Bài Học Lưu Trữ | Kinh Pháp Cú
Phẩm 03: Đời Sống Nội Tại - Phẩm Tâm Ư (Citta Vagga) - Dẫn Nhập |
|
Tỳ khưu Giác Đẳng | |
|
Bài Đọc Thêm QUÁN
TƯỞNG Đức Phật dạy: "Hỏi các Tỳ kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy là ǵ? Bệnh thể xác và bệnh tinh thần. Có những người hưởng sự vô bệnh về thể xác trong một năm, hai năm... cả đến 100 năm hay hơn nữa. Nhưng, này các Tỳ kheo, hiếm thay trong thế gian này là những người hưởng được sự vô bệnh về tinh thần, ngay cả trong chốc lát, trừ phi những người đă thoát khỏi những tâm xấu xa ô nhiễm" (có nghĩa là những vị A-la-hán)[1]. Giáo lư Phật, đặc biệt phương pháp thiền quán nhằm mục đích phát sinh một trạng thái sức khỏe tinh thần hoàn hảo, quân b́nh và an tịnh. Điều bất hạnh là không một ngành nào trong giáo lư Phật bị hiểu lầm nhiều như thiền, bởi chính những Phật tử cũng như người ngoài. Mỗi khi nói đến "thiền" người ta nghĩ ngay đến sự thoát ly những sinh hoạt thường ngày, ngồi yên như pho tượng trong hang hay trong một tu viện, ở một nơi xa xăm tách biệt hẳn với xă hội, để ḿnh ch́m đắm trong một thứ trầm tư xuất thần huyền bí. Thiền chân chính của đạo Phật tuyệt nhiên không phải là kiểu trốn đời như thế. Người ta đă hiểu sai lạc hay quá ít hiểu biết về vấn đề này trong giáo lư Phật, đến nỗi về sau này, thiền đạo đă bị suy đồi thành một thứ nghi thức hay lễ tục thông thường, hầu như kỹ thuật[2]. Phần đông người ta chú trọng đến thiền định hay "yoga" để luyện một vài năng lực tâm linh thần bí như "con mắt thứ ba" mà người khác không có. Một vài năm trước, có một nữ tu sĩ Phật giáo ở Ấn Độ cố phát triển một khả năng nh́n thấy bằng lỗ tai, trong khi bà vẫn c̣n thấy được hoàn toàn với hai con mắt! Những ư nghĩ như vậy chỉ là một tâm bệnh quái đản. Luôn luôn đấy vẫn là vấn đề dục vọng: khao khát có được năng lực, quyền phép, dù trong lănh vực chính trị, quân sự, kinh tế hay tu hành... Thiền định là một danh từ kém cỏi để dịch nguyên ngữ Bhàvanà, có nghĩa sự đào luyện tâm linh. Bhàvanà trong Phật giáo nói đúng ra, là một sự đào luyện tâm linh trong ư nghĩa toàn vẹn nhất của danh từ. Nó nhằm mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những ô nhiễm, những thứ làm tâm giao động như ư tưởng về dâm dục, sân hận, ác độc, biếng nhác, phiền năo, bất an, hoài nghi; và đào luyện những đức tính như tập trung, chú ư, thông minh, ư chí, nghị lực, khả năng phân tích, niềm tin, hoan hỉ, an tịnh, để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả thấy rơ thực chất của mọi sự vật, và thực chứng chân lư tối hậu, Niết-bàn. Có hai h́nh thức thiền định. Một là phát triển sự tập trung tâm ư (Định, samatha hay samàdhi), sự nhất tâm (cittekaggatà, Skt. cittaikàgratà), bằng nhiều phương pháp được đề cập trong các kinh, đưa đến những cảnh giới huyền vi như "không vô biên xứ" hay "phi tưởng phi phi tưởng xứ" (không có tri giác cũng không không tri giác). Tất cả những trạng thái huyền bí này, theo Phật đều do tâm tạo, là sản phẩm của tâm, do tâm định đoạt (hay hữu vi, samkhata)[3]. Chúng không dính dấp ǵ đến thực tại, chân lư, Niết-bàn. H́nh thức thiền định này đă có từ trước thời Phật. V́ vậy nó không thuần túy là của Phật giáo, nhưng cũng không bị loại ra ngoài lănh vực thiền định Phật giáo. Tuy nhiên nó không thiết yếu cho sự thực chứng Niết-bàn. Trước khi giác ngộ Phật cũng đă luyện tập các phương pháp du già (yoga) này với nhiều vị thầy, và Ngài đă đạt đến những trạng thái tâm linh huyền bí cao siêu nhất, nhưng Ngài vẫn không thỏa măn với chúng, v́ chúng không đem lại giải thoát hoàn toàn, không đem lại kiến giải về thực tại tối hậu. Ngài xem những trạng thái huyền bí ấy chỉ là sự sống hạnh phúc trong hiện tại, gọi là hiện tại lạc trú (ditthadhammasukhavihàra) hay tịch tịnh trú (santavihàra), nhưng ngoài ra không đem lại ǵ hơn[4]. Bởi thế Ngài đă t́m ra h́nh thức khác của thiền định gọi là vipassanà, thiền quán hay minh sát bản chất của sự vật, đưa đến sự giải thoát hoàn toàn của tâm, đến sự thực chứng Chân lư tối hậu, Niết-bàn. Đấy là thiền chính yếu, phương pháp tu tâm theo Phật giáo. Đấy là một phương pháp phân tích căn cứ trên sự chú ư, ư thức sáng suốt, tỉnh giác, quan sát. Một vấn đề rộng lớn quan trọng