`nh
độ thấp, mà ở trong một bối cảnh
đặc biệt nào đó thi` Đức Phật Ngài
cũng có những lời dạy, mà những lời
dạy đó không nhất thiết chúng ta phải xem đó
là một cứu cánh. Lấy
ví dụ trong lục tạng, có khi Đức Phật Ngài
dạy vị ty` khưu nên đánh
răng cho sạch sẽ để ăn uống cho được ngon miệng
hơn, để
đời sống được lành mạnh
hơn, hoặc
giả Ngài dạy về việc ăn cháo sáng, ăn cháo nó
có những lợi ích như thế nào cho
sức khỏe, nhưng điều
đó không có nghĩa là Đức Thế Tôn cổ vơ
rằng việc ăn cháo nó phải là thứ giáo
điều mà mỗi con người phải
thực hành, và cũng không có nghĩa là mục đích dưỡng sinh, làm cho thân thể tráng
kiện, làm cho thân thể đẹp, để trở
thành cứu cánh.
Ngày
hôm nay người ta rất
dễ ti`m pháp môn nào đó, và người ta dựa trên pháp môn đó để biến
Đạo Phật trở thành một thứ tôn giáo chú
trọng về phương diện dưỡng sinh, chú trọng về phương diện huyền học v.v…Nhưng mà rồi trong một lời
dạy nào thi` phần lớn nó phải có contest của nó,
nó phải cho chúng ta biết mạch văn, bối cảnh
lúc đó Đức Thế Tôn Ngài đang dạy gi`. Thật ra thi` Đức Phật
Ngài có dung hi`nh ảnh cơi người cơi trời,
để cho chúng ta biết về giá trị của nhân
quả, thay vi` sanh vào cơi khổ, thi` con người có thể sanh vào cơi an
lạc. Cơi an lạc và cơi
khổ ở đây được hiểu như một cách giảng về ly’
nhân quả, để một người có thể y’ thức được rằng việc nào mi`nh nên làm,
việc nào không nên làm ở trong đời sống. Tuy vậy không có nghĩa qua
lời dạy đó Đức Phật Ngài dạy
rằng, những cơi an lạc như là cơi trời, cơi người. Cơi trời
như là dục
giới, sắc giới, vô sắc giới mà nó trở thành
cứu cánh giải thoát giác ngộ.
Nền văn hoá Tây phương đă đưa con người đến
một số cực đoan, chúng ta lấy ví dụ là
một giá trị nào mà ở trong nền văn hoá Tây phương cho rằng có giá trị thi` nó
vẫn có giá trị tuyệt đối, có những
thời mà người Tây phương họ cực lực chống
lại giới quí tộc, giới trí thức, họ
nghĩ rằng chỉ có những người lao động bằng tay chân, những người đó mới thật sự lương thiện, và bấy giờ thi`
họ đưa ra một
chủ trương là chỉ có
lao động mới vinh quang.
Lao động ở đây được hiểu như làm việc bằng tay
chân, làm cái gi` mà đem công sức mô hôi ra làm, và chẳng
những nó trở thành một thứ giáo điều,
một thứ chủ nghĩa, mà nó trở thành môt thứ
tiêu đề làm cho bao nhiêu người cuồng nhiệt, cảm thấy cuồng tín say xưa với thứ đó, rồi nó
gây ra bao nhiêu máu, bao nhiêu nước mắt cho
cả nhân loại. Nhưng rồi một lúc nào đó phương đông lại bừng tỉnh
lại, mới thấy rằng những giá trị đó
không phải là cứu cánh của nhân loại xă hội,
không phải con người sanh ra
chỉ để lao động. Mặc dù ở trên
một phương diện nào
đó mi`nh nói rằng một xă hội cần cù, kiệm ước, xă hội mà con người chịu khó làm việc phấn
đấu là một xă hội tốt.
Cũng như ngày hôm nay, thưa quí vị ,
Tây phương đang
cổ vơ về một xă hội tiêu thụ, đang cổ
vơ xă hội về kinh tế là ưu tiên, và chúng ta không khéo thi` chúng ta cũng bị lôi
cuốn vào trong đó, chúng ta
sẽ bị chết dễ dàng về những thứ
đó. Nền văn hoá tây phương là nền văn hoá cực
đoan,.
