PHẨM 14: ĐẠO SƯ - PHẨM PHẬT ĐÀ (BUDDHAVAGGA) - DẪN NHẬP
 Tỳ Khưu Giác Đẳng
 

     
 

DẪN NHẬP PHẨM PHẬT ĐÀ
 

 
   

Trích từ Đức Phật Và Phật Pháp - Narada - bản dịch của Phạm Kim Khánh

Đạo Quả Phật

 

"Các Đấng Như Lai chỉ là những vị thầy"-- Kinh Pháp Cú


Đặc Điểm Của Đức Phật

Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu phi thường kéo dài sáu năm đăng đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài và không được sự hướng dẫn của một năng lực siêu phàm nào, đơn độc một ḿnh và chỉ nương nhờ nơi nỗ lực của chính ḿnh, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm), lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến tŕnh tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đă trở thành một vị Phật (Buddha), Đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn Giác. Kể từ ngày ấy, Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama) [1], một trong chuỗi dài những vị Phật đă xuất hiện trong quá khứ và sẽ xuất hiện trong tương lai.

Không phải khi sanh ra Ngài đă là Phật, mà Ngài trở thành Phật do sự nỗ lực của ḿnh.

Phạn ngữ Buddha (Phật) xuất nguyên từ căn "Budh", là hiểu biết hay thức tỉnh. Gọi là Buddha (Phật) v́ Ngài hiểu biết đầy đủ Bốn Chân Lư Thâm Diệu Cao Quư (Tứ Diệu Đế), và từ giấc mơ vô minh Ngài đă thức tỉnh. Chẳng những hoàn toàn thấu triệt, mà Ngài c̣n có đủ khả năng truyền bá giáo lư nên cũng gọi là Samma Sambuddha (Chánh Biến Tri, âm là Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề) để phân biệt với chư Phật Pacceka (Độc Giác, cá nhân, đơn độc) chỉ thấu triệt giáo lư mà không thể rọi sáng cho kẻ khác, tự giác nhưng không thể giác tha.

Trước khi thành đạt Đạo Quả Phật, Ngài được gọi là Bồ Tát (Bodhisatta) [2], có nghĩa là người có nguyện vọng trở thành Phật.

Người muốn đắc Quả Phật phải trải qua thời kỳ Bồ Tát, một thời kỳ tích cực trau giồi và phát triển những phẩm hạnh: bố thí, tŕ giới, từ khước (xuất gia), trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.

Trong một thời kỳ chỉ có một đấng Chánh Biến Tri. Cũng như có những loại cây, trọn đời chỉ trổ ra một bông, một hệ thống thế gian (lokadhatu) chỉ có một đấng Chánh Biến Tri.

Đức Phật là chúng sanh duy nhất, là nhân vật hy hữu, chỉ thật lâu mới có thể xuất hiện trên thế gian, v́ ḷng bi mẫn, v́ sự tốt đẹp, v́ lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại. Tôn vinh Ngài là "Acchariya manussa" v́ Ngài là một con người kỳ diệu lạ thường. Tôn vinh Ngài là "Amatassa data" v́ Ngài đă ban bố t́nh trạng Bất Diệt. Tôn vinh Ngài là "Varado" v́ Ngài là người đă ban bố t́nh thương tinh khiết nhất, trí tuệ thâm sâu nhất và chân lư cao siêu nhất. Cũng tôn vinh Ngài là "Dhammassami" v́ Ngài là Pháp Vương, Chúa của Giáo Pháp (Dhamma).

Như Đức Phật dạy, Ngài là:

"Đấng Như Lai (Tathagata), bậc Ứng Cúng (Araham), đấng Chánh Biến Tri (Samma Sambuddha), người đă sanh ra con đường vô sanh, đă sáng tạo con đường chưa được sáng tạo, đă công bố con đường chưa được công bố, người đă hiểu biết con đường, người đă mục kích con đường, người đă nhận thức con đường" [3].

