Phẩm 20: Hành Tŕnh Giác Ngộ - Phẩm Đạo (Maggavagga)
- Dẫn Nhập |
|
DẪN NHẬP PHẨM 20: ĐẠO Hành Tŕnh Giác Ngộ 1. Đạo là hành tŕnh hay điểm đến? 2. Chữ Đạo trong Phật Pháp có giống với chữ Đạo trong Lăo Giáo? 3. Đạo chứng được do nỗ lực hay ở tự nhiên? 4. Chữ Đạo dùng làm tên cho phẩm nầy có giống chữ đạo trong từ ngữ "Đạo Quả" ? 5. Người ta nói đạo vốn chỉ có một sao lại có "bốn đạo bốn quả" ?.
|
|
|
|
Bài Đọc Thêm
|
Trích từ
Tỳ kheo Khánh-Hỷ chuyển dịch
Theo truyền thống, Bát Chánh Đạo nói đến tám chi đạo như: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, v. v. Nhưng chân Bát Chánh Đạo ở trong chúng ta là: Hai mắt, hai tai, hai muĩ, một lưỡi và một thân. Tám cửa này là toàn thể Đạo (Con Đường); tâm con người đi trên con đường ấy. Biết những cửa này và quan sát chúng th́ tất cả giáo pháp sẽ hiện khởi.
Cốt tủy của Đạo rất đơn giản, chẳng cần phải giải thích dông dài: Vất bỏ yêu ghét, thản nhiên trước mọi chuyện xẩy ra. Đó là mục tiêu chính của việc hành thiền.
Đừng cố gắng trở thành cái ǵ. Đừng nhẩy vào bất cứ chuyện ǵ. Cũng đừng là một thiền sinh. Đừng mong giác ngộ. Lúc ngồi th́ hăy ngồi. Khi đi th́ hăy đi. Chẳng nắm giữ ǵ mà cũng không chống đối ǵ cả. Dĩ nhiên có hàng chục cách Thiền Định và nhiều phương pháp Thiền Minh Sát. Nhưng tất cả đều trở về chỗ: Hăy để mọi sự tự nhiên. Thoát ra ngoài chiến trường, đặt chân đến nơi an lành mát mẻ.
Tại sao không thử xem? Bạn dám không?
Đức Phật không muốn chúng ta đi con đường đôi. Một bên là tham ái, ch́m đắm, và bên kia là sợ hăi, ghen ghét. Ngài dạy chúng ta hăy tỉnh thức trước mọi lạc thú. Sân hận, sợ hăi, bất măn không phải là lối đi của thiền sinh. Đó là lối đi của người thế tục. Người an tịnh đi trên Trung Đạo, vất tham ái sang bên trái, và bỏ sợ hăi, ghen ghét sang bên phải. Người nào muốn thực hành, phải theo Trung Đạo: không nghiêng về lạc thú hay đau khổ mà chỉ đặt chúng xuống. Nhưng dĩ nhiên, thoạt đầu hơi khó. Chúng ta bị đá sang hai bên: lúc sang trái, lúc sang phải như quả lắc đồng hồ.
Khi Đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên, Ngài đề cập đến hai thái cực, v́ đó là nơi cư ngụ của tham ái. Ái dục, hạnh phúc đá sang bên này, đau khổ và bất toại nguyện đá sang bên kia. Cả hai luôn luôn gây phiền lụy và đau khổ. Nhưng khi đi trên Trung Đạo, bạn đặt cả hai xuống.
Nếu bạn theo hai thái cực này, bạn sẽ mất hết kiên nhẫn chịu đựng và sẽ bị hất ra ngoài khi luyến ái hay sân hận lôi cuốn bạn. Bạn c̣n mắc bẫy như vậy bao lâu? Hăy xét xem: Nếu bạn thích một thứ ǵ đó, bạn sẽ theo sau chúng khi yêu thích phát sinh và dĩ nhiên nó chỉ lôi kéo bạn đi t́m sự đau khổ thôi. Tâm luyến ái thật khôn ngoan và khéo léo. Rồi nó sẽ kéo bạn đi đâu nữa đây?
Đức Phật dạy chúng ta hăy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khóai lạc và đau khổ trên đường này, cũng không có thiện và ác, tốt và xấu. Than ôi! Con người đầy ái dục, chỉ muốn t́m khóai lạc, không chịu đi trên con đường của Đấng Đại Giác, con đuờng dành cho người đi t́m chân lư. Dính mắc vào hạnh phúc và đau khổ, tốt và xấu th́ không thể đi trên Trung Đạo, không thể trở thành người trí, không thể giải thoát.
Con đường của chúng ta rất thẳng, tĩnh lặng và chánh niệm; dù phiền muộn hay phấn khởi nẩy sinh, nó vẫn an tịnh. Nếu tâm bạn được như thế, bạn chẳng cần nhờ ai hướng dẫn.
Bạn sẽ thấy rằng, khi tâm không luyến ái, nó sẽ nằm ở trạng thái b́nh thường. Khi nó bị khuấy động bởi tư tưởng và cảm giác, tiến tŕnh cấu tạo nên tư tưởng sẽ diễn ra và ảo giác thành h́nh. Hăy học cách nh́n tiến tŕnh này. Khi tâm bị khuấy động, không c̣n ở trạng thái b́nh thường, nó sẽ ra khỏi sự thực hành đúng đắn để tiến đến một trong những thái cực của đam mê và ghen ghét, từ đó nó lại càng tạo ra nhiều ảo giác, nhiều tư tưởng hơn nữa. Nếu bạn tiếp tục quan sát tâm, suốt đời chỉ làm vậy thôi, tôi bảo đảm rằng bạn chẳng bao giờ buồn chán.
Nhiều người có tŕnh độ đại học, có bằng cấp tốt nghiệp và thành công trên đường đời, nhưng vẫn cảm thấy cuộc sống của họ thiếu thốn. Dầu có tư tưởng cao xa hay thông minh hoạt bát đến đâu đi nữa, tâm của họ cũng chứa đầy những thứ vô dụng và hoài nghi. Chim kên kên bay cao đấy, nhưng nó ăn những thứ ǵ?
Chân lư là sự hiểu biết vượt ra ngoài tính cách điều kiện, tổng hợp và giới hạn của khoa học thế gian. Dĩ nhiên trí tuệ thế gian có thể dùng vào những mục tiêu tốt đẹp. Nhưng trí tuệ của thế gian có thể đi ngược lại với tôn giáo và giáo dục. Cái hay cái đẹp của trí tuệ siêu thế là có thể sử dụng kỹ thuật của trí tuệ thế gian mà không bị dính mắc vào chúng.
Phải học phần căn bản trước. Đó là căn bản đạo đức, giới luật, thấy được sự giả tạm của cuộc sống, thấy được hiện tượng già và chết. Đó là nơi chúng ta bắt đầu. Cũng như trước khi biết đi, bạn phải biết lật, biết ḅ, rồi biết... lái xe, và sau đó, có thể lái máy bay du hành quanh trái đất.
Nghiên cứu sách vở không quan trọng lắm. Dĩ nhiên kinh điển là đúng, nhưng không diễn đạt hết chân lư. Kinh điển chỉ là ngôn từ, chữ viết, mà ngôn từ và chữ viết chỉ có khả năng diễn đạt giới hạn. Chẳng hạn như danh từ "sân hận" không thể diễn tả được trạng thái nóng nảy, giận hờn, cũng như nghe nêu tên một người nào đó, khác với gặp người ấy. Chỉ có kinh nghiệm của chính bạn mới đem lại đức tin thật sự.
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là tin tưởng một cách mù quáng vào Phật, Pháp và vị thầy -- thông thường là người đầu tiên hướng dẫn ḿnh hành thiền hay cho ḿnh xuất gia. Loại thứ hai là Chánh Tín -- đức tin chắc chắn, không lay chuyển, phát sinh từ sự hiểu biết của chính ḿnh. Mặc dầu vẫn c̣n những phiền năo khác cần vượt qua, người thấy một cách rơ ràng sự vật bên trong chính ḿnh, có thể dứt được hoài nghi, đạt được đức tin trong việc thực hành.
Bỏ hết ngôn từ sách vở, và tự ḿnh nhận thức
Việc thực hành của tôi không đặt nặng ở học hỏi hay nghiên cứu. Tôi lấy những lời dạy của Đức Phật làm căn bản và bắt đầu nghiên cứu tâm ḿnh một cách tự nhiên. Khi thực hành, bạn hăy tự quan sát ḿnh, cứ thế dần dần trí tuệ và tri kiến sẽ tự phát sinh. Nếu bạn ngồi thiền mà muốn được thế này, thế kia th́ tốt hơn nên dẹp đi đừng ngồi thiền nữa. Đừng kỳ vọng hay mang thêm một ư tưởng ǵ vào việc thực hành của bạn. Hăy xếp vào kho mọi ư niệm hay tư kiến của ḿnh.
Khi thực hành bạn dẹp bỏ tất cả ngôn từ, biểu tượng, dự định, kế hoạch, v.v. Có thế bạn mới tự ḿnh thấy được chân lư, v́ chân lư không ở đâu xa, nó khởi sinh ngay tại đây. Tôi đă học giáo pháp qua kinh điển trong những năm đầu tiên. Lúc ấy, khi có th́ giờ tôi thường đến nghe những học giả, những bậc thầy thuyết giảng, cho đến khi sự học hỏi này biến thành chướng ngại nhiều hơn là hỗ trợ, tôi mới ngưng học. Thực ra tôi đă không biết cách nghe giáo pháp, v́ tôi không nh́n vào bên trong.
Các bậc thiền sư này đă nói đến chân lư bên trong chính ḿnh. Khi thực hành tôi bắt đầu hiểu rơ là nó nằm ngay trong chính tôi. Một thời gian sau, tôi thấy rằng các thiền sư này đă thực sự thấy rơ chân lư, và nếu tôi đi theo con đường của các ngài, tôi sẽ gặp những ǵ mà các ngài đă nói đến; và lúc đó tôi sẽ có thể nói, "Vâng, các ngài nói đúng. C̣n ǵ nữa đâu?" Khi tôi kiên tŕ thực hành, tôi thấy quả đúng như vậy.
Nếu bạn thích ở trong Giáo Pháp th́ hăy xả bỏ, hăy để mọi chuyện diễn biến tự nhiên theo nó. Chỉ thuần học lư thuyết mà không thực hành th́ chẳng khác nào "bỏ h́nh bắt bóng." Không cần học hỏi nghiên cứu nhiều. Nếu bạn dựa vào những điều căn bản và thực hành theo, bạn sẽ tự ḿnh thấy giáo pháp.
Một hôm có một nữ giảng sư về môn Siêu H́nh Phật Giáo đến thăm Ngài Ajahn Chah. Bà giảng sư này dạy định kỳ ở Bangkok về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) và Tâm Lư Học Phật Giáo. Trong lúc nói chuyện với Ngài Ajahn Chah, bà giải thích cặn kẽ tầm quan trọng của sự hiểu biết Tâm Lư Học Phật Giáo đối với mọi người. Bà cũng cho biết là những học sinh của bà đă gặt hái được nhiều lợi ích khi học hỏi với bà. Bà hỏi Ngài Ajahn Chah có đồng ư với bà về tầm quan trọng của một kiến thức như thế không?
