Hân Hoan Đón Chào
Chư Tôn Đức, Quí Phật Tử
Cùng Toàn Thể Đọc Giả Bốn Phương
Minh Hạnh thực hiện
Câu Pháp Đàm Số 263, Ngày 04 Tháng 03 Năm 2004
Ngày 04 tháng 3 năm 2004
TT Giác Đẳng:
Kính bạch TT Trí Siêu, chúng ta hăy thử nói về chữ
mangala ở đây một chút, mangala có nghĩa là điềm
lành, có nghĩa là dấu hiệu báo trước niềm hy
vọng. Bạch TT Trí Siêu, bài kinh này là bài kinh nói về
điềm lành, nói về dấu hiệu cát tường,
TT có nghĩ người Phật tử có một ly' do nào
chánh đáng để sống với niềm hy vọng
không? Chúng ta thường có quan niệm rằng sống với
hiện tại là một thượng sách của người
con Phật, nghĩa là tương lai là một cái gi` mờ
mịt không rơ nét, và chúng ta nếu sống lúc nào cũng
hướng vọng về tương lai, hoặc giả
là hoài niệm về quá khứ và tương lai. Quá khứ và tương lai đó,
đều là cái gi` không nằm trong tầm tay của mi`nh,
thi`nó tạo cho chúng ta bất an nhiều hơn hạnh phúc. Nhưng theo TT nghĩ chữ hy vọng
có chỗ đứng như thế nào ở trong đạo
Phật và chúng ta, người Phật tử, nói rơ hơn
là một người hành tri` Phật pháp có những điều
gi` ở tương lai mà chúng ta có thể ước vọng
được gọi là khả cầu, có những điều
gi` ở tương lai chúng ta có hy vọng nhiều, xin cho biết y' nghĩ của TT về
điểm này, xin thỉnh TT Trí Siêu.
TT Trí Siêu: Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch TT Giác Đẳng,
kính bạch Chư Tôn Đức, kính thưa quí Phật tử.
Ở đây chúng ta học kinh văn, kinh Hạnh Phúc, thưa
qúi vị, TT Giác Đẳng đă hỏi chúng tôi về y'
nghĩa của chữ hy vọng, người Phật tử
chúng ta sống thi` có hy vọng, và chữ hy vọng đó
có chỗ đứng trong kinh điển Phật Giáo hay
không, người Phật tử có nên sống với niềm
hy vọng hay không. Ở
đây thưa quí vị, chúng
ta tùy theo y’ nghĩa của chữ hy vọng, chúng ta mới xác định được
chữ hy vọng đó có chỗ đứng trong kinh điển
Phật Giáo hay không, người Phật tử có nên sống
vào sự hy vọng hay không. Ở đây có một đoạn
kinh trong Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya) Đức Phật Ngài
dậy rằng: " này Chư Ty` kheo, có 3 hạng người;
một người không hy vọng, một người có
hy vọng và một người hết hy vọng.
Người không hy vọng
tức là người có trí tuệ nhưng không chịu học
Phật Pháp, đó là người vô phần phàm phu, tại
vi` họ không thể nào thành tựu được Phật
quả, tuệ căn của họ không có, với sự
không chuyên cần, không nỗ lực, đó là những hạng
phàm phu không có hy vọng mặc dầu họ có trí tuệ,
nhưng họ không học nên không có hy vọng
C̣n người có hy vọng,
tức là chỉ cho bậc hữu học, Tu Đà Hườn,
Tu Đà Hàm, A Na Hàm là những bậc thánh chắc chắn sẽ
là trong tương lai, hoặc là nay mai, hoặc kiếp sau,
nhưng không quá bảy đời, cho nên người đó
gọi là người có hy vọng
Co`n người hết
hy vọng, tức là chỉ cho vị A La Hán, việc nên làm
đă làm, gánh nặng đă đặt xuống, phạm hạnh
đă thành, do đó cho nên đối với vị này không
đặt hy vọng ở sự giải thoát nào nữa, bởi
vi` quả vị giải thoát này là tối cao.
Đó là điều chúng ta
định nghĩa về vấn đề hy vọng theo như
trong bài kinh này Đức Phật đă dạy, thi` sự hy vọng
đó tức là đặt trên vấn đề khách quan,
nhi`n vào đối tượng đó chúng ta thấy người
đó có triển vọng được thành tựu hay
không được thành tựu, đó là trên phương diện
khách quan người ta đánh giá.
