Hân Hoan Đón Chào
Chư Tôn Đức, Quí Phật Tử
Cùng Toàn Thể Đọc Giả Bốn Phương
Câu Pháp Đàm Số 264, Kệ Ngôn 15 , Ngày 07 Tháng 03 Năm 2004
Minh Hạnh thực hiện
Phẩm
01: Thiện Ác Phân Minh - Phẩm Song Yếu (Yamaka Vagga) - Kệ
ngôn 15
Kẻ
ác bị phiền muộn
Nay sầu, đời sau sầu
Kẻ ác hai đời sầu
Nó sầu khổ phiền muộn
Thấy nghiệp uế mi`nh làm
Việt dịch TT Trí Siêu.
TT Giác Đẳng giảng: Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư Tôn
Đức, kính thưa quí Phật tử, khi nói đến
nghiệp báo Đức Phật Ngài cho chúng ta biết rằng
mỗi một việc làm ở trong cuộc sống này,
điều đó là việc làm của thân, hay là lời nói
của khẩu, hoặc suy tư của y', nó để lại
nhiều vết tích và những vết tích này chúng ta khó có thể
nắm bắt được hết, khó có thể thấy
rơ được. Tuy vậy trong một cái nhi`n
bằng trí tuệ cũng như trong một cái nhi`n bằng
cái niềm tin vào nhân quả thi` chúng ta cũng có thể thấy
một phần, và chỉ một phần chúng ta thấy
được thi` cũng quá đủ để chúng ta
tin vào ly' nhân quả. Phải nói rằng có ít người ở trong cuộc
đời này họ chuyên làm ác, lại không thấy
được quả báo nhăn tiền ít nhất là về
phương diện tâm ly'.
Lịch sử của nhân loại dù rằng ở
trong thời xưa hay ngày hôm nay, luôn luôn có những thí dụ
rất cụ thể về điểm này.
Thưa
quí vị trong bài kệ hôm nay, khi chúng ta nghe Đức Phật
dạy về hi`nh ảnh của một người sống
trong cuộc đời này gọi là người ác, người
ác mà ở đây chúng ta dùng có chữ paapakaaŕi, có lẽ là một
điều rất dễ
định nghĩa, dễ định nghĩa nhất
đó là một người sống trong cuộc đời
này chuyên làm khổ chúng sanh khác bằng những hạnh nghiệp
của mi`nh, làm khổ đây có nghĩa là làm những gi`
như là sát sanh trộm cắp v.v...
Và nỗi đau khổ chúng ta nghe
Đức Phật Ngài dậy ở đây
"Nay sầu, đời sau sầu.
Kẻ ác hai đời sầu.
Nó sầu khổ phiền muộn.
Thấy
nghiệp uế mi`nh làm".
Cái nỗi
ám ảnh về nỗi đau khổ mi`nh làm, khi chúng ta hiểu
Đức Phật Ngài dậy rằng: một con người
làm ác thi` họ phải làm bằng một tâm gi` đó, mà
tâm đó chúng ta gọi là tâm bất thiện, chứ không thể
nào một người mà làm việc ác mà với tâm bi`nh
thường được.
Cái bản chất của tâm bất thiện nó có một
thứ Đức Phật gọi là những thứ phiền
năo nó nung nấu con người của chúng ta.
Thật
ra thi` trong quan niệm, cái nhi`n của cuộc sống có
đôi lúc con người không để y' và nghĩ rằng
tâm tư chúng ta lúc nào cũng giống nhau, thật ra tâm
tư không giống nhau, chúng ta không y' thức nhiều khi
chúng ta không y' thức nhiều về cơ thể, mi`nh cứ
nghĩ rằng thực phẩm nào được
đưa vào trong cơ thể những thực phẩm
đó nó không có gi` khác biệt hết, nhất là khi chúng ta vừa
mới lớn lên sống trong quốc gia thiếu thốn
chẳng hạn, hễ có ăn là quí rồi, nên chi, dầu
ăn ngọt, ăn mặn, đồ ăn ngon, ăn dở
gi` chúng ta thấy giống nhau.
Nhưng một lúc khi bắt đầu
cơ thể của chúng ta nó đă không co`n có thời gian
nó như vậy nữa, nó bắt đầu biết nhạy
cảm với thực phẩm thi` chúng ta sẽ thấy một
sự phân biệt rất rơ.