Ngài Ajahn Chah gật đầu đồng ư:
-- Vâng, rất quan trọng.
Hết sức hân hoan, bà hỏi tiếp là Ngài có chịu để cho học tṛ của Ngài học Vi Diệu Pháp không?
-- Vâng, dĩ nhiên.
Bà lại hỏi là Ngài muốn học tṛ Ngài học ở đâu và cuốn sách nào tốt nhất.
Ajahn Chah đưa tay chỉ vào quả tim ḿnh, nói:
-- Ở đây. Chỉ chỗ này thôi.
Chúng ta hăy nói đến sự khác biệt giữa việc Nghiên Cứu Giáo Pháp và Áp Dụng Giáo Pháp Vào Thực Hành. Chân Giáo Pháp phải học hỏi là: T́m một con đường để thoát khỏi sự bất xứng ư của đời sống và đạt được hạnh phúc, b́nh an cho chính ḿnh cùng tất cả chúng sinh.
Khi tâm an tịnh tức là nó đang ở trong điều kiện b́nh thường. Khi tâm di động th́ tư tưởng h́nh thành. Hạnh phúc hay đau khổ là một phần của tâm hoạt động này. Bất an và tham ái cũng được h́nh thành như thế. Nếu bạn không hiểu rơ chuyển động này, bạn sẽ săn đuổi đàng sau tư tưởng h́nh thành măi, và trở thành nạn nhân của nó.
Thế nên Đức Phật dạy chúng ta hăy quan sát hoạt động của tâm. Theo dơi tâm di chuyển, chúng ta có thể thấy được những đặc tính căn bản của nó. Đó là vô thường, bất toại nguyện và vô ngă. Bạn nên tỉnh thức và quan sát những hiện tượng tâm lư này. Bằng cách này bạn có thể học được tiến tŕnh của nhân duyên. Đức Phật dạy rằng: Vô minh là nhân phát sinh ra hành nghiệp và mọi hiện tượng. Hành nghiệp hay sự "chủ ư" này phát sinh ra Thức và Thức lại là nhân của Thân và Tâm. Đó là tiến tŕnh của Nhân duyên.
Khi bắt đầu nghiên cứu Phật Giáo, chúng ta thấy lối dạy theo truyền thống kinh điển đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta. Nhưng khi tiến tŕnh đă diễn ra bên trong chúng ta, chúng ta mới thấy rơ tầm quan trọng của sự thực hành. Những kẻ chỉ học pháp học mà không thực hành không thể nào theo kịp sự mau lẹ của tiến tŕnh này.
Dĩ nhiên tiến tŕnh của tâm được kinh điển hệ thống hóa và mô tả rơ ràng, nhưng kinh nghiệm vượt ra ngoài sách vở học hỏi. Sách vở không thể cho bạn biết "đây" là kinh nghiệm của si mê phát sinh, "đây" là những cảm giác phát sinh từ tác ư, "đây" là một loại tâm đặc biệt, "đây" là những cảm giác về sự khác biệt của thân và tâm. Cũng như khi bạn trèo cây và bị rơi xuống đất. Bạn không thể nào biết được là bạn đă rơi bao nhiêu thước, bao nhiêu tấc. Bạn chỉ biết bạn rơi xuống đất và thấy đau mà thôi. Không sách vở nào mô tả điều này.
Sách vở nghiên cứu Giáo Pháp được hệ thống hóa và làm cho rơ ràng, nhưng thực tế không chỉ đi theo một lối đi đơn giản. Bởi thế, chúng ta phải dùng trí tuệ sâu xa của chúng ta để nghiệm xem cái ǵ đă khởi sinh trong tâm kẻ giác ngộ. Kẻ giác ngộ hiểu biết qua kinh nghiệm của họ rằng tâm không phải là Ta, của Ta, không phải là Tự Ngă của ta. Khi nói cho chúng ta biết tên của các loại Tâm và Tâm Sở, Đức Phật không muốn chúng ta dính mắc vào ngôn từ. Ngài chỉ muốn chúng ta thấy tất cả đều vô thường, khổ và vô ngă. Ngài dạy hăy buông bỏ tất cả. Khi các pháp phát sinh ra hăy chánh niệm, biết chúng. Tâm thực hiện được sự ghi nhận, giác tỉnh này mới là tâm được huấn luyện đúng cách.
Khi Tâm bị khuấy động th́ nhiều loại tâm, tâm sở: tư tưởng, phản ứng, v.v., được h́nh thành và nẩy nở liên tục. Chỉ để chúng thế, tốt cũng như xấu. Đức Phật chỉ dạy đơn giản: "Vất bỏ hết." Nhưng đối với chúng ta th́ cần phải nghiên cứu tâm ḿnh để biết làm thế nào để có thể vất bỏ chúng.
Nếu nh́n những yếu tố của tâm, chúng ta sẽ thấy tâm đi theo một tiến tŕnh nhân quả tự nhiên: tâm sở như vậy, tâm sinh và diệt như vậy, v.v. Chúng ta có thể thấy ngay trong sự thực hành của chúng ta: Khi chúng ta có Chánh Kiến và Chánh Niệm th́ Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, theo sau. Người Giác Ngộ thấy rơ từng yếu tố của Tâm. Người Giác Ngộ chẳng khác nào một ngọn đèn. Nếu có Chánh Kiến, tức là có sự hiểu biết đúng th́ tư tưởng và những yếu tố khác cũng đúng, chẳng khác nào khi thắp đèn th́ ánh sáng sẽ phát sinh. Nhờ nh́n sự vật với Chánh Niệm, Chánh Kiến sẽ phát triển.
Khi quan sát cái mà ta gọi là Tâm, chúng ta chỉ thấy sự kết hợp của các yếu tố tâm khác nhau mà không có Tự Ngă. Vậy th́ ta ở đâu? Cảm giác, kư ức, tất cả năm uẩn của Thân và Tâm đang dời chỗ như lá cuốn theo cơn gió... Chúng ta sẽ khám phá ra điều này khi chúng ta hành thiền.
Thiền chẳng khác nào một khúc gỗ: Minh sát và suy xét ở một đầu, an tịnh và định tâm ở đầu kia. Nhặt khúc gỗ lên cả hai đầu đều lên cùng một lúc. Đầu nào là Thiền Minh Sát (Thiền quán)? Đầu nào là Thiền Định (Thiền chỉ)? Chỉ có tâm mà thôi!
Bạn không thể nào tách rời Định Tâm và Minh Sát. Chúng chẳng khác nào một trái xoài, lúc c̣n xanh th́ chua, rồi chín th́ ngọt, nhưng vẫn là trái xoài. Cái này sinh trong cái kia. Không có cái đầu tiên th́ không có cái thứ hai. Những từ ngữ như vậy chỉ là sự chế định để thông đạt. Chúng ta đừng dính mắc vào danh từ. Nguồn gốc của chân trí tuệ là thấy những ǵ ở bên trong chúng ta. Chỉ có loại học hỏi này có điểm cuối và là loại học hỏi về chân giá trị.
Sự an tịnh ở giai đoạn đầu tiên của Định Tâm phát sinh từ sự thực hành "Nhất Tâm." Nhưng khi sự an tịnh ra đi, chúng ta lại đau khổ, v́ chúng ta đă dính mắc vào nó. Đạt được sự định tâm không phải là điểm cuối v́ pháp hành cấu tạo và đau khổ vẫn c̣n hiện hữu.
Thế nên, Đức Phật lấy sự Định Tâm, sự an tịnh này để quán xét thêm nữa. Ngài đi t́m sự thật của vấn đề cho đến khi không c̣n dính mắc vào sự an tịnh nữa. An tịnh chỉ là một trong vô số những h́nh thành của tâm, nó chỉ là một chặng trên con đường. C̣n dính mắc vào sự an tịnh tức là c̣n dính mắc vào sự sinh thành và hiện hữu. Bởi v́ khi an tịnh chấm dứt, dao động lại bắt đầu khởi lên và bạn sẽ bị dính mắc nhiều hơn nữa.
Đức Phật tiếp tục xem xét sự sinh thành và hiện hữu để t́m ra nơi chúng phát sinh. Khi chưa t́m ra được sự thật của vấn đề, Ngài dùng tâm ḿnh quán xét thêm, xem xét mọi yếu tố của tâm, t́m xem chúng đă phát khởi như thế nào. Dầu có an tịnh hay không, Ngài vẫn tiếp tục xem xét cho đến khi Ngài hiểu rơ rằng: tất cả những ǵ Ngài thấy, tất cả năm uẩn của Thân và Tâm, giống như một thỏi sắt nóng đỏ. Khi thỏi sắt c̣n đang nóng đỏ, bạn có thể t́m được điểm nguội nào trên đó để sờ tay vào chăng? Năm uẩn cũng như vậy -- nắm chỗ nào cũng bị phỏng cả. Bởi thế, không nên dính mắc, dù đó là sự an tịnh hay định tâm đi nữa. Không nên nói rằng sự b́nh an tĩnh lặng là "Tôi" hay "Của Tôi". Nghĩ rằng "Tôi" hay "Của Tôi" sẽ phát sinh ảo tưởng đau thương về Tự Ngă -- thế giới của Tham Ái và Si Mê, tức là một miếng sắt nóng đỏ khác. Trong lúc thực hành chúng ta thường có khuynh hướng nắm giữ (chấp thủ), coi những kinh nghiệm đạt được là "Tôi" hay "Của Tôi." Và bạn nghĩ "Tôi an tịnh" hay "Tôi dao động", "Tôi tốt" hay "Tôi xấu", "Tôi hạnh phúc" hay "Tôi đau khổ". Sự dính mắc này là nguyên nhân của "Sinh thành" và "Hiện hữu". Khi hạnh phúc chấm dứt, đau khổ xuất hiện. Khi đau khổ chấm dứt, hạnh phúc xuất hiện. Bạn sẽ thấy chính ḿnh không ngừng phân vân giữa thiên đàng và địa ngục. Đức Phật thấy rơ điều kiện của Tâm là vậy, và Ngài hiểu đó là nguyên nhân sinh thành và hiện hữu. Tâm ở trong điều kiện đó nên sự giải thoát không hoàn thành được. Ngài bèn lấy những kinh nghiệm đó và quán xét chân tướng của chúng: Do có nắm giữ (chấp thủ) nên có Sanh và Tử. Trở nên hân hoan là sanh; trở nên thóai chí là tử. Có chết nên có sống. Sinh và Tử từ thời điểm này đến thời điểm kia, kế tục nhau không dứt, như một guồng bánh xe kéo chỉ quay không ngừng.