Không có vị thầy nào dạy Đức Phật phương pháp tu học để chứng Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, "Na me acariyo atthi" [4], "một đạo sư, ta không có", là chính lời của Đức Phật. Ngài có học với những vị thầy để hiểu biết thế gian pháp [5] nhưng để đến tầng siêu thế th́ không. Chính Ngài tự lực thành đạt trí tuệ trực giác.

Nếu Đức Phật đă nhờ một vị thầy hay một hệ thống tín ngưỡng nào như Ấn Độ Giáo chẳng hạn -- tôn giáo mà Ngài đă trưởng thành trong ấy -- để phát triển trí tuệ siêu phàm, th́ ắt Ngài không thể tự gọi là "đạo sư vô song" (aham sattha anuttaro) [6]. Trong bài Pháp đầu tiên, Ngài tuyên bố rằng ánh sáng đă rọi rơ cho Ngài trong những việc chưa từng được nghe.

Trong những ngày đầu tiên sau khi xuất gia tầm đạo, Ngài cố t́m đến sự hướng dẫn của những vị thầy lỗi lạc nhất thời bấy giờ, nhưng trong giáo huấn của các vị thầy này không t́m thấy được điều mong mỏi. T́nh thế bắt buộc Ngài phải tự ḿnh suy niệm và quay trở vào bên trong để t́m Chân Lư. Và Ngài đă t́m ra Chân Lư bên trong Ngài. Ngài theo dơi đến tận mức thâm sâu nhất của ḍng tư tưởng, và chứng ngộ Chân Lư cùng tột, chưa bao giờ từng được nghe và chưa từng được biết. Tuệ giác phát sanh từ bên trong và rọi sáng những sự vật mà trước kia Ngài chưa từng nghe thấy.

V́ Ngài đă thấu triệt tất cả những ǵ cần được biết và đă nắm được cái ch́a khóa mở cửa vào mọi kiến thức, nên tôn Ngài là Sabbannu, bậc Toàn Giác. Đó là trí tuệ siêu phàm mà Ngài đă dày công trau giồi, trải qua vô lượng tiền kiếp.

Phật Là Ai?

Ngày nọ có người theo đạo Bà La Môn tên Dona, nhân khi thấy dấu chân của Đức Phật in dưới cát có những đặc điểm lạ thường, đến gần Ngài và hỏi:

- Phải chăng Ngài là một vị Trời (Deva)?

- Không, quả thật tôi không phải là một vị Trời.

- Vậy phải chăng Ngài là một nhạc công trong cảnh Trời (Gandhabba)?

- Không, tôi không phải là một nhạc công trong cảnh Trời.

- Vậy Ngài là quỷ Yakka chăng?

- Không, quả thật tôi cũng không phải là quỷ Yakka.

- Như thế chắc Ngài là người?

- Không, quả thật tôi cũng không phải là người.

- Vậy, xin cho biết Ngài là ai?

Đức Phật trả lời rằng Ngài đă tận diệt những pháp trầm luân (hoặc lậu), vốn tạo điều kiện để tái sanh vào những cảnh Trời, Gandhabba, Yakka hay cảnh người, và thêm:

"Như hoa sen, đẹp đẽ và dễ mến,
Không ô nhiễm bùn dơ nước đục,
Giữa đám bụi trần, ta không vướng chút bợn nhơ.
Như vậy, Ta là Phật."
[7]

Đức Phật không hề tự xưng là hiện thân (avatara) của thần Vishnu, một Thần Linh Ấn Độ Giáo mà kinh Bhagavadgita đă ca ngợi một cách huyền diệu, sanh ra để bảo vệ sự chân chánh, tiêu diệt tội lỗi và để thiết lập và củng cố đạo lư (Dharma).