Có những thức ăn khi chúng ta đem vào cơ thể
thi` làm cho
cơ thể khỏe hơn, có những thức ăn làm cho cơ thể không được
thoải mái, và lúc đó chúng ta thấy rơ sự khác biệt
lớn giữa các thức ăn trong đời sống.
Thi`
thưa quí vị, tâm tư con người cũng vậy, ở
vào tuổi nào đó trong cuộc đời của chúng ta
thi` trạng thái của nội tâm không đáng để y',
chúng ta chỉ đuổi bắt theo những
gi` mà mi`nh muốn thôi. Lấy
ví dụ mi`nh thích thi` đi chùa, không thích thi` thôi, mi`nh thích
thi` đọc sách, bất cứ loại sách gi`, dầu
sách đó có tốt hay không tốt, dầu sách đó lành mạnh
hay không lành mạnh mi`nh cũng đọc. Nhưng
đến một lúc chúng ta thật sự đáng ngại
với đời sống nội tại, bấy giờ một
điều dễ dàng nhận thấy là trạng thái của
nội tâm đó nó có một ảnh hưởng to lớn, ảnh
hưởng đó có thể nói rằng hết sức dễ
dàng để thấy.
Ví dụ như người xưa họ có
câu nói rằng "kẻ sĩ mà ba ngày không đọc sách,
xem gương thấy mặt xấu xí." Nếu đời
sống của chúng ta trong một tuần lễ hay
mươi ngày mà không nghe pháp, không đọc kinh, không đọc
sách, không có những cuộc luận đàm một cách thú vị,
mà cuộc sống
trôi qua một cách tẻ nhạt, hay trôi qua một cách vô vị,
thi` tâm tư của chúng ta bấy giờ nó khác hẳn
đi. Phải tinh tế, phải
biết lắng nghe nội tại, phải biết lắng
nghe đời sống nội tâm thi` mi`nh mới thấy
đời sống khác biệt như vậy. Con người của chúng ta lúc
nào mà bận rộn nhiều quá, bận rộn với công
việc, chúng ta không có giờ phút để phản tỉnh,
không có giờ phút để có thể lắng đọng
tâm tư lại, để suy niệm những điều
cao quí. Thưa quí vị cái chất
liệu tâm linh nó giảm thiểu đi, thi` từ quan niệm
này chúng ta có thể
hiểu một cách rộng hơn là nó có những phiền
năo nội tại là phiền năo, tại vi` nó nung nấu.
Ở
đây mi`nh có thể hiểu một
điều như vậy là con người phần đông
ai cũng có trạng thái phiền năo như là tham, sân và
si. Tham là chúng ta ham muốn,
chúng ta bị dính mắc, chúng ta cảm thấy rằng có một
cái gi` đó nó đặt biệt lôi cuốn mi`nh và mi`nh bị
cột trói vào nó. Sân là trạng thái bất bi`nh, không có thoải mái,
bực dọc khó chịu trước điều trái y' nghịch
lo`ng. Và si được
hiểu trạng thái mê mờ tán loạn phân vân v.v... Những trạng thái đó làm cho tâm tư của
chúng ta trở lên muội lượt, trở lên thiếu sự
bén nhạy. Những trạng
thái đó rất thường ti`m thấy trong cuộc sống
của mỗi chúng sinh ở đời này, bởi vi` chúng ta đối diện với những
hoàn cảnh chung quanh, có cái thuận, có cái nghịch, có cái
được, có cái không được. Tuy nhiên những thứ này nếu
chúng ta không để y' thi` có thể cái đạt tới
cái cực điểm, trong cái cực đó nó có thể tạo
ra một thứ thưa quí vị, đó là nó có thể trở
thành một cái gi` đó gây ra bao nhiêu cái thương tổn
cho người khác, và dĩ nhiên không có nghĩa là gây
thương tổn cho chính mi`nh.