Đức Phật thấy rơ cái ǵ do tâm sinh ra cũng đều tạm bợ, là những hiện tượng có nhân duyên, thực sự trống rỗng. Khi ánh sáng trí tuệ này phát sinh, Ngài xả bỏ tất cả, không nắm giữ ǵ nữa và chấm dứt đau khổ. Bạn cũng vậy, phải hiểu những vấn đề này đúng theo chân lư. Khi hiểu rơ sự vật đúng theo chân tướng của nó, bạn sẽ thấy rằng những yếu tố tạo thành tâm thường đánh lừa bạn. Tâm chẳng có ǵ cả, không sinh ra cũng không chết đi. Nó tự do, chiếu sáng, chói lọi, rực rỡ, và không ǵ làm bận rộn nó cả. Tâm trở thành bận rộn chỉ v́ nó hiểu sai và bị mê mờ bởi những hiện tượng có điều kiện này -- đó là ư tưởng sai lầm về Tự Ngă. Thế nên, Đức Phật muốn chúng ta nh́n vào tâm ḿnh xem thử lúc đầu có cái ǵ. Thật ra chẳng có ǵ cả. Sự trống rỗng này không sinh và diệt theo hiện tượng. Khi chứa đựng điều tốt, nó không trở nên tốt. Khi tiếp xúc việc xấu nó cũng không trở nên xấu. Tâm trong sạch biết những đối tượng này một cách rơ ràng--biết rằng chúng không có bản chất.
Khi tâm của thiền sinh an trụ như vậy, sẽ không có hoài nghi nữa: Có trở thành không? Có sinh không? Khỏi cần hỏi ai! Quan sát những yếu tố của Tâm, Đức Phật để chúng tự nhiên và trở thành người tỉnh thức trước chúng. Ngài chỉ nh́n với tâm xả. Những điều kiện dẫn đến Sinh không c̣n hiện hữu ở Ngài. Với trí tuệ hoàn toàn của Ngài, Ngài gọi chúng là Vô thường, Khổ và Vô ngă. Bởi thế nên Ngài trở thành người hiểu biết chắc chắn. Người hiểu biết chắc chắn hay giác ngộ thấy sự vật theo chân lư, không hạnh phúc hay đau khổ theo những đổi thay của điều kiện. Đó là chân b́nh an, vô sinh, vô lăo, vô bệnh, vô tử, không tùy thuộc vào nhân quả hay điều kiện, vượt ra ngoài hạnh phúc và khổ đau, thiện và ác. Không c̣n cái ǵ để nói đến, không c̣n điều kiện nào để cải thiện nữa.
Do đó, hăy phát triển tâm định, an tịnh và minh sát, hăy học cách làm cho nó khởi dậy trong tâm bạn và thật sự dùng nó. Nếu không, bạn chỉ biết Phật giáo qua ngôn ngữ, danh từ. Mặc dầu khi hiểu rành pháp học, bạn có thể đi khắp nơi giảng giải cho mọi người biết giáo pháp, những đặc tính của cuộc đời; bạn có thể thông thái, hoạt bát, nhưng khi sự vật hiện khởi trong tâm, bạn có theo được chúng không? Khi tiếp xúc với vật ưa thích, bạn có tức khắc dính mắc vào nó không? Khi gặp chuyện bực ḿnh, người giác ngộ có giữ sự bực ḿnh trong tâm hay họ để nó ra đi? Nếu bạn thấy những điều bạn không thích mà vẫn nắm giữ hay kết án nó th́ bạn nên suy tư như sau: Như vậy không đúng đâu, không cao thượng đâu. Nếu bạn quan sát tâm như vậy, bạn sẽ thật sự hiểu chính ḿnh.
Tôi không dùng từ ngữ trong kinh điển để thực hành. Tôi chỉ nh́n vào kẻ giác ngộ. Nếu tôi ghét người nào, tôi hỏi tại sao? Nếu tôi không thương một người nào, tôi hỏi tại sao? Những ǵ khởi sinh hăy ḍ đến tận cội nguồn của nó th́ bạn có thể giải quyết được vấn đề yêu ghét và khiến chúng để bạn ở yên một ḿnh. Tất cả đều trở về và khởi sinh trong kẻ giác ngộ. Nhưng không phải chỉ nghe suông là đủ đâu, phải liên tục và quyết liệt thực hành mới được.
Giáo pháp dạy chúng ta hăy buông bỏ, nhưng thoạt đầu chúng ta tự nhiên bị dính mắc vào phần lư thuyết của giáo pháp. Người trí biết sử dụng lư thuyết làm công cụ để khám phá phần tinh hoa của cuộc sống.
Suốt thời gian viếng thăm Anh quốc lần đầu tiên, Ngài Ajahn Chah đă đến giảng dạy cho nhiều nhóm Phật tử. Một buổi tối nọ, sau phần thuyết giảng, Ngài nhận được một câu hỏi từ một mệnh phụ. Bà là người đă nhiều năm nghiên cứu sự phức tạp của tâm theo Vi Diệu Pháp. Bà hỏi ư Ngài có thuận giải thích cho bà một vài điểm khó khăn trong môn học này để bà có thể tiếp tục nghiên cứu một cách dễ dàng hơn không.
Thấy bà bị dính mắc vào sự hiểu biết lư thuyết và ngôn từ chế định mà không nhận ra được lợi ích của sự thực hành nơi chính tâm ḿnh, nên Ngài Ajahn Chah trả lời bà một cách trực tiếp và mạnh bạo:
-- Bà chẳng khác nào người nuôi gà trong sân, thay v́ nhặt trứng bà lại đi quanh sân để nhặt phân gà.
Mục đích của thiền là nắm sự vật lên và đưa vào pḥng thử nghiệm để rơ thực chất của chúng. Chẳng hạn, khi nh́n h́nh dáng của một vật, ta thấy nó xinh đẹp, trong khi đó Đức Phật dạy chúng ta: nó là bất tịnh, vô thường, và chất chứa đau khổ. Vậy quan niệm nào đúng theo chân lư?
Chúng ta như du khách đến viếng một xứ lạ. Không hiểu ngôn ngữ bản xứ nên chúng ta chẳng thấy thú vị. Nhưng một khi đă học nói, học nghe ta có thể cười và nói đùa với người bản xứ.
Quan điểm thông thường cho rằng những yếu tố của đời sống chúng ta, bắt đầu từ cơ thể, là ổn cố. Một đứa bé chơi bong bóng. Quả bóng vướng phải gai hay một vật nhọn, nổ tung; cậu bé khóc lóc tiếc nuối. Một cậu bé khác, khôn ngoan hơn, biết rằng bong bóng rất dễ vỡ nên không buồn rầu khi bong bóng vỡ. Con người đi vào cuộc sống như kẻ mù. Họ quên cái chết như người tham ăn, ngốn vào bụng thật nhiều thức ăn khóai khẩu mà chẳng nghĩ rằng ḿnh phải bài tiết. Đến khi đau bụng, v́ không dự liệu trước, nên chẳng biết phải chạy đi đâu.
Thế gian đầy hiểm nguy, hiểm nguy từ những yếu tố của cuộc sống, hiểm nguy từ những tên trộm. Trong chùa chiền cũng có những mối hiểm nguy như vậy. Đức Phật dạy chúng ta truy tầm những mối hiểm nguy này và đặt tên "Bhikkhu" cho người xuất gia. Bhikkhu có hai nghĩa: người đi xin, và người thấy được hiểm nguy tham ái trong luân hồi. Chúng sanh đầy tham lam, sân hận, si mê. Bị ba loại phiền năo này chế ngự nên họ phải nhận lấy quả, gia tăng thói xấu, tạo thêm nghiệp, và lại bị ngă quỵ trước phiền năo.
Tại sao không thể loại bỏ tham, sân, si ? Nếu bạn có tư tưởng xấu, bạn sẽ đau khổ. Nếu bạn có sự hiểu biết đúng, bạn có thể chấm dứt đau khổ.
Phải biết hiệu lực và sự tác động của nghiệp, của nhân và quả. Dính mắc vào khóai lạc sẽ nhận lấy quả khổ. Ăn quá độ thức ăn ngon th́ dạ dày và ruột sẽ phản ứng và bạn sẽ nhận lấy hậu quả sau đó. Bạn vui mừng khi lấy trộm của ai vật ǵ; nhưng sau đó cảnh sát sẽ c̣ng tay bạn. Khi quan sát theo dơi, bạn sẽ biết cách hành động, sẽ biết cách chấm dứt sự nắm giữ và phiền muộn. Đức Phật thấy được điều này nên cương quyết thoát khỏi mọi hiểm nguy thực sự của thế gian.
Muốn thoát khỏi mối nguy hiểm của thế gian này, phải chế ngự những mối hiểm nguy bên trong chúng ta. Hiểm nguy bên ngoài không đáng sợ bằng hiểm nguy bên trong. Những hiểm nguy bên trong gồm: Gió, Lửa, Nước, và Những Tên Trộm.
Gió: Gió đến từ giác quan của chúng ta, thúc ép tham lam, sân hận và si mê khởi dậy, hủy diệt phần bên trong tốt đẹp của chúng ta. Thông thường chúng ta chỉ thấy gió khi gió thổi lá cây, không thấy được gió của giác quan. Gió giác quan này nếu không được theo dơi sẽ gây ra băo tố tham muốn.
Lửa: Chùa chúng ta có thể chẳng bao giờ bị hỏa hoạn. Nhưng tham lam, sân hận, si mê đốt cháy chúng ta luôn khi. Tham ái và sân hận khiến chúng ta có ngôn ngữ sai lầm. Si mê khiến chúng ta thấy thiện ra ác, ác ra thiện, xấu thành tốt, không có giá trị thành có giá trị. Những người không hành thiền th́ không thấy được nên bị lửa đốt cháy.
Nước: Mối hiểm nguy ở đây là lũ lụt phiền năo trong tâm chúng ta, nhận ch́m bản tính thực sự của chúng ta.
Trộm: Những tên trộm chính tông không ở ngoài chúng ta. Chùa chúng ta trong ṿng hai mươi năm nay chỉ bị trộm một lần. Nhưng năm nhóm đạo chích của tham ái, ngũ uẩn, đă luôn luôn trộm cắp, đánh đập ta, hành hạ ta đủ điều.
Năm uẩn này gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức.
1. Sắc: (hay Thân) là mồi của bệnh hoạn và đau nhức. Khi nó không hợp với ư muốn của chúng ta, chúng ta sẽ sân hận và phiền muộn. Không hiểu được bản chất già và bản chất suy tàn của cơ thể nên chúng ta bị đau khổ. Chúng ta cảm thấy bị lôi cuốn bởi cơ thể kẻ khác hay có ác cảm với cơ thể của họ là ta đă bị cướp mất sự an lạc thật sự.
2. Thọ: (hay Cảm giác) Khi đau nhức hay thích thú phát sinh, chúng ta quên rằng chúng là vô thường, khổ và vô ngă. Chúng ta đồng hóa ḿnh với những xúc động của ḿnh và như vậy là chúng ta bị hành hạ bởi sự hiểu biết sai lầm của chúng ta.