Theo lời dạy của Đức Phật th́ có hằng hà sa số chư Thiên (Deva, cũng gọi là những vị Trời) -- cũng là hạng chúng sanh, c̣n phải chịu sanh tử luân hồi -- nhưng không có một Thần Linh Tối Thượng, với quyền lực siêu thế, kiểm soát vận mạng con người, xuất hiện trên thế gian từng lúc, dùng h́nh thức người làm phương tiện. [8]

Đức Phật cũng không bao giờ tự gọi là "Đấng Cứu Thế" có quyền năng cứu vớt kẻ khác bằng chính sự cứu rỗi của ḿnh. Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỷ bước theo dấu chân Ngài không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự ḿnh giải thoát lấy ḿnh, bởi v́ cả hai trong sạch và bợn nhơ, cũng đều tùy thuộc nơi chính ḿnh. Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm. [9]

Để minh định rơ ràng mối tương quan của Ngài đối với hàng môn đệ và để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kiện tự ḿnh nhận lănh trọn vẹn trách nhiệm và tự ḿnh nỗ lực kiên tŕ, Đức Phật minh bạch dạy rằng:

"Các con phải tự ḿnh nỗ lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo sư." [10]

Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau của ṿng sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh. Đi trên con đường và theo đúng phương pháp cùng không, là phần của người đệ tử chân thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống.

"Ỷ lại nơi kẻ khác để giải thoát cho ḿnh là tiêu cực. Nhưng đảm đang lănh lấy trách nhiệm, chỉ tùy thuộc nơi ḿnh để tự giải thoát, quả thật là tích cực."

Tùy thuộc nơi người khác là đem tất cả cố gắng của chúng ta ra quy hàng.

"Hăy tự xem con là hải đảo của con. Hăy tự xem con là nương tựa của con. Không nên t́m nương tựa nơi ai khác!" [11]

Các lời lẽ có rất nhiều ư nghĩa kia mà Đức Phật đă dạy trong những ngày sau cùng của Ngài quả thật mạnh mẽ, nổi bật và cảm kích. Điều này chứng tỏ rằng cố gắng cá nhân là yếu tố tối cần để thành tựu mục tiêu. T́m sự cứu rỗi nơi những nhân vật hảo tâm có quyền năng cứu thế và khát khao ham muốn hạnh phúc ảo huyền xuyên qua những lời van vái nguyện cầu vô hiệu quả và nghi thức cúng tế vô nghĩa lư, quả thật là thiển bạc và vô ích.

Đức Phật là một người như chúng ta. Ngài sanh ra là một người, sống như một người, và từ giă cơi đời như một người. Mặc dầu là người, Ngài trở thành một người phi thường, một bậc siêu nhân, do những cá tính đặc biệt duy nhất của Ngài. Đức Phật đă ân cần nhắc nhở nhiều lần như vậy và không có điểm nào trong đời sống hoặc trong lời dạy của Ngài để chúng ta lầm hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt. Có lời phê b́nh rằng lịch sử nhân loại, không hề có vị giáo chủ nào "phi thần linh hơn Đức Phật, tuy nhiên, cũng không có vị nào có đặc tánh thần linh hơn Đức Phật" [12]

Trong thời Ngài c̣n tại thế, Đức Phật chắc chắn được hàng tín đồ hết ḷng tôn kính, nhưng không bao giờ Ngài tự xưng là Thần Linh.

Tánh Cách Vĩ Đại Của Đức Phật

Sanh ra là một người, sống như một người, Đức Phật thành đạt trạng thái tối thượng của sự toàn thiện, Đạo Quả Phật, do sức kiên tŕ nỗ lực cá nhân. Nhưng Ngài không dành giữ sự liễu ngộ siêu phàm cho riêng ḿnh mà công bố trước thế gian rằng tâm có khả năng và oai lực bất khuất. Không khi nào tự hào rằng chỉ có Ngài là người duy nhất đắc Quả Phật, v́ Đạo Quả Phật không phải là ân huệ đặc biệt dành riêng cho một cá nhân tốt phước nào đă được chọn trước.

Thay v́ đặt trên con người một thần linh vạn năng vô h́nh và cho con người một địa vị khép nép rụt rè, Đức Phật chứng minh rằng con người có thể thành đạt trí tuệ cao siêu và Đạo Quả tối thượng do sự cố gắng của chính ḿnh. Và như vậy, Đức Phật nâng cao phẩm giá con người. Ngài dạy rằng muốn thoát ra khỏi ṿng trầm luân phiền năo, chính ta phải tự ḿnh gia công cố gắng chớ không phải phục tùng, tùy thuộc nơi một thần linh, hay một nhân vật nào làm trung gian giữa ta và vị thần linh ấy.