Phải nói rằng phiền năo mà không để
y' đến nó thi`nó có thể phát ra trong nhiều cách. Một con
người có tâm sân hay bất bi`nh với hoàn cảnh, nó
chỉ là một hiện tượng tâm ly' bi`nh thường,
nhưng nếu không khéo để y' nó có thể đạt
đến một mức độ tàn nhẫn và nó có thể
đem lại bao nhiêu sự thương đau, bao nhiêu khổ
lụy cho những người chung quanh, và lúc bấy giờ
nó trở thành một vấn đề mà Đức Phật
Ngài dùng chữ paapakaarii cho chữ ác. Và phiền năo mà nó càng
mạnh và nó càng được thể hiện bao nhiêu qua
thân qua khẩu thi` có một lúc nó ghi lại hai thứ: một
là nó để lại quả dị thục ví dụ
như đời sau sanh ra, kiếp sanh thức của chúng
ta nó là những quả của thiện và bất thiện
mà chúng ta làm, và những cái nghiệp đó nó cũng để
lại trong đời này bằng những cái dấu tích của
tâm ly' rất dễ hiểu.
Một
quyển sách, một bản nhạc nó có những như
hưởng co`n lại trong tâm tư của mi`nh, những như hưởng đó có thể
là ảnh hưởng nhiều năm tháng. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy
được có những người mà một hành động
họ làm ở một cực độ nào đó, nó có thể
bám sát lấy họ trong năm dài tháng rộng mà họ sống
đau khổ. Có nhiều
người nghĩ rằng mi`nh làm điều ác nhưng
mi`nh không thấy được đó là điều ác thi`
đâu có ly' do gi` phải hối hận, mà một người
không hối hận như vậy thi` họ có thể không
đón nhận cái quả của nghiệp ác, nhưng mà
thưa quí vị, khi làm việc bất thiện con người
bị nhiều bất hạnh, một trong những bất
hạnh lớn của con người khi làm việc bất
thiện là họ không làm tăng trưởng được
thiện pháp và có thể họ đào bứng tận gốc
rễ của mi`nh, những gốc rễ của thiện
pháp.
Khi
con người sống quá ác thường gây ra tổn
thương cho chúng sanh khác, thi` hạt giống thiện
không thể trưởng dưỡng trong mảnh đất
tâm linh của họ được, và như vậy nó
để lại khoảng trống, cái gi` là cái bù đắp
vào khoảng trống đó, thi` chắc chắn cái đó là
cái không tốt. Do vậy đối với cái nhi`n của
Đức Phật thi` chuyện nhân quả là một chuyện
rất rơ ràng, chúng ta không cần phải dùng tới Phật
nhăn, chúng ta không phải dùng thiên nhăn thông, túc mạng thông
để có thể ghi nhận hiện tượng nhân quả
để cụ thể rơ ràng, mà trái lại nếu chúng ta
tinh tế một chút thi` thấy rằng cái môi trường
nào, cái điều kiện nào mà thiện pháp có thể phát
triển được, và môi trường nào, điều
kiện nào thiện pháp không phát triển được,
môi trường nào, điều kiện nào mà bất thiện
pháp nó luôn luôn sanh xôi nẩy nở nó đều là khuynh
hướng của chúng ta hết.
Phải nói rằng ở trong cuộc sống
ngày hôm nay nó đă có rất nhiều thứ mà con người
không để y' thấy điểm này.
Chúng
tôi có nói chuyện với một số Phật tử cách
đây ba tuần lễ, khi chúng tôi sang thăm Florida lúc
đó thi` Thầy trụ tri` của chùa Phật Pháp đang
ở trong ti`nh trạng yếu lắm và chúng tôi cùng với
Ḥa Thượng cùng qua đó để gặp Thầy trụ
tri` lần sau cùng, nhân lúc thăm viếng Sư thi` chúng tôi
có nghe một Phật tử trong chùa tâm sự rằng:
" mặc dầu Sư trụ tri` sống ở trong chùa
đời sống có vất vả về chuyện Phật
sự, nhưng nếu xét lại thi` cuộc sống hạnh
phúc hơn cuộc sống cư sĩ rất nhiều", chúng tôi yên lặng
để lắng nghe tiếp tục lời nói của
người Phật tử đó, người Phật tử
đó tâm sự một việc, anh nói rằng cuộc sống
bên ngoài ở tại Mỹ này, sự cạnh tranh là một
cái gi` rất bi`nh thường,
và trong sự cạnh tranh nhất là cạnh tranh trong công
ăn việc làm đôi lúc nó trở lên rất tàn nhẫn,
một người đồng sở với mi`nh đôi
lúc mi`nh phải gạt người đó ra bên ngoài để
mi`nh chiếm lấy một địa vị nào đó, ở trong một xă hội kinh tế là
chủ đạo, ở trong xă hội mà sự cạnh
tranh là chuyện bi`nh thường và ai cũng nghĩ rằng
việc trù dập, chuyện đẩy người khác ra
bên ngoài để mà mi`nh chiếm đoạt một cách hợp
pháp, hợp pháp nghĩa là không vi phạm luật lệ gi`,
chỉ là sự cạnh tranh hợp pháp thôi, nghĩa là một
việc không có gi` đáng để quan tâm hết,
nhưng ngồi suy nghĩ lại
thi` mi`nh tạo ra rất nhiều nghiệp trong suốt cả
thời gian mi`nh làm việc như vậy.