3. Tưởng: (hay Trí nhớ, tri giác) Đồng hóa ḿnh với những ǵ ḿnh ư thức và nhớ tưởng đến chuyện đă qua khiến tham, sân, si phát sinh. Sự hiểu biết sai lầm của chúng ta trở thành thói quen chất chứa tiềm thức chúng ta.
4. Hành: (tác ư, chú ư và những yếu tố khác của tâm) Không hiểu rơ bản chất của các trạng thái tâm (tâm, sở), chúng ta phản ứng, suy nghĩ và cảm giác, yêu ghét, hạnh phúc và phiền muộn phát sinh. Quên rằng chúng là vô thường, khổ và vô ngă nên chúng ta mắc vào chúng.
5. Thức: Chúng ta chấp giữ các hiểu biết về bốn uẩn kia. Chúng ta nghĩ rằng: "Tôi biết, tôi là, tôi cảm thấy" và bị giới hạn bởi ảo tưởng về tự ngă, về sự phân ly giữa năm uẩn cho rằng Thức chính là Tự Ngă.
Tất cả những tên trộm ấy -- sự hiểu biết sai lầm -- đưa ta đến hành động sai lầm. Đức Phật không có ham muốn điều này. Ngài thấy không thể t́m được chân hạnh phúc ở đây. Thế nên Ngài đă ban danh từ "Bhikkhu" cho những ai thấy được mối hiểm nguy và t́m đường tránh thoát.
Đức Phật dạy chư tăng bản chất của năm uẩn và cách buông bỏ chúng. Không dính mắc vào chúng, không xem chúng là ta hay của ta. Khi hiểu bản chất của chúng, chúng ta sẽ thấy chúng có tiềm năng làm hại lớn lao, có giá trị lớn lao. Chúng không biến mất, nhưng chúng ta không c̣n nắm giữ chúng như của riêng của ḿnh nữa. Sau khi thành đạo, Đức Phật vẫn c̣n có thân, bệnh, có cảm giác đau khổ hay khóai lạc, có trí nhớ, có suy nghĩ, có tâm. Nhưng Ngài không dính mắc vào chúng, không xem chúng là tự ngă, là ta, là của ta. Ngài biết, Ngài hiểu chúng theo đúng bản chất của chúng. Cái hiểu biết đó cũng không phải là ta, là tự ngă.
Tách rời ngũ uẩn khỏi phiền năo và tham ái chẳng khác nào phát quang những buị cây nhỏ trong rừng mà không làm hại đến cây lớn. Chỉ có sự sinh và diệt tồn tại, phiền năo không c̣n chỗ đứng. Chúng ta sinh ra và chết đi với ngũ uẩn. Ngũ uẩn đến và đi theo bản chất tự nhiên của chúng.
Khi có ai nguyền rủa ta, và nếu ta không có cảm giác về tự ngă, th́ chuyện xẩy ra chấm dứt theo với lời nói và ta không đau khổ. Nếu cảm giác không vừa ḷng phát sinh, hăy chấm dứt chúng ngay tại chỗ và hiểu rằng cảm giác không phải là chúng ta.
"Nó hại tôi, nó quấy rầy tôi, nó là kẻ thù của tôi," một vị tỳ khưu không nghĩ như thế. Vị tỳ khưu cũng không nắm giữ sự kiêu căng hay ngă mạn. Nếu chúng ta không đứng trong tầm đạn, chúng ta sẽ không bị bắn. Nếu thư không có người nhận th́ sẽ được trả lại người gởi. Thong thả đi vào cuộc đời không bị dính mắc vào việc đánh giá các việc xẩy ra, thầy tỳ khưu an nhiên tự tại. Đó là con đường Niết Bàn, trống rỗng và giải thoát.
Theo dơi năm uẩn và làm sạch khu rừng, bạn sẽ là một người khác hẳn trước đây. Rất ít người hiểu được sự trống rỗng và thực hành theo, nhưng ai làm được điều này sẽ có niềm vui lớn lao. Tại sao không thử xem? Bạn có thể trừ khử những tên trộm trong tâm và xếp đặt mọi chuyện hoàn hảo mà!
Người phát triển chánh kiến bằng cách nh́n mọi vật dưới ánh sáng vô thường, khổ và vô ngă, sẽ chấm dứt được luyến ái và mê lầm. Không luyến ái không có nghĩa là ghét bỏ. Ghét bỏ thứ ǵ mà bạn đă có và ưa thích trước đây th́ chỉ là sự ghét bỏ tạm thời, v́ sự luyến ái sẽ trở về với bạn.
Không phải chúng ta đi t́m một cuộc sống khóai lạc, nhưng đi t́m sự b́nh an. B́nh an nằm ngay trong chúng ta, được t́m thấy cùng chỗ với dao động và đau khổ. Không thể t́m thấy b́nh an trong rừng sâu hay trên đồi cao. B́nh an cũng không thể được ban phát bởi một vị thầy quyền uy tối thượng. Chỗ bạn bị đau khổ, bạn có thể t́m ra con đường để thoát khỏi khổ đau. Cố gắng trốn chạy đau khổ, thấy nguyên nhân của nó và chấm dứt nó ngay bây giờ tốt hơn là chỉ đương đầu với kết quả của nó.
Những người mới bắt đầu hành thiền thường phân vân không biết hành thiền là ǵ. Hành thiền là cố gắng đối diện với phiền năo, không nuôi dưỡng thói quen cũ. Nơi nào bất ḥa và khó khăn, nơi đó là chỗ để hành thiền.
Khi hái nấm về ăn, không phải đụng thứ nấm nào bạn cũng hái. Phải hiểu loại nào ăn được, loại nào là nấm độc. Việc hành thiền cũng vậy, chúng ta phải biết mối nguy hiểm phải đương đầu khi hành thiền là phiền năo. Phiền năo chẳng khác nào rắn độc, phải biết nó để tránh nó.
Phiền năo -- tham, sân, si -- nằm ở gốc rễ của sự đau khổ và tâm ích kỷ. Chúng ta phải học cách chế ngự chúng, chiến thắng và thoát khỏi sự kiểm soát và điều khiển của chúng, để làm chủ tâm ḿnh. Dĩ nhiên cuộc chiến đấu này thật khó khăn. Khó khăn như phải xa rời người bạn thân đă sống với nhau từ thời thơ ấu.
Phiền năo chẳng khác nào một con mèo. Nếu cho nó ăn, nó sẽ quanh quẩn bên ta. Đừng cho nó ăn, nó sẽ không quấy rầy nữa.
Lúc mới bắt đầu hành thiền không thể nào tránh khỏi nóng nực và buồn chán. Nhưng hăy nhớ rằng chỉ có phiền năo nóng. Nhiều người nghĩ: "Tôi chưa bao giờ gặp phải sự khó khăn như vầy trước đây. Chắc có cái ǵ xẩy ra đây?" Chuyện này chẳng có ǵ lạ, v́ trước đây khi nuôi dưỡng phiền năo, bạn đă đối xử nhẹ nhàng với chúng, vuốt ve, nuông chiều chúng. Như người bị thương bên trong mà chỉ đắp thuốc bên ngoài nên chẳng có cảm giác ǵ. Bây giờ mổ ra để trị tận gốc th́ chắc chắn không tránh khỏi đau đớn.
Muốn đề kháng lại phiền năo th́ bạn đừng cho chúng ăn, ngủ theo ư muốn của chúng. Nhiều người cho làm như thế là tự hành hạ ḿnh thái quá. Nhưng đó là điều cần thiết để có sức mạnh bên trong. Bạn phải tự ḿnh ư thức về ḿnh. Luôn luôn theo dơi tâm, bạn có thể nghĩ rằng bạn chỉ nh́n vào kết quả mà không biết đến nguyên nhân. Giả sử cha mẹ có một đứa con, lớn lên nó không biết kính trọng cha mẹ. Cha mẹ rất đau buồn và tự hỏi, "Không biết thằng này từ đâu đến đây?" Thực ra, đau khổ của chúng ta đến từ sự hiểu biết sai lầm, từ sự dính mắc vào những hoạt động của tâm. Chúng ta phải huấn luyện tâm như huấn luyện một con trâu. Trâu là tư tưởng của chúng ta, và người chăn trâu là thiền sinh. Nuôi trâu và huấn luyện trâu là hành thiền. Với một con trâu được huấn luyện thuần thục, chúng ta có thể thấy chân lư, chúng ta có thể hiểu nguyên nhân của "tự ngă" của chúng ta và chỗ chấm dứt của nó, chỗ chấm dứt mọi sầu muộn. Nó không phức tạp đâu!
Mọi người đều có phiền năo trong lúc hành thiền. Chúng ta phải hiểu chúng. Chiến đấu với chúng khi chúng hiện khởi. Đây không phải là chuyện suy nghĩ mà là chuyện thực hành. Cần phải có nhiều kiên nhẫn. Dần dần chúng ta sẽ thay đổi lối suy nghĩ và cảm giác theo thói quen của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy biết bao đau khổ sinh ra khi chúng ta nghĩ đến danh từ Ta và Của Ta. Lúc ấy chúng ta sẽ không c̣n chấp nữa.
Một thanh niên Tây phương vừa mới đến một trong những tu viện trong rừng của Ngài Ajahn Chah xin ở lại hành thiền.
Câu trả lời đầu tiên của Ngài là:
-- Tôi hy vọng anh không sợ đau khổ.
Hơi bất ngờ và sửng sốt một chút trước câu nói, chàng thanh niên giải thích rằng anh ta không phải đến đây để đau khổ mà muốn đến đây để học thiền và sống trong yên tĩnh trong rừng.
Ajahn Chah giải thích:
-- Có hai loại đau khổ: đau khổ dẫn đến đau khổ hơn, và đau khổ dẫn đến chấm dứt đau khổ. Nếu anh không muốn gặp loại đau khổ thứ hai th́ anh chắc chắn sẽ gặp loại đau khổ đầu tiên.
Lối dạy của Ajahn Chah thường thẳng thắn và trực tiếp. Khi gặp các vị sư học tṛ của Ngài trong khuôn viên thiền viện, Ngài thường hỏi, "Hôm nay sư có đau khổ nhiều không?" Nếu có vị sư nào trả lời "Có," Ngài sẽ nói, "Tốt lắm, sư phải mừng và mong muốn được như ngày hôm nay" và Ngài cười với nhà sư về chuyện này.
Bạn đă từng có hạnh phúc chưa? Bạn đă từng gặp đau khổ chưa? Bạn có từng xét xem hai loại trên, loại nào thực sự có giá trị hơn chưa? Nếu đúng là hạnh phúc th́ nó sẽ không bao giờ mất. Có thể như vậy được không? Bạn phải nghiên cứu điểm này để thấy sự chân xác và thực tế. Sự nghiên cứu này, sự hành thiền này dẫn đến Chánh Kiến.
