Bản Phạm Văn

 
 

Phẩm 17: Giận Dữ  -  Phẩm Phẩn Nộ (Kodhavagga)  -  Dẫn Nhập
 Tỳ Khưu Giác Đẳng

 

 

       
   

DẪN NHẬP PHẨM 17: Giận Dữ

Đối Diện Với Cơn Thịnh Nộ

1. Người ta nói rằng một người không biết nỗi giận trước điều đáng giận không phải là bậc trượng phu quân tử. Cách nh́n đó có phù hợp với tinh thần Phật Pháp chăng?

2. Các nhà tâm lư học Tây Phương cho rằng giận dữ là một sức mạnh của tâm lư cũng như ḷng ham muốn nhục dục. Nếu khéo dùng sức mạnh đó th́ có thể biến chúng thành cái có lợi cho ḿnh. Phật pháp dạy thế nào về quan điềm này?

3. Phải chăng chỉ có giận dữ mới là trạng thái sân?

4. Nộ khí v́ bất b́nh truớc một điều bất công th́ có thể gọi là bất thiện chăng ?

5.Một người v́ quá giận không tự chủ được nên làm những việc đáng tiếc. Theo quan niệm thế gian th́ có thể tha thứ được nhưng theo Phật Pháp th́ sao?.

6. Ngoài sự giác ngộ thánh quả tư đà hàm, a na hàm có phương pháp nảo khả thi trong đời sống hằng ngày để chế ngự sân hận?

7. Trên phương diện nhân quả, một người đa tham và một người đa sân ai tạo nhiều nghiệp bất thiện hơn?

8. Chiến tranh thường đến từ sân tâm, tham cầu. Đạo Phật có tán đồng một cuộc "chiến tranh chánh đáng" (a just war) không?

 


 

 

 

 

 

 

 

                Bài Đọc Thêm

 

Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya

2. Kinh Tất cả các lậu hoặc
(Sabbàsava sutta)


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!" --"Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Người pháp môn pḥng hộ tất cả lậu hoặc". Hăy nghe và khéo tác ư. Ta sẽ nói". --"Thưa vâng, bạch Th𓐗 Tôn". Thế Tôn nói như sau:

(Tóm lược)

-- Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: có như lư tác ư và không như lư tác ư. Này các Tỷ-kheo, do không như lư tác ư, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đă sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lư tác ư, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đă sanh được trừ diệt. Này các Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do pḥng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.

(Các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ)

Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải tác ư, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ư; vị này v́ không tuệ tri các pháp cần phải tác ư, v́ không tuệ tri các pháp không cần phải tác ư nên tác ư các pháp không cần phải tác ư và không tác ư các pháp cần phải tác ư.

Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp không cần phải tác ư mà vị ấy tác ư? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ư mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đă sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay hữu lậu đă sanh được tăng trưởng, hay vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đă sanh được tăng trưởng. Những pháp ấy là những pháp không cần phải tác ư mà vị ấy tác ư. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp cần phải tác ư mà vị ấy không tác ư? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ư mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đă sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đă sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đă sanh được trừ diệt. Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ư mà các vị ấy không tác ư. Do vị ấy tác ư các pháp không nên tác ư, do vị ấy không tác ư các pháp cần phải tác ư, nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đă sanh được tăng trưởng.

Vị ấy không như lư tác ư như sau: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ h́nh vóc như thế nào? Trước kia ta-là ǵ và ta đă có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, h́nh vóc như thế nào? Trước kia ta là ǵ và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy có nghi ngờ về ḿnh trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt h́nh vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?".