Ở
bên này người ta thấy rằng một người có
việc làm, mi`nh đuổi sở một người nào
đó, nó không ảnh hưởng gi` hết, và anh cũng kể
cho chúng tôi nghe một vài kỷ niệm trong cuộc đời,
có đôi lúc ở trong địa vị của anh, anh
đă đuổi những người ra khỏi sở, bởi
vi` ly' do này, ly' do khác nhưng rồi sau đó khi nghe nói rằng
người đó thất nghiệp thi` nó ảnh hưởng
đến gia đi`nh của họ có thể bị tan nát
rồi có thể bị thế này thế khác, và anh nói rằng
suốt cả hai mươi mấy năm làm việc ở
đây ngồi xét lại thi`
anh thấy rằng đồng tiền được làm
nên mi`nh phải đánh đổi bằng quá nhiều cái
nghiệp mà vốn dĩ không có tránh khỏi.
Thi`
thưa quí vị, câu chuyện anh kể cho chúng tôi nghe,
đă làm cho chúng tôi suy nghĩ một điều rằng ở
trong một xă hội hay một nền văn hóa nào đó,
có những việc làm chúng ta thấy nó hoàn toàn hợp pháp,
nó không ảnh hưởng tới ai hết, nhưng rồi
nếu một người Phật tử hiểu đạo
suy tư thi` bấy giờ chúng ta dễ dàng để nhận
ra những thứ đó xă hội đă không cho chúng ta
được cái ánh sáng của trí tuệ, xă hội đă
không có những cảnh báo cần thiết cho chúng ta nghiệp
báo, đặc biệt là ở trong thời đại con
người quá ưu tiên về kinh tế. Nếu chúng ta lớn lên ở tại
miền duyên hải trong một làng chài, một làng đánh
cá, chúng ta lớn lên từ nhỏ ở đó, chúng ta không
bao giờ nghĩ
nghiệp đánh cá là một cái nghiệp ảnh
hưởng đến chúng ta như thế nào. Thậm trí mi`nh
lớn lên ở một nước chiến tranh việc sử
dụng súng đạn, việc giết người này, giết
người kia nó là một việc người ta thấy
nó không phải là một chuyện lớn.
Có những
lần chúng tôi xem những đọan phim tại xứ
Rwanda hay xứ Ethiopia ở tại Phi Châu, những trẻ
em mười hai mười ba tuổi được trang
bị súng đạn để trở thành một người
lính, những trẻ em đó có thể có cái nghiệp bạo
hành, có việc hết sức tàn nhẫn đối với
những người khác, bởi vi` trong tay mi`nh cầm
súng, nếu người kia là đối phương của
mi`nh, những người kia là những người khác bộ
tộc của mi`nh, thi` mi`nh có thể đánh, thậm tri'
có thể bắn ngay trước mặt ống ki'nh của
các ky' giả. Thi` thưa quí vị,
văn hóa của loài người nó vốn đă không có
đủ sự minh triết, không có đủ ánh sáng để
cho con người thấy đâu là thiện, đâu là bất
thiện, và chính vi` vậy có thể chúng
ta lớn lên trong nền văn hoá nào đó chúng ta sẽ bị
mù ḷa. Cái chữ mù ḷa ở đây chúng tôi muốn nói nó
tương tự như mi`nh nói color
blind tức là một số người họ không nhận
ra được màu đỏ, có một số người
họ không nhận ra được màu xanh, họ không thấy
được một số màu sắc nào đó.