Nghĩa rốt ráo của Chánh Kiến là không phân biệt. Thấy mọi người như nhau, không tốt cũng không xấu, không thông minh cũng không ngu dốt. Đừng nghĩ rằng mật ong ngọt và tốt, c̣n một số thực phẩm khác th́ đắng và xấu. Mặc dầu bạn có thể ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau, nhưng khi cơ thể hấp thụ và bài tiết ra ngoài chúng đều giống nhau. Một cái ly được xem là lớn khi so sánh với một cái chén nhỏ. Nhưng khi đặt cạnh cái b́nh th́ ly không c̣n lớn nữa.
Tâm phân biệt phát xuất từ tham muốn và si mê, nó nhuộm màu mọi vật bằng lối này. Đó là thế giới do chính chúng ta tạo ra. Như vậy cái ly vốn không lớn không nhỏ. Cảm thấy lớn hay nhỏ do tâm phân biệt của chúng ta. Chúng ta dùng tham ái và si mê để so sánh với cái khác nên có sự phân biệt lớn nhỏ.
Luôn luôn có sự bất đồng trên thế giới này. Xem xét sự bất đồng của chúng, đồng thời t́m hiểu luôn sự tương đồng nữa. Những người đến đây khác biệt nhau về văn hóa và ngôn ngữ. Nhưng đừng nghĩ rằng: "Đây là người Thái, đây là người Lào, đây là người Tây phương." Hăy có sự hiểu biết hỗ tương và tôn trọng lối sống của nhau. Học thấy những điểm tương đồng bên trong mọi vật, tất cả đều thật sự tương đồng, đều trống rỗng. Khi đă học được, biết được sự tương đồng bên trong mọi vật, lúc bấy giờ bạn sẽ biết cách cư xử và đối diện với những bất đồng bên ngoài một cách khôn ngoan và hiểu biết. Nhưng cũng đừng dính mắc với sự tương đồng nữa.
Tại sao đường th́ ngọt mà nước lă th́ chẳng có vị ǵ cả? Bởi v́ bản chất của chúng là vậy. Suy nghĩ hay tĩnh lặng, đau khổ hay khoái lạc cũng thế -- muốn đừng suy nghĩ nữa là một chuyện sai lầm. Đôi lúc suy nghĩ, đôi lúc yên tịnh. Chúng ta phải thấy cả hai đều có cùng bản chất vô thường, bất toại nguyện và đều không đem lại hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu chúng ta băn khoăn lo lắng và suy nghĩ xa hơn: "Tôi đau khổ, tôi muốn không suy nghĩ," th́ chúng ta đă làm mọi chuyện trở nên phức tạp bởi quan kiến sai lầm của ḿnh.
Vào lúc chúng ta cảm thấy suy nghĩ là đau khổ, chẳng khác nào chúng ta đang bị cướp. Chúng ta phải làm thế nào để chấm dứt sự suy nghĩ đây? Ban ngày, trời sáng. Ban đêm, trời tối. Phải chăng đau khổ nằm trong sự sáng hay tối này? Chỉ khi chúng ta so sánh sự vật hiện tại với những ǵ mà ta đă gặp trước đây, hoặc chúng ta mong mỏi chúng xẩy ra trong chiều hướng mà chúng ta mong đợi, chúng ta mới đau khổ. Một cách rốt ráo th́ sự vật là như vậy, như vậy -- chỉ v́ chúng ta so sánh nên mới nhận lấy đau khổ.
Khi thấy Tâm làm việc, bạn có xem nó là chính bạn hay là cái của bạn không? Bạn sẽ trả lời: "Tôi không biết nó có phải là tôi hay của tôi không, nhưng chắc chắn là tôi không kiểm soát được nó." Nó như một con khỉ nhẩy nhót vô ư thức. Nó chạy lên lầu, thấy chán nó lại chạy xuống lầu; mệt mỏi, đi xem chớp bóng, lại chán nữa; đi ăn, cũng chán nữa. Những hành động này được điều khiển bởi những h́nh thức khác nhau của chán ghét và sợ hăi.
Bạn phải học cách kiểm soát. Đừng lo cho con khỉ nữa mà hăy lo cho chân lư của cuộc sống. Hăy nh́n bản chất thật sự của tâm: vô thường, bất toại nguyện và trống rỗng. Phải học cách làm chủ nó. Nếu cần th́ xích nó lại. Hăy để nó tự làm mệt nhoài rồi chết. Thế rồi, bạn có con khỉ chết. Hăy để cho xác khỉ chết thối rữa ra, bạn sẽ có xương khỉ.
Giác ngộ không có nghĩa là chết và bất động như một pho tượng Phật. Người giác ngộ cũng suy nghĩ, nhưng biết tiến tŕnh suy nghĩ đó là vô thường, bất toại nguyện, và không có tự ngă. Người hành thiền sẽ thấy những điều này một cách rơ ràng. Chúng ta cần phải truy tầm đau khổ và chận đứng nguyên nhân gây ra khổ đau. Nếu không thấy được điều đó th́ trí tuệ sẽ không bao giờ nẩy sinh. Không nên đoán ṃ mà phải thấy sự vật một cách rơ ràng và chính xác, đúng theo thực tướng của nó -- cảm giác chỉ là cảm giác; suy nghĩ chỉ là suy nghĩ. Đó là cách thức chấm dứt mọi vấn đề của chúng ta.
Chúng ta có thể xem tâm như một đóa sen. Một số sen vẫn c̣n nằm trong bùn; một số vượt ra khỏi bùn nhưng vẫn c̣n ở dưới mặt nước; một số khác đă vươn đến mặt nước; và một số khác nữa đă nở rộ và toả hương thơm dưới ánh nắng mặt trời. Bạn muốn ḿnh là loại hoa nào đây? Nếu bạn thấy ḿnh c̣n nằm dưới mặt nước th́ phải coi chừng lũ cá và bày rùa!
Muốn hành thiền tiến bộ, bạn phải có một vị thầy để dạy dỗ và hướng dẫn bạn. Có nhiều hiểu biết sai lầm về sự tập trung tâm ư, nhiều hiện tượng bất thường sẽ xẩy ra trong lúc bạn hành thiền. Lúc chúng xẩy ra, vị thầy sẽ kịp thời hướng dẫn và đặc biệt điều chỉnh những sai lầm của bạn. Những điểm thầy sửa chữa thường là những điểm mà bạn đinh ninh là ḿnh đúng. Trong những tư tưởng phức tạp của bạn, một quan điểm phát sinh có thể đối nghịch với những quan điểm khác làm bạn bối rối. Kính trọng thầy và tuân theo những qui định và hệ thống mà thầy đă đưa ra. Thầy dạy làm ǵ phải làm theo. Thầy khuyên không nên làm điều ǵ phải nghe theo lời thầy. Những lời thầy dạy thường giúp bạn tinh tấn khiến tri kiến phát khởi trong tâm bạn. Nếu bạn làm đúng theo lời khuyên của tôi, bạn sẽ thấy và hiểu rơ.
Vị chân sư thường chỉ dạy những cách hành thiền khó khăn đ̣i hỏi nhiều nỗ lực của bạn để loại bỏ tự ngă. Dầu có ǵ xẩy ra cũng đừng bỏ thầy. Hăy để thầy hướng dẫn v́ bạn rất dễ quên đường thực hành.
Than ôi, rất ít người nghiên cứu Phật giáo thật sự muốn hành thiền. Tôi khẩn khoản khuyên họ hành thiền, nhưng họ chỉ có thể học hỏi nghiên cứu theo lối thuần lư mà thôi.
Cái ǵ c̣n mới th́ đều tốt đẹp
Ngài Ajahn Chah đến thăm một trung tâm thiền ở Hoa kỳ. Các thiền sinh ở đây rất hân hoan thích thú trước những lời dạy của Ngài.
Ngài dùng lời lẽ rơ ràng, trực tiếp, dí dỏm và đầy t́nh thương khi đề cập đến sự luyến ái và nỗi sợ hăi của con người.
C̣n ǵ sung sướng và thích thú hơn khi được một vị thiền sư tài ba và nổi tiếng như Ngài Ajahn Chah đến thăm.
Được thưởng thức những câu chuyện ư nhị, được nh́n những nhà sư với chiếc y vàng khiêm nhường, được nghe giáo pháp qua lối diễn đạt mới mẻ nên các thiền sinh rất thích thú yêu cầu Ngài:
-- Xin Ngài hăy ở lại đây thêm một thời gian, đừng về sớm như chương tŕnh đă định. Chúng tôi rất sung sướng được học hỏi với Ngài.
Ngài cười nói:
-- Cái ǵ mới th́ đều tốt đẹp. Nhưng nếu tôi ở đây dạy các bạn và bắt các bạn thực hành, các bạn sẽ mệt mỏi v́ chán tôi. Phải vậy không? Việc thực hành của các bạn sẽ ra sao khi niềm hân hoan phấn khởi tan biến? Chẳng bao lâu các bạn sẽ ngấy tôi thôi. Làm thế nào để tâm bất an và tâm mong mỏi này chấm dứt? Ai có thể dạy bạn điều này? Bạn chỉ có thể học từ nơi Chân Pháp mà thôi.
Đức Phật dạy rằng sự vật diễn biến theo đường lối riêng của nó. Một khi bạn đă làm điều ǵ, bạn chẳng cần phải nhọc công theo dơi kết quả của nó, hăy phó mặc cho thiên nhiên, để cho nghiệp lực tự vận hành và tích lũy. Nỗ lực tinh tấn không ngừng, đó là việc của bạn. C̣n chuyện trí tuệ đến nhanh hay chậm chẳng cần để ư làm ǵ. Bạn không thể thúc ép nó được. Chẳng khác nào khi trồng cây bạn không thể thúc ép cây mọc nhanh hơn. Cây có bước tiến của nó. Nhiệm vụ của bạn là đào lỗ, trồng cây, tưới nước, bón phân, trừ sâu, v. v. Nhưng cây mọc thế nào là chuyện của cây. Việc hành thiền của bạn cũng vậy. Bạn hăy vững tin là mọi chuyện sẽ tốt đẹp: cây của bạn sẽ mọc tốt.
Thế nên bạn phải biết việc làm của bạn khác với việc làm của cây. Hăy để cho cây lo cho cây và bạn làm bổn phận của bạn. Nếu tâm không biết làm việc ǵ nó cần phải làm th́ nó sẽ thúc ép cây mọc nhanh, đơm hoa kết trái trong ṿng một ngày. Đó là quan kiến sai lầm, nguyên nhân của đau khổ. Cứ hành thiền đúng và để phần c̣n lại cho nghiệp lực của bạn. Và, dầu cho nó có trải qua một đời, trăm đời hay ngàn đời đi nữa cũng chẳng ăn nhằm ǵ, việc hành thiền của bạn sẽ gặt hái kết quả tốt đẹp.
Một nhóm người hành hương đến thăm Ngài Ajahn Chah, hỏi Ngài ba câu hỏi lớn:
1. Tại sao Ngài hành thiền?
2. Ngài hành thiền như thế nào?
3. Kết quả việc hành thiền của Ngài ra sao?
Nhóm người hành hương này là những vị đại diện cho một tổ chức tôn giáo Âu Châu đă đến gặp nhiều thiền sư ở Á Châu để hỏi những câu hỏi trên.