Phải nói rằng cái đạo
học của Đông phương là một
đaọ học ôn ḥa phải chăng, con đường trung
đạo, và đạo học đó vốn là một di
sản rất cao quí cho cuộc sống chúng ta, đạo
học đó nó là cả một cái kho tàng trí tuệ lớn
lao, nhưng người ta ít khi để y’ và thấy
biết đến. Thi` trong
trường hợp này
một lần nữa nhắc cho chúng ta thấy được cái giá
trị tương đối
của tất cả những thứ này. Một con người sống ở giữa thế
gian này có những vai tro` làm cha làm mẹ, làm thầy, làm
bạn, làm anh em, trong mỗi một vai tro` đó Đức Phật Ngài
đều dạy rằng có những bổn phận, và
nếu những bổn phận này chu toàn, thi` nó đem
lại cái đẹp, nó đem lại cái lợi lạc
về phương diện
đó. Nhưng điều
đó không có nghĩa khi Đức Phật Ngài dạy
về bổn phận làm chồng, bổn phận làm
vợ, Ngài dạy rằng tất cả mọi người phải xem đó là cái cứu
cánh, xem đó là cái ly’ tưởng duy nhất
ở trong cuộc đời này.
Ở đâu thi` nó ra đó, những lúc chúng ta rửa
chén thi` chúng ta đem hết tâm tư vào để sao rửa chén cho nó sạch, nhưng công việc rửa chén dĩ
nhiên nó cũng không phải là việc mà bao giờ chúng ta
cũng phải xem nó là thứ nghệ thuật cao quí, bao
giờ chúng ta cũng xem nó là một cái gi` mà con người phải đặc biệt
cổ vơ, và khi cổ vơ một cách quá đáng thi` nó đâm
ra ngớ ngẩn, đó là bịnh chung của xă hội
loài người.
Nên chi thưa quí vị, chúng tôi nhớ rằng ngày xưa khi Ngài Hoà Thượng Hộ Tông, Ngài co`n sinh tiền,
thỉnh thoảng có một số người, Ngài thường nhắc
rằng ráng làm phước để
sanh vào cơi trời, có nhiều người sau đó họ cứ đem chuyện đó ra
họ nói, như là chủ trương của Hoà Thượng Hộ Tông xuất gia
để được sanh làm chư thiên cơi trời, tri` giới
để được làm chư thiên cơi trời, bố thí
để được làm chư thiên cơi trời. Phải có sống gần Ngài,
phải có hiểu được cái gi` Ngài
dạy, ví dụ như một người Phật tử mà lúc nào sống
cũng khổ, lúc nào sống cũng tuyệt vọng, lúc
nào sống cũng phải khép kín tâm tư, tâm sự riêng của mi`nh, người đó nên làm phước, nên nghĩ đến nhân
quả, nên nghĩ đến một kiếp sau an lạc hơn, thi` lời dạy của Ngài
hoàn toàn có tính cách là khuyến khích.
Nhưng không có nghĩa vi` cách nói của
Ngài có hàm ư rằng, Ngài lấy cơi trời trở thành
cứu cánh.
Thi` thưa quí vị, với một người sống rất gần với mi`nh đă bị
hiểu lầm như vậy, thi`
nói gi` đến bậc Đạo Sư của chúng ta sống rất là xa. Do vậy Đức Phật Ngài
thường dạy chúng
ta nên có một cái nhi`n thông hiểu về y’ nghĩa một
cách tường
tận, chứ không phải chỉ có một câu, một
gio`ng mà chúng ta trích ra, mà qua đó chúng ta nói đến nó là
cứu cánh, nó là tất cả.
Tuy nhiên cũng phải
đặc biệt nói rằng điều này nó là bản
năng của con người, con người thường là đam mê với giá trị cực đoan con
người thích
khiến diện và con người rất cục bộ, chúng
ta ít có chịu có một cái nhi`n toàn diện, và vi` vậy
Đức Phật Ngài cũng đặc biệt lưu y’ chúng ta có một cái nhi`n mà Ngài
gọi là trung đạo, làm sao để có thể đi
tới, làm sao để có thể biết cái gi` là giai
đoạn, biết cái gi` là lâu dài, biết cái gi` là cứu
cánh, biết cái gi` chỉ là cái phương tiện, những thứ đó không phải dễ
dàng nếu không phải là bậc thiện trí . Đó là một vài chia sẽ
với câu thảo luận số một. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Minh Hạnh biên soạn