Chúng
ta cũng bị mù ḷa đối với một số khía cạnh
nào đó của đời sống, tuy nhiên cái phản ứng
của nội tâm, cái tâm ly' của chúng ta, nếu một
người nào có thể ngồi lại suy nghĩ lắng
đọng thường xuyên thi` thấy rằng những
việc mi`nh làm nó có khi mang lại cho mi`nh nhiều hạnh
phúc và có những việc làm nó mang lại cho mi`nh nhiều nỗi
đau khổ. Và chúng ta càng tu tập thi` khả
năng bén nhạy về điều đó được
càng nhiều, nhờ vào sự bén nhạy đó chúng ta khả
dĩ có thể biết được ở trong một
điều kiện nào chúng ta an lạc và điều kiện
nào chúng ta không an lạc.
Theo trong kinh điển thi` chư vị Bồ Tát hoặc
giả bất cứ ai trên con đường hướng
cầu đạo quả giải thoát, một đức
tính giúp cho người đó rất nhiều, đó là lo`ng
đại bi hay sự bi mẫn hoặc sự bén nhạy
với nỗi đau khổ của chúng sanh của người
trong đời này, những ai thường xúc động
trước nỗi khổ của tha nhân, thường trắc
ẩn trước nỗi khổ của tha nhân thi` người
đó cũng là người có thể bén nhạy đối
với nỗi khổ trong tâm tư của mi`nh.
Một
người thiếu lo`ng đại bi thi` thường
thường người đó không có được cái
bén nhạy, người đó khổ mà mi`nh không thấy
được người đó khổ và mi`nh không có sự
cảm thông với người khác. Khi mi`nh không có sự cảm
thông với người khác, thi` điều đó có nghĩa
là rất ít khi mi`nh thấy nỗi khổ ở trong tâm
tư của mi`nh, và vi` mi`nh ít có thấy được nỗi
khổ trong tâm tư của mi`nh thi` thưa quí vị, chúng
ta không thấy được ảnh hưởng của
thiện và bất thiện ở trong cuộc sống của
chúng ta.
Cách
đây không lâu chúng tôi có xem một cuốn phim ở trên
đường phi cơ bay về Đài Bắc, trên máy bay
người ta có chiếu một cuốn phim, nếu chúng
tôi nhớ không lầm có tựa đề là Musa đó là cuốn
phim của Đại Hàn nói về tinh thần thượng
vơ của chiến sĩ: họ kể về một câu chuyện
thật của lịch sử và câu chuyện đó đă
được giàn dựng thành một cuốn phim đặt
biệt hết sức công phu, trong cuốn phim này nói về
một phái đoàn đi xứ từ Đại Hàn đi
sang Trung Quốc, khi qua những cửa ải đầu
tiên thi` không may là những vị quan giữ ải này đă
không có nhận ra tư cách ngoại giao của phái đ̣an
này, và họ đă có những việc làm hành hung khiến
cho phái đoàn gặp bao nhiêu cái chao đảo, bao nhiêu cái
khó khăn, rồi cuối cùng họ lại xen vào một
cuộc khủng hoảng giữa người Đại Hàn
với người Mông Cổ và quân đội của nhà
Minh, tức là Trung Quốc bấy giờ. Một điểm
mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy câu chuyện
đó, tức là MuLăng vị tướng của phái bộ
đó, vị
tướng này xuất thân trong gia đi`nh quyền hành, quyền
bính gọi là cực ky` tại Hán Thành. Vị tướng
trẻ này nguyên là người thừa kế địa vị
của cha mi`nh, cha của vị tướng
này ngày xưa cũng là chủ xoái, bây giờ vị tướng
này cũng là vị tướng cầm đầu một
phái bộ. Vi` co`n trẻ lại có sức mạnh và
được huấn luyện trong binh nghiệp từ thời
thơ ấu, nên vị tướng này trở nên một
người hết sức giỏi về chiến trường,
giỏi về đánh trận, nhưng phần lớn hữu
dơng vô mưu, thiếu kinh nghiệm chiến trường,
dầu có sức mạnh rất hơn người.
