Phẩm
24:
Khao Khát - Phẩm Ái (Tanhà-Vagga) -
Dẫn Nhập |
||
1. Xin phân biệt rơ ư nghĩa của các từ lobha (tham), tanhà (ái), kàma (dục), ràga (nhục cảm) và chanda (ước muốn)
2. Khát vọng là chủ lực dẫn đạo muôn thuở của chúng sanh, đời sống sẽ ra sao nếu không có khát ái?
3. Quan niệm diệt dục của một số các tôn giáo Đông phương có ǵ khác với Niết bàn trong Phật pháp?
4. T́nh thương của ḷng từ và của ái luyến khác nhau thế nào?
5. Vai tṛ của Ái trong kinh Phật có ǵ trùng hợp với ư chí theo quan niệm thường thức?
|
Bài đọc thêm |
|
Chân lư thứ hai là chân lư về sự phát sinh hay nguồn gốc của dukkha (Dukkhasamudaya - ariyasacca). Định nghĩa danh tiếng và thông dụng nhất về chân lư thứ hai, được t́m thấy trong rất nhiều bản kinh nguyên thủy như sau: "Chính là ḷng ái (tanhà) đă phát sinh sự tái sinh, đă được dính liền với sự thèm muốn đam mê, và đă t́m lạc thú nay chỗ này mai chỗ khác, nghĩa là: 1) khao khát đối với khoái lạc giác quan (dục ái - kàma-tanhà) 2) khao khát hiện hữu và trở thành (hữu ái - bhava-tanhà) và 3) khao khát sự không hiện hữu (diệt ái; tự hủy diệt - vibhava-tanhà)." Chính sự khao khát này, ham muốn, dục vọng, thèm thuồng, xuất hiện dưới nhiều h́nh thức - đă làm phát sinh mọi h́nh thái khổ đau và sanh tử. Nhưng không nên xem đấy là nguyên nhân đầu tiên, bởi lẽ không thể nào có một nguyên nhân đầu tiên v́, theo Phật, mọi sự vật đều tương quan tương liên (phụ thuộc lẫn nhau). Ngay cả ḷng "ái" (tanhà) được xem như nguyên nhân hay nguồn gốc của dukkha, cũng tùy thuộc vào một cái ǵ khác để được phát sinh, và đấy là "thọ" (vedanà), và "thọ" phát sinh tùy thuộc vào sự "xúc" (phassa) và cứ thế nối tiếp nhau trên một ṿng tṛn mà thuật ngữ Phật học gọi là Duyên sinh (Paticca-samuppàda), mà ta sẽ bàn đến sau này (3). Như thế tanhà, "ái", không phải là nguyên nhân đầu tiên hay độc nhất của sự phát sinh ra khổ. Nhưng đấy là nguyên nhân trực tiếp và rơ rệt nhất, nguyên nhân chính yếu và điều phổ quát nhất trong những nguyên bản Pali, định nghĩa của Tập bao gồm cả những xấu xa bất tịnh khác, được thêm vào "ái" luôn luôn được nêu ra trước (5). Trong giới hạn bài này ta chỉ cần nhớ rằng trọng tâm của "ái" ấy là ư niệm sai lầm về ngă phát sinh v́ vô minh. Ở đây từ ngữ "ái" không những chỉ bao gồm sự ham muốn, ràng buộc với nhiều khoái lạc giác quan, tài sản và thế lực, mà c̣n là sự ham muốn, ràng buộc với những tư tưởng, lư tưởng, quan niệm, lư thuyết, khái niệm và những sự tin tưởng (dhamma-tanhà) (6). Theo sự phân tích của Đức Phật, tất cả mọi sự phiền năo và tranh chấp trên thế gian từ những sự gây gỗ vụn vặt trong gia đ́nh cho đến đại chiến giữa các quốc gia lănh thổ, đều phát sinh do ḷng "ái" vị kỷ này (7). Theo quan điểm ấy, mọi vấn đề kinh tế, chính trị và xă hội đều có cội rễ là ḷng tham vị kỷ. Những nhà đại chính khách muốn dàn xếp những tranh chấp quốc tế mà chỉ nói về chiến tranh và ḥa b́nh trong lănh vực chính trị và kinh tế th́ là họ chỉ đi phớt bên ngoài, và không bao giờ vào tận trong cội gốc đích thực của vấn đề. Như Đức Phật đă dạy Rattapàla: "Thế gian thiếu thốn, khát khao và bị nô lệ cho dục vọng". Ai cũng nhận rằng mọi xấu xa tệ đoan trong thế giới đều phát sinh v́ dục vọng ích kỷ. Điều