Co`n nếu nói trên phương diện hy vọng và nói
về vấn đề chủ quan, tự chúng ta hướng
đến mục đích, chúng ta ky` vọng tới trong
tương lai thi` đó là sự hy vọng chúng ta nói trên
phương diện chủ quan . Như trong Tăng Chi Bộ
kinh Đức Phật Ngài đă dạy.
Thực ra thi` không phải
chúng ta không có sự hy vọng, chúng ta sống phải có sự
hy vọng, phải có sự hoài băo. Chẳng hạn như
chúng ta biết rằng trong 4 pháp, tứ như y' túc
(iddhi-pàda), 4 pháp nền tảng để thành tựu thiền
định, đạo quả: Hoài băo (chanda), chuyên cần
(viriya), chủ y' (citta), thẩm sát (vim asà), thi` trong 4 pháp đó, pháp đầu
tiên là Chanda là diệt như y’ túc, thi` vẫn được
xem như một sự hoài bảo, một mơ ước,
một sự hy vọng.
Lại có câu Phật
ngôn nói rằng: khi chúng ta tu tập, mà chúng ta không có hoài băo,
không có ly' tưởng, không có sự hướng tới,
thi` chúng ta sẽ không làm gi` được, chúng ta sẽ
không bao giờ thành tựu được thiện pháp. Người Phật tử phải
tu tập, họ phải có một cái gi` đó hướng
đến mục đích trong tương lai, như vậy
mới thôi thúc cho họ có thể thành tựu được
công việc. Co`n nếu như
không có hoài băo làm, làm chỉ để có làm chớ không
mơ ước gi` cả thi` nó sẽ không thành tựu
trong thiện pháp nếu chúng ta sống như thế.
Trong bài kinh Thánh Cầu,
ở đây chúng ta cũng biết rằng đối với
kẻ phàm phu, họ bị sanh, bị già, bị bịnh, bị
chết, bị ô nhiễm mà họ đi tầm cầu cái
cũng bị sanh. bị già .bị bịnh. bị chết.
bị ô nhiễm, thi` Đức Phật nói rằng đây là sự
tầm cầu của phi thánh của kẻ phàm phu. Co`n Đức Phật là bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài biết và Ngài không muốn bị
sanh, bị già, bị bịnh, bị ô nhiễm, Ngài mới
hướng tầm cầu cái không bị sanh, không bị
già, không bị bịnh, không bị chết, tức là Niết
bàn, thi` sự tầm cầu đó được gọi
là Thánh cầu
Ở đây xuyên qua những điều
chúng tôi có tri`nh bày, thi` sự mong cầu một mục
đích, một ly' tưởng như ly' tưởng giải
thoát đó, mục đích đó phải là đưa đến
sự giải thoát hay lành mạnh,
mục đích lành mạnh thi` điều đó mới nên. Co`n nếu chúng ta tầm cầu,
hay chúng ta không hy vọng
được đạt điều đó thi` không nên. Và ở đây thưa quí vị
trong lúc chúng ta tu tập, chúng
ta chưa thật sự hành tri` giới, và định, chúng ta lại có sự vọng cầu
mong mỏi với mục đích chúng ta chưa có nắm chắc
được, thi` sự mong cầu đó sẽ khiến
cho vị hành giả trở thành bị thất niệm.
Cho nên chúng ta cũng cần
phải hiểu rằng: quá khứ không truy tầm, tương
lai không vọng tưởng, chỉ sống với hiện
tại v.v.. Thi` bài kệ đó Đức Phật Ngài đă
dạy cho một vị hành giả đang tu tập, đang
có chánh niệm gắn bó với thiền quán của mi`nh,
thi` trong trường hợp đó với mục đích
cao cả này chúng ta không cần phải sợ hăi. Chúng ta có nên sống với y’ tưởng
hy vọng hay không, chúng ta phải đặc trường hợp
là có mục đích giải thoát thi` mới nên hy vọng. Co`n nếu như chúng ta chỉ
ngồi đó mà cầu nguyện, mà van xin khấn vái thi` điều
này nó sẽ không bao giờ thành tựu, thi` chúng ta đừng
bao giờ có sự hy vọng. Thi` ở đây chúng tôi xin trả
lời như vậy. Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Mọi liên lạc xin gởi về Minh Hạnh