Tuy
nhiên với một cách chúng ta có thể ti`m thấy ở vị
tướng trẻ này là một người chỉ biết
ra lệnh và ra lệnh một cách độc đoán, ít có
khi có được cảm nhận của người
khác cho đến khi vị này thật sự đối diện
với những đau khổ gọi là tan nát cơi lo`ng, và
nhi`n thấy được sự hy sinh, nhi`n thấy sự
can đảm của những con người bấy lâu nay
vị này nhi`n bằng nửa con mắt thôi, tức là những
người thuộc hạ, thậm trí một vị dân giả đi theo
mi`nh mà họ hết sức can đảm, lấy ví dụ
như một người li'nh rất trẻ mà dám hy sinh
để chạy ra khỏi bờ thành để đi
đến một giếng nước đang bị canh
gác bởi quân đội nhà Nguyên để lấy nước
về giúp cho một thiếu phụ đang sanh nở mà
không có nước sôi để dùng. Thi` thưa quí vị, những hành
động như vậy đă làm cho tâm tư của vị
tướng trẻ này hiểu được phần nào về
con người và hiểu được chính mi`nh, nhưng
lúc đó không may là đă quá trễ rồi, nếu vị
này có thể hiểu trước kia như vậy thi`
đă không có những quyết định sai lầm, và khi
không có những quyết định sai lầm thi` vị
này đă có thể có những thành tựu lớn trong chuyến
đi đó.
Câu
chuyện của lịch sử là câu chuyện đă sang
trang và là câu chuyện của phim ảnh, dĩ nhiên người
ta cho nó nhiều kịch tí nh hơn chuyện đó chúng ta
không nói, tuy nhiên câu chuyện này cũng cho chúng ta thấy
được một sự kiện rất rơ là nếu
chúng ta có thể lắng nghe được cái vui cái khổ
ở trong lo`ng mi`nh, và đặc biệt chúng ta nhạy cảm
với cái vui cái khổ của người khác. Chúng ta biết vui theo cái vui của
người khác, và chúng ta biết trắc ẩn với cái
khổ của người khác, thi` chúng ta có một cái
cơ may rất lớn ở trong đời sống,
cơ may đó khiến cho chúng ta thấy được
cái mặt mũi, thấy được ảnh hưởng
của phiền năo của tham sân si, và nhờ như vậy
chúng ta có một nhân sinh quan khác hẳn đi.
Bài kệ
này trong đó có một đề nghị của Đức
Phật, đề nghị của Đức Phật về
niềm vui và nỗi khổ, đôi lúc cái vui, cái khổ nó
không phải là chuyện lớn trong đời sống
này. Người Trung Hoa có nói một
câu mà chúng ta nghe Đoàn Thị Điểm ghi lại ở
trong Chinh Phụ Ngâm chính là "Dặm nghi`n da ngựa, do
thái sơn nặng tựa hồng mao", mạng sống
của mi`nh có đôi khi nó nặng như thái sơn có khi nó
nhẹ tựa lông hồng, cái niềm vui nỗi khổ
trong người mi`nh, trong lo`ng của chúng ta, đôi khi nó
không phải là điều đáng nên để y', có đôi
khi thi` cũng nên xem rất thường, nhưng đôi khi
chúng ta cũng nên biết rơ. Biết
rơ thi` chúng ta có thể trở mi`nh
được, không phải lúc nào chúng ta cũng có một
thái độ quá nghiêm trọng, nhưng nếu chúng ta khéo
suy tư, thi` chúng ta thấy được cảm thọ
nó ảnh hưởng chúng ta như thế nào.
Có một
bài kinh gọi là Đế Thích Sở Vấn, và bài kinh
Đế Thích Sở Vấn trong đó Đức Phật
Ngài nói một cách tinh tế về một con người
mà lắng nghe lấy chính mi`nh, ví dụ là cái khuynh hướng
mà đạo Phật gọi là tầm, có những sự
hướng tâm nó mang lại cho chúng ta vui, mang lại cho
chúng ta khổ, mang lại cho chúng ta phiền năo hay không phiền
năo, những cái đó nếu chúng ta để y' thi` chúng ta
sẽ thấy nó khác, hoặc giả nếu chúng ta là một
thiền sinh đi vào trong trường thiền thưa quí
vị, đôi lúc một cái niệm nhỏ nó khởi lên
trong tâm và nó kéo sau cả cái vui, cái không vui, cái an lạc và
cái khổ đau, cái đó chúng ta cũng có thể ghi nhận
được rất rơ.