này không khó hiểu, nhưng làm sao dục vọng, sự khát khao ấy lại có thể phát sinh ra sự tái sinh và luân hồi, là một vấn đề không phải dễ lănh hội. Chính ở đây mà chúng ta phải bàn đến khía cạnh triết lư sâu sắc của chân lư thứ hai, tương ứng với khía cạnh triết lư của Diệu Đế thứ nhất. Đây ta phải có vài ư niệm về thuyết nghiệp báo và luân hồi. Có bốn thức ăn (àhàrà) theo nghĩa nguyên nhân hay "điều kiện" cần thiết cho sự sống và tiếp tục của chúng sinh: Đoạn thực (kabalinikàràhàra): thức ăn vật chất thông thường, Xúc thực (phassàhàra): sự tiếp xúc của giác quan, kể cả ư thức, với ngoại giới, Thức thực (vinnà-nàhara) và Tư niệm thực (manosancetanàhàra): ư chí hay ư muốn của tâm thức (8) Trong bốn điều kiện trên, điều cuối cùng, tư niệm, chính là ư chí muốn sống, muốn tồn tại, tái sinh, tương tục, tăng trưởng (9). Nó tạo nên cội gốc của sự sống và tiếp tục, tiến tới trước bằng những nghiệp thiện, ác (kusalàkusalakama) (10), nó cũng như ư chí (tư - cetàna) (11). Ta đă thấy trước đây rằng ư chí là nghiệp, như chính Đức Phật đă định nghĩa. Nói đến tư niệm vừa kể trên, Đức Phật đă dạy: "Khi người ta hiểu tư niệm thực, người ta sẽ hiểu được ba thứ 'ái' (tanhà)" (13). Như thế những từ ngữ "ái" tác ư tư niệm và nghiệp tất cả đều ám chỉ cùng một điều: chúng ám chỉ dục vọng, ư muốn sống, tồn tại, tái sinh, trở thành, tăng trưởng, tích tụ, là nguyên nhân của sự phát sinh ra khổ và nó được t́m thấy trong hành uẩn, một trong năm uẩn cấu tạo nên một chúng sinh. Đây là một trong những điểm chính yếu và quan trọng nhất của giáo lư Đức Phật. V́ vậy chúng ta phải thận trọng để ư và nhớ rơ rằng: nguyên nhân, mầm mống của sự phát sinh ra dukkha là ở ngay chính trong dukkha chứ không phải ở bên ngoài. Đây là ư nghĩa của câu danh tiếng thường được thấy trong các nguyên bản Pali: "Yam kinci samudaya dhammam sabbamtam nirodha dhammam. Bất cứ cái ǵ thuộc về bản chất của sinh đều cũng thuộc về bản chất của diệt"(15). Một người, một vật hay một hệ thống, nếu có ở trong chính nó bản chất của sự phát sinh, h́nh thành, th́ cũng có luôn ở trong nó bản chất, mầm mống của sự chấm dứt và hủy diệt. Như thế dukka (ngũ uẩn) có trong nó bản chất của sự phát sinh ra nó, và cũng có luôn trong nó bản chất của sự chấm dứt của nó. Điểm này sẽ được bàn trở lại trong phần nói về Diệu Đế thứ ba (nirodha). Danh từ Pali "kamma" hay Sanskrit "karma" (từ gốc Skr nghĩa là "làm") có nghĩa "hành động", "làm". Nhưng trong lư thuyết Đạo Phật về Nghiệp, nó mang một ư nghĩa đặc biệt: nó chỉ có nghĩa là "những hành động do ư muốn", không phải tất cả mọi hành động. Nó cũng không có nghĩa "kết quả của Nghiệp" như nhiều người dùng một cách sai lạc. Trong thuật ngữ Phật học, chữ Nghiệp không bao giờ có nghĩa kết quả của nó, kết quả của nó được gọi là "quả" hay "nghiệp báo" (kamma-phala hay vipàka). Ư chí có thể tương đối thiện hay ác. Bởi thế nghiệp có thể thiện hay ác một cách tương đối. Nghiệp thiện (kusala) phát sinh thiện quả, ác nghiệp (akusala) phát sinh ác quả. "Ḷng tham", ư chí, nghiệp dù thiện hay ác đều có một năng lực đưa đến kết quả: năng lực tiếp tục - tiếp tục trong chiều hướng thiện hay ác. Dù thiện hay ác nó đều là tương đối, đều ở trong ṿng luân