Nghe ba câu hỏi này, Ngài Ajahn Chah nhắm mắt, trầm ngâm một lát, rồi trả lời bằng cách hỏi lại ba câu hỏi khác:
1. Tại sao quí vị ăn?
2. Quí vị ăn như thế nào?
3. Sau khi ăn xong quí vị cảm thấy ra sao?
Nói xong Ngài cười.
Về sau Ngài giải thích rằng: Những lời dạy của Đức Phật nhằm mục đích hướng dẫn mọi người hăy trở về với Trí Tuệ nội tại của ḿnh, trở về với Giáo Pháp tự nhiên của ḿnh. Bởi thế nên Ngài muốn nhắc nhở những vị hành hương này không cần phải đi khắp Á Châu t́m kiếm lời giải đáp mà hăy trở về t́m hiểu phần bên trong của ḿnh.
Chánh tinh tấn không phải là cố gắng làm cho một điều ǵ đặc biệt phát sinh. Đó là cố gắng ư thức và tỉnh thức trong mọi lúc, cố gắng chế ngự sự lười biếng và phiền năo, cố gắng thực hiện trong tỉnh thức mọi tác động hàng ngày của chúng ta.
Ngài Ajahn Chah nói với một nhà sư mới:
-- Việc hành thiền ở đây là không nắm giữ một thứ ǵ.
Nhà sư mới phát biểu:
-- Nhưng có vài thứ đôi khi cần nắm giữ chứ!
Ngài trả lời:
-- Đúng thế, nhưng bằng tay chứ không phải bằng tâm. Khi tâm nắm giữ sự đau khổ th́ chẳng khác nào bị rắn cắn. Và thích thú nắm giữ cái ǵ với tâm tham ái chẳng khác nào nắm lấy đuôi rắn: ta chỉ nắm được một thời gian ngắn thôi, v́ sau đó không lâu, rắn sẽ quay đầu lại cắn ta.
Lấy chánh niệm và không luyến ái làm người canh giữ tâm ḿnh, như cha mẹ giữ con cái. Rồi th́ yêu và ghét sẽ đến gọi tâm bạn như con cái đến gọi cha mẹ: "Má ơi! Con không thích cái này!" "Ba ơi! Con muốn nhiều hơn," "Được!" "Nhưng má ơi! Con thích có một con voi!" "Được!" "Con muốn ăn kẹo! Con muốn đi máy bay!" Tất cả đều chẳng có ǵ quan trọng nếu bạn để cho mọi sự vật đến và đi, một cách tự nhiên mà không nắm giữ.
Khi giác quan tiếp xúc với sự vật th́ yêu và ghét phát sinh, và si mê đi liền theo đó. Nhưng với chánh niệm th́ cũng với sự tiếp xúc đó, nhưng trí tuệ phát sinh.
Khi bạn bị bắt buộc phải có mặt tại một nơi có nhiều chuyện quấy rầy giác quan bạn, bạn đừng ngại, hăy tự nhiên, v́ Giác Ngộ không có nghĩa là điếc và mù. Chỉ cần chú tâm chánh niệm là đủ. Đừng khờ dại nghe theo kẻ khác một cách mù quáng. Khi nghe ai nói "Cái này đẹp," hăy tự nhủ "Không phải thế." Khi nghe ai nói "Cái này tuyệt diệu," hăy tự nhủ "Không phải thế." Đừng để dính mắc vào tham ái của thế gian. Đừng để dính mắc vào những phán đoán của thiên hạ. Hăy để mọi chuyện trôi qua một cách tự nhiên.
Một số người sợ sự bố thí. Họ cảm thấy sẽ bị bóc lột hay bị áp chế khi phải cho ai một cái ǵ. Họ nghĩ họ cần phải lo cho chính họ. Muốn phát triển tâm bố thí, chúng ta cần phải đè nén tính tham ái và dính mắc. Nhờ thế bản chất thực sự của chúng ta sẽ tự hiển lộ, trở nên nhẹ nhàng hơn và giải thoát hơn.
Có hai tŕnh độ thực hành giáo pháp. Ǵn giữ giới luật là phần căn bản đầu tiên. Giới luật đem lại hạnh phúc, thoải mái và ḥa hợp. Thứ đến -- tích cực hơn, không liên quan đến sự thoải mái -- đó là thực hành giáo pháp của Đức Phật để tỉnh thức và giải thoát tâm ḿnh ra khỏi mọi ràng buộc. Những lời giáo huấn của Đức Phật đều nhắm đến mục tiêu này. Muốn thực hành đúng đắn giáo pháp của Đức Phật, phải hiểu rơ giới luật và pháp hành.
Giới hạnh là cha mẹ của giáo pháp nẩy nở trong chúng ta. Giới hạnh cung cấp thức ăn bổ dưỡng và chỉ cho chúng ta hướng đi đích thực.
Giới hạnh là điều kiện căn bản để tạo nên một thế giới hài ḥa, trong đó con người thực sự sống như một con người, chứ không phải như loài cầm thú.
Giữ giới luật là điều chính yếu trong việc hành thiền. Giới rất đơn giản. Chỉ có năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không dùng chất say làm mất chánh niệm. Suốt đời trau giồi tâm nhân ái, trọng tha nhân. Thận trọng trong ngôn ngữ và hành động, đó là của cải của bạn. Nếu dùng giới luật làm căn bản cho mọi hành động, tâm bạn sẽ hiền ḥa, trong sáng và yên tĩnh. Thiền sẽ dễ dàng phát triển trên mảnh đất này.
Đức Phật dạy: "Làm điều lành, lánh xa điều ác, giữ tâm trong sạch." Việc hành thiền của chúng ta cũng vậy: "Lánh xa điều xấu và giữ ǵn điều tốt." Những điều xấu xa có c̣n tồn tại trong tâm bạn không? Dĩ nhiên là c̣n! Tại sao không quét dọn nhà cửa sạch sẽ?
Trong việc thực hành đúng đắn, làm điều lành lánh xa điều ác là một việc tốt, nhưng nó có hạn chế, v́ cuối cùng chúng ta phải bước qua cái tốt lẫn cái xấu. Giải thoát bao gồm tất cả và không dính mắc ǵ cả. Từ sự không dính mắc này, t́nh thương và trí tuệ lưu chuyển một cách tự nhiên.
Chánh tinh tấn và trí tuệ không phải là vấn đề bên ngoài mà là sự bền tâm tỉnh thức và tự chế bên trong. Như vậy, sự bố thí, nếu làm với ư tốt có thể đem lại hạnh phúc cho ḿnh và cho người. Nhưng đức hạnh phải là gốc rễ th́ ḷng từ thiện này mới hoàn toàn trong sáng.
Người không hiểu giáo pháp, khi làm điều ǵ sai quấy, thường nh́n trước nh́n sau xem thử có ai thấy không. Thật khờ dại làm sao! Phật, Pháp và Nghiệp luôn luôn theo dơi họ. Bạn có nghĩ rằng Đức Phật không thể thấy xa như vậy chăng? Không có ǵ kín đáo trên cơi đời này!
Săn sóc và giữ ǵn giới luật như người làm vườn săn sóc giữ ǵn cấy cối. Không bị dính mắc vào cây lớn, cây nhỏ, cây quan trọng và cây không quan trọng. Một số người muốn đi đường tắt -- họ nói "Bỏ qua Thiền Định, ta đi ngay vô Thiền Quán; bỏ qua giới luật, ta đi ngay vào Thiền Định." Chúng ta có nhiều lư do để bào chữa cho ḷng tham ái của chúng ta.
Chúng ta phải bắt đầu ngay nơi chúng ta hiện đang có mặt, trực tiếp và đơn giản. Hai bước đầu tiên là hoàn thành giới luật và chánh kiến. Rồi bước thứ ba là nhổ gốc rễ phiền năo, sẽ tự nhiên xuất hiện. Cũng như lúc đèn được thắp lên, chúng ta chẳng cần phải lo lắng đến việc xóa tan bóng tối. Chẳng cần thắc mắc bóng tối đă đi phương nào. Chúng ta chỉ biết có ánh sáng.
Có ba mức độ giữ giới. Đầu tiên là thọ giới từ vị thầy. Thứ đến là giữ giới và sống trong giới. Ở mức cao nhất, cỡ các bậc thánh nhân, các Ngài chẳng cần nghĩ đến giới luật, đến đúng sai. Chân giới đến từ trí tuệ, hiểu thấu đáo Tứ Diệu Đế. Hành động của các Ngài phát xuất một cách tự nhiên từ sự chứng ngộ này.
Giới, Định, và TuệĐức Phật chỉ dạy con đường thoát khổ -- nguyên nhân khổ đau và con đường thực hành. Trong việc thực hành của tôi, tôi chỉ biết có con đường đơn giản này thôi. Con đường thoát khổ, tốt đẹp ở giai đoạn đầu: Giới; tốt đẹp ở giai đoạn giữa: Định; và tốt đẹp ở giai đoạn cuối: Tuệ. Nếu xem xét một cách kỹ càng, chúng ta sẽ thấy cả ba nhập một. Chúng ta thử xét xem ba yếu tố tương quan này.
Thực hành giới như thế nào? Thực ra muốn thực hành giới ta phải bắt đầu bằng trí tuệ. Thói thường ta nói giữ giới hay tŕ giới trước. Nhưng muốn cho giới thành tựu trọn vẹn, ta phải có trí tuệ để hiểu rơ những ǵ bao hàm trong giới. Khởi đầu, chúng ta phải xem xét thân thể và ngôn ngữ của chúng ta, t́m hiểu tiến tŕnh nhân quả. Khi quan sát thân thể và lời nói để thấy phương cách chúng ta gây ra tai hại, bạn sẽ bắt đầu hiểu, kiểm soát và trong sạch hóa nhân quả.
Nếu bạn biết được thế nào là hành động và ngôn ngữ bất thiện, thế nào là hành động và ngôn ngữ thiện, bạn đă biết được cách thực hành để "khử ác vi thiện" (bỏ ác làm lành). Khi bạn bỏ ác làm lành, tâm bạn sẽ ổn định và tập trung. Sự định tâm này chế ngự được dao động và hoài nghi. Với tâm tĩnh lặng này, bạn có thể quan sát và thấy rơ h́nh sắc và âm thanh khi chúng xuất hiện. Nhờ không để tâm phóng đi nơi khác, bạn sẽ thấy rơ bản chất của mọi diễn biến đúng theo chân lư. Khi sự hiểu biết này trực tiếp, trí tuệ sẽ phát sinh.
Lúc bấy giờ Giới, Định và Tuệ có thể biến thành một. Khi chúng chín mùi là Bát Chánh Đạo. Khi Tham, Sân, Si xuất hiện, chỉ có Bát Chánh Đạo mới đủ khả năng tiêu diệt chúng.