Chúng
tôi nhớ một vị thiền Sư, Ngài Mahasi lúc Ngài co`n
sinh tiền, ngài có nói một điều rằng "Một
hành giả trong bước chân đi kinh hành và nếu vị
này để y' được y' muốn của mi`nh, cái y'
muốn ngừng lại, cái y' muốn quay lại, nếu dừng
lại y' muốn đó bén nhạy thi` người đó sẽ
hiểu được cái gi` là cái vui khổ mà do tâm tư
của mi`nh tạo nên, đơn giản thôi thưa quí vị,
có những y' muốn nó mang lại cho chúng ta một áp lực,
áp lực này không phải từ bên ngoài mà tự mi`nh tạo
lấy và có những y' muốn nó cho chúng ta trở về với
sự thanh thản.
Thi`
nói chung nghiệp báo nó là một cái nguồn
máy hết sức li chi phức tạp, ở cái nguồn
máy đó có thể chúng ta không biết hết, quí vị có
thể lái xe mà không cần phải là thợ máy chuyên nghiệp,
quí vị không thể biết li chi từng chút một. Tuy nhiên nếu chúng ta biết
được một số nguyên tắc về bộ máy
hoạt động, thi` thưa quí vị chúng ta có thể
là một tài xế được, có thể lái xe được, chớ không cần phải
biết nhiều. Thi` nghiệp
cũng vậy, không cần chúng ta phải có Phật nhăn hay
chúng ta phải có thiên nhăn thông, để chúng ta thấy
được đầu mối của cái nhân này và quả
kia, kiếp này và kiếp khác, cái nhân quá khứ, quả hiện
tại, nhân hiện tại quả vị lai, chúng ta không cần
biết nhiều như vậy, nếu lúc đó chúng ta phải
ghi nhận đâu là vui, đâu là buồn, đâu là trạng
thái làm cho mi`nh được an lạc và trạng thái làm
cho mi`nh đau khổ, thi` lúc bấy giờ chúng ta có thể
hiểu được việc mi`nh làm nó có thích đáng hay
không, và việc đó có nên làm hay không.
Người Trung Hoa và Ấn Độ đều
có được một số gởi gấm ở trong nền
học thuật của họ liên quan đến kiếp
người. Người
Trung Hoa họ nói rằng nếu một người ở
tuổi lăo niên, tức là chúng ta nói trên 60 trở về sau
này mà không học được chữ nhàn, chữ nhàn giống
như trong Đạo Gia nói đến thi` người
đó có thể được xem như là người sống
mà thiếu sự suy tư về cuộc sống của
mi`nh, có nghĩa là một con người mà đă uống cạn
chung rượu đời, một con người đă
đi gần đến nấm mộ để chôn mi`nh mà
người đó vẫn chưa y' thức được
là mi`nh vui hay khổ, thi` điều đó là điều
đáng tiếc lắm, rất là đáng tiếc.
Với
người Phật tử thi` ở trong hiện tại
này chúng ta có thể nói một cách khẳng định rằng
cho dù chúng ta có làm điều thiện đó nó có cực nhọc
đến đâu, dù sự dấn thân của mi`nh phải
bắt buộc trả giá thế nào, thi` chúng ta cũng
đừng quyên rằng, một việc làm mà có y' nghĩa
thiện thật sự thi` nó phải có những phần
thưởng tinh thần, và trái lại nếu việc chúng
ta làm mà nó chỉ mang lại cho chúng ta những cái phiền
năo thi` chúng ta phải coi chừng, phải xét lại, đặc
biệt là chúng ta phải xét lại những gi` mi`nh làm có
mang lại hạnh phúc cho những người ở chung
quanh chúng ta hay không.