hồi. Một vị A La Hán, mặc dù có hành động, vẫn không dồn chứa nghiệp, bởi v́ vị ấy đă thoát khỏi ư tưởng sai lầm về ngă, thoát khỏi ḷng "tham" muốn tiếp tục và sinh thành, thoát khỏi tất cả mọi sự xấu xa bất tịnh khác (kilesà, sàsavà dhammà). Đối với vị ấy không c̣n luân hồi. Không nên lầm lẫn thuyết nghiệp báo với cái gọi là "công bằng luân lư" hay "thưởng phạt". Ư tưởng về công bằng luân lư hay thưởng phạt phát sinh do quan niệm về một thực thể tối cao, một thượng đế, ngồi phán xét và là một người ban luật lệ và phân định chánh tà. Từ ngữ "Công bằng" hồ đồ và nguy hiểm, nhân danh nó nhiều tai hại đă đến cho nhân loại hơn là lợi ích. Thuyết nghiệp báo là thuyết về nhân và quả, về hành động và phản ứng. Nó là một luật tự nhiên, không dính líu ǵ đến ư tưởng về công bằng hay thưởng phạt. Mọi hành động do ư muốn đều phát sinh kết quả hay hậu quả của nó. Nếu một hành vi thiện phát sinh những thiện quả và một hành vi ác phát sinh những ác quả, th́ đấy không phải là sự công bằng, hay thưởng, phạt do một người nào hay một quyền năng nào ngồi phán xét hành vi của bạn, mà đó chỉ là v́ bản chất của riêng nó, luật lệ của chính nó. Điều này không khó hiểu. Nhưng điều khó hiểu là, theo thuyết nghiệp báo, những kết quả của một hành vi tự ư có thể tiếp tục xuất hiện ngay cả trong một đời sống sau khi chết. Ở đây ta phải giải thích "chết" là ǵ theo Phật giáo. Chúng ta đă thấy trước đây rằng một con người không là ǵ ngoài ra là một sự kết hợp của những sức mạnh cùng năng lực vật lư và tâm linh. Cái mà ta gọi là "chết", là sự chấm dứt hoàn toàn những hoạt động của thân xác vật lư. Nhưng sức mạnh, năng lực này có cùng chấm dứt với hoạt động của thân xác hay không? Phật giáo trả lời "không". Ư chí, sự ham muốn, dục vọng, ḷng khao khát tồn tại, tiếp tục tăng trưởng, là một sức mạnh ghê gớm dời đổi toàn thể những đời sống, ngay cả dời đổi toàn thể vũ trụ, thế giới. Đây là sức mạnh lớn lao nhất, năng lực vĩ đại nhất trong hoàn vũ. Theo Phật giáo, sức mạnh này không dừng nghỉ cùng với sự chết của xác thân, mà lại tiếp tục biểu hiện trong một h́nh thức khác, phát khởi sự tái sinh mà người ta gọi là luân hồi. Bây giờ, một câu hỏi khác được đặt ra: Nếu không có một thực thể hay bản thể trường cửu bất biến như Ngă hay linh hồn (àtman), th́ cái ǵ là cái có thể tái sinh sau khi chết? Trước khi tiếp tục bàn đến đời sống sau khi chết, ta hăy xét đời này là ǵ, và nó đang tiếp tục ra sao. Cái mà ta gọi là đời sống, như ta đă nhiều lần nhắc lại, là sự kết hợp của năm uẩn, một sự phối hợp của những năng lực vật lư và tâm linh. Những uẩn này luôn luôn biến chuyển, chúng không c̣n là một (như cũ) trong hai giai đoạn liên tiếp. Chúng sinh và diệt mỗi lúc. "Mỗi lúc các uẩn phát sinh, suy giảm và chết, hỡi các tỳ kheo, là mỗi lúc các ông sinh ra, suy giảm và chết" (16) Như thế, ngay cả bây giờ, trong đời sống này, chúng ta được sinh ra và chết đi mỗi lúc, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục. Nếu ta có thể hiểu rằng trong đời này chúng ta có thể tiếp tục mà không cần có một bản thể trường cửu bất biến như Ngă hay linh hồn, th́ tại sao lại không hiểu được rằng chính những sức mạnh kia cũng có thể tiếp tục không cần một bản ngă hay