Trong thế gian ngă chấp, lấy ḿnh làm trung tâm của vũ trụ và chạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lư tưởng cao quư của sự phục vụ bất cầu lợi. Ngài chống đối tệ đoan phân chia giai cấp trong xă hội -- chỉ làm trở ngại mức độ tiến hoá của loài người -- và luôn luôn bênh vực công lư, khuyên dạy b́nh đẳng giữa người và người. Ngài tuyên bố rằng cánh cửa đưa vào sự thành công và thạnh vượng phải rộng mở cho tất cả mọi người, ai cũng như ai, dầu cao thấp, sang hèn, đạo đức hay tội lỗi, nếu người ấy cố công cải thiện nếp sống, hướng về con đường trong sạch. Ngài nâng đỡ hoàn cảnh của người phụ nữ, lúc bấy giờ bị xă hội khinh thường, không những bằng cách nâng phẩm giá của người đàn bà lên đúng tầm quan trọng, mà c̣n sáng lập giáo hội đầu tiên trong lịch sử cho hàng phụ nữ. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Ngài đứng lên cố gắng đánh đổ chế độ mua bán người làm nô lệ. Ngài băi bỏ phong tục đem những con vật xấu số ra giết để cúng tế thần linh và nới rộng tâm Từ, bao trùm luôn cả loài thú.

Không bao giờ Đức Phật cưỡng bách tín đồ phải làm nô lệ cho giáo lư của ḿnh hay cho chính ḿnh. Những ai bước theo dấu chân Ngài đều được tự do tư tưởng. Ngài khuyên dạy hàng môn đệ không nên nhắm mắt chấp nhận những lời của Ngài chỉ v́ kính nể, tôn trọng, nhưng phải xem xét, nghiên cứu, suy niệm cẩn thận cũng như người trí tuệ muốn thử vàng, phải "đốt, cắt và chà vào đá".

Đức Phật nâng đỡ những bà mẹ bạc phước như Patacara và Kisagotami bằng những lời khuyên lơn an ủi. Ngài tự tay chăm sóc những người bệnh hoạn cô đơn như Putigatta Tissa Thera. Ngài giúp đỡ người nghèo đói và bị bỏ rơi, không noi nương tựa như Rajjumala và Sopaka và giải cứu những vị này khỏi phải chết oan thê thảm. Đức Phật nâng cao đời sống đạo đức của hạng người tội lỗi sát nhân như Angulimala và hạng gái giang hồ hư hỏng như Ambapali. Ngài khuyến khích kẻ yếu, đoàn kết người chia rẽ, đem ánh sáng đến cho người vô minh tăm tối, dắt dẫn kẻ mê muội lầm đường, nâng đỡ người thấp kém và tăng cao phẩm giá người cao quư. Người nghèo, người giàu, người lương thiện và người tội lỗi, tất cả đều quư mến Ngài như nhau. Những bậc vua chúa tàn bạo độc tài và những v́ minh quân chánh trực, những hoàng tử vinh quang hiển hách và những người sống cuộc đời tối tăm, không ai biết đến, những nhà triệu phú giàu ḷng quảng đại, những vị keo kiết bỏn xẻn, những học giả khiêm tốn và những người kiêu căng tự đắc, hạng gái giang hồ, hạng người làm nghề bẩn thỉu, hạng sát nhân, hạng người thường bị khinh bỉ, tất cả đều có hưởng những lời khuyên dạy đầy trí tuệ và từ bi của Đức Phật. Gương lành cao quư của Ngài là nguồn gợi cảm, là niềm khích lệ cho tất cả. Ngài là vị đạo sư giàu ḷng bi mẩn và rộng lượng khoan hồng hơn tất cả.

Ư chí sắt đá, trí tuệ cao siêu, ḷng bi mẫn vô biên, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly chưa từng có, đời sống gương mẫu, những phương pháp toàn thiện mà Ngài đă áp dụng để truyền bá giáo lư, và sự thành công tối hậu của Ngài -- tất cả những yếu tố ấy đă khiến một phần năm nhân loại tôn thờ Ngài là vị giáo chủ siêu việt nhất tự cổ chí kim.