Với người không như lư tác ư như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên: "Ta có tự ngă", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; "Ta không có tự ngă", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật như chơn; "Do tự ḿnh, ta tưởng tri ta có tự ngă", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; "Do tự ḿnh, ta tưởng tri ta không có tự ngă", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. "Không do tự ḿnh, ta tưởng tri ta có tự ngă", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; hay tà kiến này khởi lên với người ấy: "Chính tự ngă của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đă làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngă ấy của ta-là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại". Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hư luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược. Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, tuệ tri các pháp cần phải tác ư, tuệ tri các pháp không cần phải tác ư. Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ư, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ư, nên không tác ư các pháp không cần phải tác ư và tác ư các pháp cần phải tác ư.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ư và vị này không tác ư? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do tác ư mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đă sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh được khởi, hay vô minh lậu đă sanh được tăng trưởng. Đó là những pháp không nên tác ư và vị ấy không tác ư. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ư và vị ấy tác ư? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do tác ư mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đă sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đă sanh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ư và vị ấy tác ư. Nhờ vị ấy không tác ư các pháp không cần phải tác ư, tác ư các pháp cần phải tác ư nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đă sanh được trừ diệt.

Vị ấy như lư tác ư: "Đây là khổ", như lư tác ư: "Đây là khổ tập", như lư tác ư: "Đây là khổ diệt", như lư tác ư: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ư như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ.

(Các lậu hoặc phải do pḥng hộ được đoạn trừ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do pḥng hộ được đoạn trừ? Ở đây, có Tỷ-kheo như lư giác sát, sống pḥng hộ với sự pḥng hộ con mắt. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không pḥng hộ với sự pḥng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo có thể khởi lên. Nếu sống pḥng hộ với sự pḥng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Vị ấy như lư giác sát, sống pḥng hộ với sự pḥng hộ lỗ tai... (như trên)... sống pḥng hộ với sự pḥng hộ lỗi mũi... (như trên)... sống pḥng hộ với sự pḥng hộ lưỡi... (như trên)... sống như lư giác sát pḥng hộ với sự pḥng hộ thân căn... (như trên)... sống như lư giác sát pḥng hộ với sự pḥng hộ ư căn. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không pḥng hộ với sự pḥng hộ ư căn, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy có thể khởi lên. Nếu sống pḥng hộ ư căn, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do pḥng hộ được đoạn trừ.

(Các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài ḅ sát, chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng.

Vị ấy như lư giác sát, thọ dụng món ăn khất thực không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp ḿnh, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hổ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn".

Vị ấy như lư giác sát, thọ dụng sàng tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loại ḅ sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của thời tiết, chỉ với mục đích sống độc cư an tịnh.

Vị ấy như lư giác sát thọ dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn chận các cảm giác khổ thống đă sanh, để được ly khổ hoàn toàn.

Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo có thể khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ.

(Các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lư giác sát, kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài ḅ sát; kham nhẫn những cách nói mạ lphỉ báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo có thể khởi lên. Nếu vị ấy kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.

(Các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát tránh né voi dữ, tránh né ngựa dữ, tránh né ḅ dữ, tránh né chó dữ, rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước. Có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai văng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du th́ bị các vị đồng phạm hạnh có trí nghi ngờ, khinh thường; vị ấy như lư giác sát tránh né chỗ ngồi không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai văng ấy và các bạn độc ác ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ.

(Các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát không có chấp nhận dục niệm đă khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (dục niệm ấy); không có chấp nhận sân niệm đă khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (sân niệm ấy); không có chấp nhận hại niệm đă khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (hại niệm ấy); không chấp nhận các ác bất thiện pháp luôn luôn khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (các ác bất thiện pháp ấy). Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn diệt.

(Các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lư giác sát tu tập niệm giác chi, niệm giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; như lư giác sát tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi; xả giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.

(Kết luận)

Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo những lậu hoặc nào phải do tri kiến được đoạn trừ đă được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do pḥng hộ được đoạn trừ đă được pḥng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng dược đoạn trừ đă được thọ dụng đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được đoạn trừ đă được kham nhẫn đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né được đoạn trừ đă được tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do trừ diệt được đoạn trừ đă được trừ diệt đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tu tập được đoạn trừ đă được tu tập đoạn trừ; này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đă sống pḥng hộ với sự pḥng hộ tất cả lậu hoặc, đă đoạn diệt khát ái, đă thoát ly kiết sử, đă chánh quán kiêu mạn, đă diệt tận khổ đau.

Như vậy Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

Ḥa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

1 1 1