linh hồn ở sau chúng, sau khi thân xác không c̣n điều hành? Khi thân xác vật lư này không c̣n hoạt động được, khi ấy những năng lực không chết theo với nó, mà tiếp tục nhận một h́nh dạng khác, mà ta gọi là một đời khác. Trong một đức trẻ, mọi khả năng vật lư, tâm linh và tri thức đều yếu ớt, nhưng chúng có sẵn tiềm năng để trở nên một người lớn đầy đủ. Những năng lực vật lư và tâm linh đă làm thành cái mà ta gọi là linh hồn ấy, có sẵn trong chúng khả năng nhận một h́nh thức mới, lớn lên dần và thâu thập sức mạnh cho đến khi đầy đủ. V́ không có bản thể trường cửu bất biến nên không có ǵ đi từ một lúc này đến lúc kế tiếp. Bởi thế, hiển nhiên không có cái ǵ trường cửu hay bất biến có thể đi hay luân hồi từ đời này đến một đời sau. Đấy là một chuỗi tiếp tục không gián đoạn, nhưng biến đổi từng giây phút. Chuỗi ấy thật ra không là ǵ ngoài ra sự chuyển dịch. Nó giống như một ngọn lửa cháy thâu đêm: nó không phải cùng là một ngọn lửa, cũng không phải khác. Một đứa trẻ lớn lên thành một ông già sáu mươi: dĩ nhiên ông già lục tuần không phải là một đứa trẻ sáu mươi năm về trước, nhưng cũng không phải là khác. Cũng thế, một người chết ở đây và tái sinh ở một nơi khác không phải cùng là người ấy, cũng không phải là khác (naca so na ca anno). Đấy là sự tiếp tục của cùng một chuỗi. Sự khác nhau giữa chết, sống chỉ là khoảng thời gian rất ngắn cho một niệm khởi lên: niệm cuối cùng trong đời này định đoạt niệm đầu tiên trong cái mà người ta gọi là đời sau, nhưng kỳ thực chỉ là sự tiếp nối của cùng một chuỗi liên tục. Ngay cả trong đời này cũng thế, một niệm này định đoạt niệm kế tiếp. Bởi thế trong quan niệm Phật học, vấn đề đời sau không phải là một huyền bí lớn lao, và một người Phật tử không bao giờ băn khoăn vấn đề này. Bao lâu c̣n sự "khát khao" trở thành, th́ ṿng luân hồi vẫn tiếp tục. Nó chỉ có thể ngừng khi nào sức mạnh điều khiển nó, sự khát khao ấy, bị chặt đứt nhờ trí huệ thấy rơ Thực tại, Chân lư, Niết bàn. Chú thích (1) Mhvg (Alutgama, 192), p. 9, VS (PTS), p. 421 và các chỗ khác trong sách. (2) Vedanàsamudayà tanhàsamudayo. M I (PTS), p.51. (3) Xem Chương VI, về Duyên sinh (4) Abhisamuc, p.43, pràdhànyràtha, sarvatragàrtha (5) Vibh. (PTS), p. 106 ff. (6) M I (PTS), p. 51, S II, p. 72, Vibh, p. 280 (7) M I, p. 86. (8) M I, p. 48 (9) Một điều thú vị khi so sánh "sự thúc đẩy của tâm ư" này vớI "libido" trong tâm lư học ngày nay. (10) MA I (PTS), p. 210. (11) Manosancetanà ti cetanà eva vuccati. MA I (PTS), p. 209. (12) Xem Chương II, về uẩn thứ tư ("Hành"). (13) S II (PTS), p. 100. Ba h́nh thức của "ái" hay khao khát: 1. Khao khát lạc thú giác quan (dục ái), 2. Khao khát sinh tồn và trở thành (hữu ái), 3. Diệt ái: khao khát hư vô, không hiện hữu như đă nói trong định nghĩa samudaya 'nguyên nhân của dukkha' ở trên. (14) Xem Chương II, về uẩn thứ tư ("Hành"). (15) M III (PTS), p. 280, SIV, p.p. 47, 107, Vp. 423 và những chỗ khác. (16) Prmj I (PTS), p. 78. "Khandhesu jayamànesu jiyamànesu miyamànesu ca khane khane tvam bhikkhujàyase ca jiyase ca miyase ca". Câu này được trích trong Luận Paramatthajotikà như là những lời của chính Đức Phật . Cho đến bây giờ biên giả chưa t́m được đoạn này trong nguyên bản của nó.
|