Để tỏ ḷng kính thâm sâu của ḿnh đối với Đức Phật, Sri Radhakrishnan viết:

"Nơi Đức Phật Gotama (Cồ Đàm) ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người phương Đông. Ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu, cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đă dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng cao thâm huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí bởi v́, đứng về phương diện trí thức, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử". [13]

Trong quyển "Three Greatest Men in History", nhà học giả H. G. Wells ghi nhận như sau:

"Nơi Đức Phật ta thấy rơ ràng là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một ḿnh tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người như mọi người chớ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang đường. Ngài cũng ban bố cho nhân loại lời kêu gọi có tính cách phổ thông. Bao nhiêu quan niệm của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lư ấy. Đức Phật dạy rằng tất cả những gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do ḷng ích kỷ sanh ra. Trước khi có thể trở nên vắng lặng, con người cần phải ngừng sống cho giác quan ḿnh. Rồi từ đó, vượt lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc đời siêu nhiên. Năm trăm năm trước Chúa Christ (Ki Tô), xuyên qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, Phật Giáo đă kêu gọi con người nên tự quên ḿnh. Đứng về một vài phương diện, giữa ta (là người Âu) và những nhu cầu của chúng ta và Phật Giáo, có nhiều quan điểm gần nhau. Đối với tầm quan trọng của con người trong sự phục vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt hơn, và đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp nhân sinh, Ngài ít lúng túng trong biện thuyết mập mờ hơn Chúa Ki Tô."

Thi sĩ Tagore tôn Ngài là bậc Vĩ Nhân Cao Quư nhất trên thế gian.

Một triết gia người Đan Mạch, ông Fausboll, tán dương Đức Phật với những lời lẽ như sau:

"Càng hiểu biết Ngài, tôi càng quư mến Ngài".

Một tín đồ từ tốn của Đức Phật sẽ nói:

"Càng hiểu biết Ngài, tôi càng quư mến Ngài. Càng quư mến Ngài, tôi càng hiểu biết Ngài".


Chú thích:

[1] Hàng tín đồ gọi Ngài là Đức Phật (Buddha), Đức Thế Tôn (Bhagava), Đức Thiện Thệ (Sugata) v.v... Những người ở đạo khác gọi Ngài là Tôn Giả Cồ Đàm (Bho Gotama), Sa Môn Cồ Đàm (Samana Gotama) v.v... Khi đề cập đến ḿnh, Đức Phật dùng danh từ "Như Lai" (Tathagata) có nghĩa là "người đă đến như vậy", "người đă ra đi như vậy".

[2] Sanskrit: Bodhisatva. Xem Chương 40 và 41.

[3] Samyutta Nikaya, Tạp A-Hàm phần 3, trang 66; Kindred Sayings, phần 3, tr.58

[4] Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm, Ariyapariyesana Sutta, số 26

[5] Như Kondanna, Alara Kalama, Uddaka Ramaputta v.v...

[6] Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm, Kinh Ariyapariyesana Sutta, số 26

[7] Gradual Sayings, phần 2, tr. 44-45. Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A-Hàm, phần 2, tr. 37.

[8] Tuy nhiên, có những vị đạo sư Ấn Độ Giáo, để khuyến dụ người Phật tử theo tôn giáo ḿnh, đă sai lầm gọi Đức Phật là hiện thân của một Thần Linh Ấn Độ Giáo, điều mà Đức Phật đă bác bỏ từ lúc c̣n tại tiền.

[9] Pháp Cú, 165: Trong sạch hay ô nhiễm đều tùy nơi ta. Khong ai làm cho người khác trong sạch được.

[10] Pháp Cú, 276

[11] Digha Nikaya - Trường A-Hàm, Mahaparinibbana Sutta - Kinh Đại Bát Niết Bàn.

[12] Dwight Goddard - Buddhist Bible, trang 20.

[13] Gautama The Buddha, trang 1.

 

 

   
1 1