Giới, Định, Tuệ phải được phát triển để hỗ trợ lẫn nhau. Bất kỳ đối tượng ǵ hiện ra ở sáu căn, Đạo đều kiểm soát được. Nếu Đạo mạnh th́ có thể tiêu diệt được phiền năo -- Tham, Sân, Si. Nếu Đạo yếu, phiền năo sẽ nắm quyền kiểm soát và giết chết tâm chúng ta. V́ không hiểu rơ chân tướng của lục trần nên khi lục trần xuất hiện, ta để nó tự do tàn phá, hủy hoại chúng ta.
Đạo và phiền năo hoạt động song hành. Người học giáo pháp phải luôn luôn hài ḷng với cả hai. Giống như trường hợp hai người đánh nhau. Khi Đạo nắm quyền điều khiển th́ Đạo sẽ giúp sức cho chánh niệm. Nếu bạn duy tŕ được chánh niệm th́ phiền năo sẽ nhận phần thất bại khi nó muốn tái chiến. Nếu sự tinh tấn của bạn đi theo đường Đạo, nó sẽ tiếp tục diệt trừ phiền năo. Nếu Đạo yếu, phiền năo sẽ chiếm ưu thế, lúc ấy tham ái, si mê và lo âu sẽ hiện khởi. Đau khổ chỉ phát sinh khi Giới, Định, Tuệ yếu.
Khi đau khổ phát sinh th́ khả năng để tiêu diệt lo âu biến mất. Chỉ có Giới, Định, Tuệ mới giúp cho Đạo hồi sinh. Khi Giới, Định, Tuệ khai triển, Đạo sẽ bắt đầu khôi phục chức năng và liên tục hoạt động để hủy diệt nguyên nhân phát sinh đau khổ trong mọi lúc và mọi nơi.
Cuộc chiến đấu này sẽ kéo dài cho đến lúc một bên chiến thắng và vấn đề sẽ được ngă ngũ. Như thế đấy! Vậy các bạn hăy kiên tŕ thực hành không ngừng nghỉ.
Việc hành đạo bất đầu tại đây và ngay bây giờ. Đau khổ và giải thoát hay Đạo ở tại đây và ngay bây giờ. Những lời dạy của Đức Phật như giới luật và trí tuệ trực chỉ hướng đến tâm. Nhưng hai yếu tố Đạo và Phiền Năo này tranh nhau cho đến cùng. Bởi thế phải dùng khí cụ thực hành thật khó khăn, nặng nề. Bạn cần phải kiên nhẫn, chịu đựng và tinh tấn đúng mức. Sau đó chân trí tuệ sẽ tự đến.
Giới, Định, Tuệ tạo nên Đạo. Nhưng Đạo không phải là Chân Pháp, không phải là mục tiêu. Đạo chỉ là con đường dẫn đến mục tiêu. Như bạn muốn đi từ Bangkok đến thiền viện Wat Pah Pong chẳng hạn. Con đường rất cần thiết cho hành tŕnh của bạn, nhưng mục tiêu của bạn là thiền viện, chứ không phải con đường. Cũng thế ấy, chúng ta có thể nói rằng Giới, Định, Tuệ ở ngoài giáo pháp của Đức Phật, nhưng là con đường dẫn đến chân lư này. Khi bạn phát triển ba yếu tố này, kết quả sẽ là sự b́nh an kỳ diệu nhất. Trong sự b́nh an này, h́nh sắc và âm thanh không c̣n đủ sức mạnh để quấy nhiễu tâm bạn. Bạn không c̣n ǵ phải làm nữa. Bởi vậy, Đức Phật dạy chúng ta phải vất bỏ hết những ǵ đang nắm giữ không chút ngần ngại. Được thế, bạn sẽ tự ḿnh hiểu được sự b́nh an này và không c̣n phải dựa vào một ai khác.
Tuy nhiên, không nên vội đo lường sức tiến bộ của ḿnh. Chỉ cần thực hành mà thôi. Ngoài ra, nếu mỗi khi tâm bạn an tịnh, bạn lại hỏi: "Phải đây không?" th́ mọi nỗ lực đều tiêu tan. Không có dấu hiệu ǵ để nhận thật sự tiến bộ của bạn, như dấu hiệu, "Đây là con đường đên Thiền viện Wat Pah Pong." Hăy vứt bỏ mọi tham ái và kỳ vọng, hăy nh́n thẳng vào hướng đi của tâm.
Người ta thường có khuynh hướng bắt chước theo thầy của ḿnh. Họ trở thành bản sao, h́nh chụp hay rập khuôn theo thầy. Chẳng khác nào chuyện người huấn luyện ngựa cho nhà vua sau đây.
Người huấn luyện ngựa cho nhà vua chết, nhà vua thuê một người huấn luyện mới. Bất hạnh thay người mới này bị kiễng chân. Những con ngựa mới và chọn lọc kỹ càng được mang đến cho y. Và y đă huấn luyện chúng thuần thục: chạy, phi nước kiệu, kéo xe, v. v., nhưng tất cả những con ngựa nhỏ đều có bước đi khập khiễng. Thấy lạ, nhà vua cho gọi người huấn luyện đến hỏi. Khi thấy y khập khiễng bước vào chầu, nhà vua hiểu ra mọi lẽ và tức khắc mướn một người huấn luyện ngựa khác.
Là những vị thầy, quí sư phải ư thức đến sức mạnh của những cử chỉ và lối sống, lối tu hành của ḿnh. Và quan trọng hơn, là học tṛ, các bạn không nên bắt chước theo h́nh ảnh, tư thái bên ngoài của thầy ḿnh. Vị thầy chỉ muốn bạn kiện toàn phần nội tâm của bạn. Hăy lấy trí tuệ nội tại của bạn làm mô mẫu, đừng bắt chước dáng đi khập khiễng của thầy.
Nhiều người muốn hành đạo một cách "tự nhiên." Họ than phiền rằng lối sống ở đây không hợp tự nhiên.
Tự nhiên là cây trong rừng. Nhưng nếu bạn cất một ngôi nhà trong đó, phải chăng sự tự nhiên không c̣n nữa? Nếu bạn biết cách sử dụng cây, xẻ gỗ và cất nhà, cây sẽ có giá trị với bạn nhiều hơn. Hoặc giả như con chó tự nhiên chạy đây chạy đó theo sau cái mũi của nó. Ném một khúc xương th́ cả đám chó chạy đến cấu xé nhau. Phải chăng đó là tự nhiên mà bạn muốn?
Nghĩa đúng thực của tự nhiên có thể khám phá ra bằng giới luật và sự hành thiền. Sự tự nhiên này vượt qua thói quen, điều kiện và nỗi sợ hăi của chúng ta. Nếu để tâm con người tự do tiến đến cái gọi là tự nhiên theo cảm tính, không cần rèn luyện -- cảm xúc thế nào th́ làm theo thế ấy, th́ tâm sẽ dẫy đầy tham lam, sân hận, si mê. Và đau khổ cũng phát sinh từ đấy.
Qua thực hành chúng ta có thể cho phép cây trí tuệ và t́nh thương trưởng thành một cách tự nhiên, bất kỳ nơi đâu, cho đến khi nó đơm hoa kết trái.
Ba điểm căn bản thực hành là Thu Thúc Lục Căn (nghĩa là không ch́m đắm và dính mắc trong dục lạc ngũ trần), Ăn Uống Tiết Độ và Tỉnh Thức.
1. Thu Thúc Lục Căn: Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra một cơ thể bất b́nh thường: mù, điếc, vẹo, v. v., nhưng rất khó khăn nhận ra một tâm hồn bất thường. Khi bắt đầu hành thiền, bạn sẽ thấy mọi sự khác hẳn. Bạn sẽ thấy một tâm hồn "méo mó" mà trước đây bạn thấy có vẻ b́nh thường. Bạn sẽ thấy nguy hiểm ở nơi mà trước đây bạn không thấy. Điều này giúp bạn thu thúc. Bạn trở nên nhạy cảm, như người đi vào rừng sâu ư thức được mối nguy hiểm của thú dữ, rắn độc, gai nhọn, v. v. Người có vết thương mới, rất thận trọng trước sự nguy hiểm của ruồi và muỗi độc. Cũng vậy, đối với người hành thiền, mối nguy hiểm phát xuất từ các đối tượng của giác quan (lục trần). Bởi thế, thu thúc lục căn là loại đức hạnh cao nhất.
2. Tiết Độ Ăn Uống: Ăn chay th́ dễ, nhưng ăn ít và tiết độ như một thiền sinh th́ thật khó khăn. Thay v́ ăn chay thường xuyên, hăy học cách ăn trong chánh niệm. Ư thức được nhu cầu thực sự của ḿnh; học cách phân biệt giữa muốn và cần.
Đào luyện cơ thể không phải là tự hành hạ ḿnh. Không ngủ, không ăn đôi lúc có vẻ cực đoan, nhưng nó có giá trị của nó. Bạn phải thực sự muốn chống lại sự biếng nhác và phiền năo. Khuấy động chúng lên và quan sát chúng. Một khi hiểu được chúng th́ những sự thực hành có vẻ cực đoan trên sẽ không cần thiết nữa. Đó là lư do tại sao chúng ta phải ăn, ngủ, nói ít lại -- nhằm đè nén tâm luyến ái và khiến chúng tự lộ diện.
3. Tỉnh Thức: Muốn có chánh niệm th́ phải có nỗ lực liên tục, chứ không phải chỉ siêng năng một lúc rồi thôi. Dầu bạn hành thiền suốt đêm, nhưng những lúc khác bạn để cho lười biếng ngự trị th́ cũng không phải là hành thiền đúng. Phải luôn luôn quan sát, theo dơi tâm như cha mẹ theo dơi con cái, bảo vệ chúng không để chúng làm bậy, dạy cho chúng biết điều đúng.
Thật là sai lầm khi nghĩ rằng có đôi lúc bạn không có cơ hội để hành thiền. Bạn phải luôn luôn nỗ lực để hiểu chính ḿnh, điều này cũng cần thiết như sự hô hấp của bạn, bạn phải tiếp tục thở bất kỳ trong hoàn cảnh nào. Nếu bạn không thích một vài hoạt động nào đó, như tụng kinh hay làm việc chẳng hạn, và bạn đă vất bỏ chúng để hành thiền, như thế th́ bạn chẳng bao giờ được Tỉnh thức.
Đức Phật dạy người nào muốn hiểu biết th́ phải tự ḿnh thấy rơ chân lư. Thế nên không có chút khác biệt nào giữa những lời tán dương và câu chỉ trích. Dầu người ta nói thế nào cũng không quấy rầy được bạn. Một người không tự tin sẽ cảm thấy ḿnh xấu khi bị kẻ khác chê xấu. Hăy tự xét. Nếu họ nói sai, hăy quên đi; nếu họ nói đúng, hăy học theo họ. Bất kỳ trường hợp nào xẩy ra cũng chẳng có ǵ. Tại sao phải giận dữ? Nếu bạn có thể nh́n sự vật như vậy, bạn sẽ thật sự b́nh an. Chẳng có cái ǵ là sai cả; tất cả đều là Pháp. Nếu bạn thật sự sử dụng khí cụ mà Đức Phật đă ban cho bạn, bạn sẽ không cần phải ganh tị với người khác nữa. Trong khi những kẻ lười biếng chỉ muốn nghe và tin, bạn có tự tín và có thể kiếm sống bằng sự nỗ lực của chính ḿnh.