Ở
đây là một đề tài hết sức thú vị của
Đạo Phật, chúng ta nghe rất nhiều về tứ
đế và trong đó Đức Phật dạy sự
đau khổ là một tiền đề của chân ly',
chúng ta có thể gặp đau khổ để từ
đó hiểu được cái gi` nên làm, cái gi` mang tánh cách
cấp thiết để phải giải quyết ở
trong đời sống này, thi` ở đây một lần
nữa khổ đau do hạnh nghiệp bất thiện
mang lại nó cũng là cả một đề tài. Bởi vậy chúng tôi nhớ cách
đây khoảng chừng mươi năm, ở trong một
tập sách mỏng như là một tập san, đó là một
tập san có một bài viết của Hoà Thượng Minh
Châu ở trong đó Hoà Thượng có nói về Đạo
Phật bắt đầu bằng một cảm thọ và
chấm dứt bằng cảm thọ, chữ cảm thọ
ở đây, tức là chúng ta nói nên những cảm giác của
khổ lạc ưu hỷ xả, và cái cảm thọ
đó nếu chúng ta biết lắng nghe, biết ghi nhận
thi` chúng ta có thể thành tựu được những cái
thiện pháp ở trong đời sống, những cái
thăng tiến về mặt tâm linh và đây là đặc
điểm rất quan trọng ở trong Phật Giáo.
Người
Ky Tô Giáo thuờng nói đến một trạng thái là một
con người biết lắng nghe thượng đế,
lắng nghe thượng đế ở đây tức là
người đó có thể hiểu được con
người cái hư tật xấu của mi`nh qua cái sự
quan sát lắng nghe ở niềm vui nỗi khổ, ở trạng
thái thăng hoa hoặc là đọa lạc ở trong cuộc
sống này, thi` thưa quí vị người Phật tử
nói rất đơn giản, nếu chúng ta có một tâm tư nhạy bén với
nỗi khổ đau của đời sống, nỗi khổ
đau cố hữu như là nỗi khổ đau
được diễn tả ở trong tứ đế,
hoặc những khổ đau sầu muộn vốn do hạnh
nghiệp mang lại, thi`chỉ chừng đó nó đủ
là một ánh đuốt để soi đường cho
mi`nh đi, nên nếu chúng ta không có trong trường hợp
chúng ta sống hoàn toàn chỉ phản ứng thôi, có nghĩa
là chúng ta chỉ dành lộn thôi, tức là khi mà chúng ta vui, chúng ta buồn, chúng
ta chỉ biết phản ứng thi` đó là một điều
hết sức đáng tiếc.
Đôi
lúc mi`nh phải ngồi để nhi`n lại tại sao
mi`nh buồn, có thể mi`nh buồn bởi vi` mi`nh đă tạo
một việc bất thiện trong đời sống, hoặc
phiền năo nó nung nấu mi`nh, sự hối hận đă
tràn ngập v.v...Thi` lúc đó chúng ta thấy
thiếu vắng thiện pháp.
Hăy xem thiện và bất thiện như là những chất
liệu của đời sống, có những chất liệu
làm cho đời sống này được hoan hỷ,
được an lạc và có những chất liệu nó
như những độc tố, nó làm cho đời sống
bị tăm tối mù loà, bị nung nấu, nói những
điều này thi` chúng ta phải nói rằng nó là cả một
câu chuyện nhàm tai, và chúng ta nghe rất nhiều ở các tôn giáo, ở
trong cuộc sống hàng ngày, tuy vậy nó cũng là một
đề tài bị quên lăng nhiều nhất, bởi vi`
chúng ta không muốn suy nghĩ đến điều đó,
mi`nh chỉ muốn thoả măn với cái vui, cái buồn của
mi`nh, chúng ta chỉ muốn chống trả mănh liệt lại
với những gi` mà mi`nh gọi là đau khổ, cái gi` mà
bất bi`nh ở trong đó, chúng ta không chịu ti`m ra cái
nguyên nhân thật sự.
Nên chi cái giáo ly' nhân quả cho chúng
ta một cái nhân sinh quan khác, một nhân sinh quan sâu sắc
khác khả dĩ cho chúng ta một cái y' thức, từ y' thức
này mi`nh mới có thể đi tới
trên con đường giải thoát giác ngộ. Chúng tôi xin kết thúc bài pháp ngày
hôm nay ở tại đây, xin hồi hướng công đức
hôm nay đến tất cả chư
thiên, thiện thần hộ pháp hộ tri` cho Phật Pháp
được trường tồn, chúng sanh được
an lạc, và xin cho tất cả chúng ta luôn sống với
y' thức giác ngộ giải thoát. Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Minh Hạnh biên soạn
Mọi liên lạc xin gởi về Minh Hạnh