Tuy thế, nếu khi thực hành bạn chỉ sử dụng những ǵ bạn có th́ cũng phiền toái bởi v́ chúng là của bạn. Ban đầu, có lúc bạn nghĩ việc hành thiền thật khó khăn và bạn đă khư khư nắm giữ những cái tốt của kẻ khác. Thế rồi, Đức Phật dạy bạn phải làm với những ǵ bạn có và bạn nghĩ rằng mọi chuyện đều êm xuôi tốt đẹp. Nhưng rồi bạn lại thấy khó khăn nữa, Đức Phật lại dạy thêm: Nếu bạn dính mắc và nắm giữ điều ǵ, dầu của chính bạn hay của ai đi nữa, bạn cũng gặp phiền toái. Nếu bạn chạy vào bếp nhà hàng xóm nắm một cục lửa, bạn sẽ bị phỏng tay. Nếu bạn nắm cục lửa nhà bạn, bạn cũng bị phỏng tay như thường. Vậy th́ đừng nắm giữ ǵ cả.
Đó là lối thực tập áp dụng ở đây -- phương pháp trực tiếp. Tôi không bằng ḷng với ai. Nếu bạn đem kinh điển hay tâm lư học tranh căi với tôi, tôi sẽ không tranh căi. Tôi chỉ tŕnh bày cho thấy nhân và quả, để bạn hiểu chân lư của pháp hành. Chúng ta tất cả đều phải nương tựa nơi chính ḿnh.
Hăy t́m hiểu chính thân tâm của bạn, bạn sẽ hiểu người khác. Gương mặt, cử chỉ, hành động của một người phát xuất từ trạng thái tâm của người ấy. Đức Phật có thể đọc được chúng bởi v́ Ngài có kinh nghiệm và nh́n thấy với trí tuệ trạng thái tâm làm căn bản cho những biểu lộ ấy. Cũng như một người già lăo luyện đă trải qua thời thơ ấu hiểu rơ tâm lư trẻ con.
Sự "tự tri" này khác với trí nhớ. Người già có thể bên trong rất sáng, nhưng bên ngoài có vẻ lờ đờ. Đọc sách để học hỏi đối với họ rất khó khăn v́ họ quên tên, quên mặt, v. v. Có thể họ biết rơ ràng họ cần một cái thau, nhưng v́ trí nhớ kém, họ nói lấy cho họ một cái ly.
Nếu bạn thấy t́nh trạng sinh diệt trong tâm và không dính mắc vào tiến tŕnh, để trôi qua cả hạnh phúc lẫn đau khổ th́ sự tái sinh của tâm sẽ ngắn dần, ngắn dần. Để cho chúng trôi qua, dù bạn có rơi vào địa ngục đi nữa cũng đừng lo lắng thái quá, bởi v́ bạn biết rằng địa ngục cũng vô thường. Hành thiền đúng đắn th́ bạn sẽ thản nhiên nh́n nghiệp cũ diễn ra và tiêu dần. Hiểu biết cách sinh diệt của sự vật, bạn chỉ cần tỉnh thức, chánh niệm rồi để chúng tự nhiên trôi chảy theo ḍng của chúng. Cũng như trường hợp có hai cội cây. Nếu bạn vun phân tưới nước cho một cây và bỏ mặc cây kia th́ chẳng cần thắc mắc tại sao một cây lên tốt, c̣n một cây th́ èo uột.
Đừng t́m lỗi người. Nếu cách cư xử của họ sai lầm, bạn cũng chẳng cần làm khổ ḿnh mà chi. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hăy để yên như thế.
Đức Phật đă từng theo học với nhiều thầy. Ngài thấy phương pháp của thầy thiếu sót, nhưng Ngài không dèm pha hay làm thầy mất thể diện. Nhờ học hỏi với thái độ khiêm nhường và tôn trọng nên Ngài thâu thập lợi ích trong khi sống với các thầy. Thật vậy, học với họ Ngài mới biết hệ thống của họ chưa hoàn hảo. Lại nữa, khi Ngài thành đạo, Ngài không chỉ trích hay t́m cách dạy lại họ. Sau khi giác ngộ, Ngài kính cẩn nhớ lại những vị thầy Ngài đă theo học và muốn chia xẻ với họ sự hiểu biết mà Ngài mới t́m ra.
T́nh yêu thật sự là trí tuệ. T́nh yêu như phần lớn mọi người nghĩ chỉ là một cảm giác tạm. Có một món ăn thật ngon, nhưng nếu mỗi ngày bạn đều ăn như thế, chẳng bao lâu bạn sẽ chán lên tận cổ. Cũng thế, t́nh yêu đó cuối cùng đi đến thù hận và phiền muộn. Hạnh phúc thế gian bao gồm tham ái và luôn luôn dính liền với đau khổ. Thật vậy, đau khổ theo sau hạnh phúc thế gian như cảnh sát theo sau tên trộm.
Tuy thế, chúng ta không thể loại bỏ hay ngăn trở loại cảm giác này. Chúng ta không nên dính mắc hay đồng hóa với chúng mà chỉ cần biết chúng là ǵ, sau đó Pháp sẽ có mặt. Một người yêu một người khác rồi cuối cùng người yêu ra đi hay ĺa đời. Than khóc hay nhớ tưởng lâu dài, nắm giữ cái đă thay đổi là đau khổ chứ không phải là t́nh yêu. Khi chúng ta thể nhập chân lư, không c̣n cần hay muốn nữa, trí tuệ và t́nh yêu thật sự sẽ lấn át tham ái và tràn ngập thế gian.
Buồn chán không phải là chuyện thật. Nếu nh́n gần, chúng ta sẽ thấy tâm luôn luôn hoạt động. Như vậy ta luôn luôn có việc để làm. Hăy nương tựa vào chính ḿnh để làm công việc lặt vặt trong nhà như dọn dẹp sạch sẽ sau khi ăn, làm công việc trong nhà một cách thận trọng và chánh niệm, không khua chén bát, không đóng sầm cửa. Những việc lặt vặt này giúp bạn tiến hành định tâm và khiến cho việc hành thiền dễ dàng hơn. Chúng cũng có thể chứng tỏ rằng bạn thật sự có chánh niệm hay vẫn c̣n lạc lối trong phiền năo.
Bạn, những người Tây phương, hay vội vă. Bởi thế bạn cũng sẽ có hạnh phúc, đau khổ và phiền năo cực lớn. Nếu bạn hành thiền đúng đắn, việc đương đầu với nhiều vấn đề của bạn sẽ là nguồn gốc của trí tuệ thâm sâu sau này.
Làm bất cứ việc ǵ cũng với tâm xả bỏ. Đừng kỳ vọng sự đền đáp hay tán dương. Nếu xả bỏ một ít sẽ có một ít b́nh an. Nếu xả bỏ nhiều sẽ được nhiều b́nh an. Nếu xả bỏ hoàn toàn sẽ được b́nh an hoàn toàn và cuộc tranh đấu với thế gian này đi đến chỗ chấm dứt.
Đạo, Quả và Niết Bàn không phải là chuyện ngẫu nhiên đạt được. Đạo, Quả, Niết Bàn phát sinh từ sự thực hành đúng, từ chánh tinh tấn, từ can đảm, dám tập luyện, suy nghĩ và bắt tay vào việc. Nỗ lực này bao gồm cả việc đối kháng hay đương đầu với chính tâm bạn.
Đức Phật dạy chúng ta đừng tin vào tâm v́ nó phiền năo, bất tịnh, không thể hiện Giới hạnh hay Pháp. Trong tất cả mọi cách thực hành khác nhau mà chúng ta chú tâm nỗ lực, chúng ta phải đối kháng lại con tâm này. Khi tâm bị đối kháng, nó trở nên nóng và âu sầu, lúc ấy chúng ta sẽ phân vân chẳng biết ta đi có đúng đường không. V́ sự thực hành bị phiền năo tham ái xâm nhập nên chúng ta đau khổ đến nỗi có thể quyết định ngưng hành thiền nữa. Nhưng Đức Phật dạy chính đó là sự thực hành đúng đắn; phiền năo này chớ không phải bạn, đang bùng cháy. Đương nhiên là việc hành thiền khó khăn chứ không phải dễ.
Nhiều nhà sư hành thiền chỉ t́m giáo pháp phù hợp với sách vở, kinh điển. Dĩ nhiên, vào thời kỳ học hỏi nghiên cứu, phải y cứ vào kinh điển. Nhưng lúc "chiến đấu" với phiền năo, phải chiến đấu ngoài sách vở. Nếu căn cứ vào mô mẫu có sẵn, bạn không thể đứng vững trước quân thù. Kinh điển chỉ đưa một mô mẫu và có thể khiến bạn quên ḿnh, bởi v́ chúng đặt căn bản trên trí nhớ và khái niệm. Suy nghĩ theo khái niệm phát sinh ra ảo tưởng, mơ mộng viển vông, có thể đưa bạn lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục, một nơi xa vời của tưởng tượng, vượt ra ngoài chân lư đơn giản nằm ngay trước mắt bạn.
Nếu chịu khó rèn luyện, trước tiên bạn sẽ nhận thấy rằng thân ẩn cư là điều quan trọng. Khi sống ẩn cư bạn có thể nghĩ đến lời khuyên của Ngài Sariputta về ba loại ẩn cư: thân ẩn cư, tâm ẩn cư, xa lánh phiền năo cám dỗ ẩn cư. Ngài nói rằng: "Thân ẩn cư là nguyên nhân tạo nên tâm ẩn cư, và tâm ẩn cư là nguyên nhân phát sinh tị phiền năo ẩn cư." Dĩ nhiên, khi tâm bạn yên tĩnh, bạn có thể sống bất kỳ nơi nào. Nhưng trong giai đoạn đầu t́m hiểu giáo pháp th́ "Thân ẩn cư" có giá trị vô lường. Ngay hôm nay hay một ngày nào đó bạn hăy đi ra khỏi xóm làng, ngồi xuống. Hăy tập một ḿnh. Bạn cũng có thể một ḿnh leo lên đỉnh đồi cao đáng sợ. Rồi bạn sẽ bắt đầu hiểu rơ: nh́n vào chính ḿnh thật sự sẽ như thế nào.
Đừng quan tâm đến việc có an tịnh hay không. Càng thực tập bạn càng tạo nên những nhân đúng và sẽ quen thuộc với những ǵ xẩy ra. Đừng sợ bạn sẽ không thành công, không đạt được sự an tịnh. Nếu nghiêm chỉnh thực hành, bạn sẽ trưởng thành trong Giáp Pháp. Ai t́m sẽ thấy. Chỉ người ăn mới no.