như thế không thể nào nói đủ trong chỉ vài trang giấy, nhưng ở đây sẽ cố tŕnh bày sơ lược ǵ là thiền Phật giáo đích thực mà từ đó độc giả có thể rút ra những lợi ích thực tiễn. Bài thuyết pháp quan trọng nhất của Phật về thiền hay tu tâm là kinh Niệm xứ (Satipatthànasutta, kinh Trường bộ Digha-nikàya, số 12 - hay Trung bộ Majjhima-nikàna, số 10.) Bài kinh này rất được sùng mộ trong truyền thống Phật giáo đến nỗi nó thường được tụng không những trong các tu viện Phật giáo mà cả đến trong nhà tín đồ, những người trong gia đ́nh ngồi quanh lắng nghe một cách thuần thành. Những thầy tu thường tụng kinh này bên giường người sắp chết để thanh lọc những ư tưởng cuối cùng của họ[5]. Những cách thức "thiền định" trong bài kinh ấy không tách rời khỏi sinh hoạt hàng ngày, không tránh đời. Trái lại tất cả sự tu tập ấy đều liên quan đến đời sống chúng ta, đến những hoạt động chúng ta hàng ngày, đến những vui buồn của chúng ta, đến lời nói và ư nghĩ chúng ta, đến những công việc chúng ta thuộc lĩnh vực đạo đức hay tri thức. Bài thuyết pháp ấy được chia làm 4 phần chính. Phần đầu nói đến thân thể chúng ta (kàya, thân); phần thứ hai nói đến những cảm giác và cảm tưởng của ta (vedanà, thọ); phần thứ ba nói về tâm ta (citta); và phần thứ tư nói về những chủ đề đạo đức và tri thức (dhamma, pháp). Ta cần nhớ rơ một điều là, dù thiền định dưới h́nh thức nào, điều cốt yếu là sự chú ư, tỉnh thức hoàn toàn hay niệm (sati), sự chú ư quan sát (anupassanà, tùy quán). Một trong những điển h́nh thiền thông dụng, thực tiễn và quen thuộc nhất liên hệ đến thân thể là "niệm hơi thở vô ra" (ànàpànasati). Chỉ riêng pháp thiền này mới cần một thế ngồi đặc biệt như kinh đă chỉ dẫn. Với các h́nh thức thiền khác được bàn trong kinh ấy, bạn có thể ngồi đứng, đi hay nằm tùy ư. Nhưng với thiền "niệm hơi thở vô ra" th́ kinh dạy ta nên ngồi "kiết già, lưng thẳng, ư thức sáng suốt." Nhưng ngồi kiết già không thích hợp và dễ dàng cho mọi người mọi xứ, nhất là cho những người Âu. Bởi thế những người không ngồi kiết già hay bán già được có thể ngồi trên một chiếc ghế, "giữ lưng thẳng và ư thức sáng suốt". Điều tối cần thiết để luyện tập là hành giả phải ngồi thật thẳng, nhưng không cứng đơ, bàn tay để thoải mái trên đùi. Xong có thể nhắm mắt hay nh́n chót mũi ḿnh. Bạn hít vào thở ra suốt ngày đêm, nhưng không bao giờ để ư điều đó, không giây phút nào bạn tập trung tâm ḿnh vào hơi thở. Bây giờ, bạn sẽ làm chỉ một việc ấy. Cứ hít vào thở ra như thường lệ, không một gắng sức hay gượng ép nào. Rồi bạn đem tâm trí tập trung vào hơi hít vô, thở ra của bạn, để cho tâm quan sát hơi thở vô, hơi thở ra. Hơi thở ấy có thể khi dài, khi ngắn, điều ấy không sao cả. Cứ thở b́nh thường, tự nhiên. Điều quan trọng duy nhất là khi bạn thở hơi sâu dài, bạn phải biết rơ đấy là hơi thở sâu dài, khi hơi thở ngắn, bạn rơ biết nó ngắn. Nói cách khác, tâm trí bạn phải hoàn toàn tập trung vào hơi thở đến nỗi bạn biết rơ những vận hành và nhịp điệu biến đổi của nó. Hăy quên hết mọi việc khác, quên những ǵ xung quanh bạn. Đừng đưa mắt lên, đừng nh́n bất cứ cái ǵ. Hăy cố làm như vậy trong chừng năm hoặc mười phút. Lúc đầu bạn thấy vô cùng khó khăn để tập trung tâm vào hơi thở. Bạn sẽ ngạc nhiên thấy tâm chạy lăng xăng. Nó không ở yên một chỗ. Bạn khởi sự nghĩ nhiều chuyện khác nhau. Bạn nghe những âm thanh bên ngoài. Tâm bạn bị giao động, lo ra. Bạn có thể nản chí, thất vọng về điều ấy. Nhưng nếu bạn tiếp tục luyện tập như thế mỗi ngày hai bận, sáng và chiều, mỗi lần chừng năm, mười phút, bạn sẽ dần dần bắt đầu tập trung được tâm vào hơi thở. Sau một thời gian, bạn sẽ kinh nghiệm một giây phút ngắn ngủi trong đó tâm bạn hoàn toàn tập trung vào hơi thở, không c̣n nghe cả đến những âm thanh gần, giây phút mà ngoại giới không có nữa đối với bạn. Cái giây phút mong manh này thật là một kinh nghiệm lớn lao đối với bạn, đầy hạnh phúc hoan lạc và b́nh an, khiến bạn muốn kéo dài nó. Nhưng bạn chưa thể làm được. Tuy thế, nếu tiếp tục luyện tập đều đặn, bạn có thể có lại kinh nghiệm ấy nhiều lần trong những thời khoản càng ngày càng dài hơn. Đấy là lúc bạn hoàn toàn quên ḿnh, chỉ chú ư hơi thở. Khi c̣n có ư thức về chính ḿnh, th́ bạn không bao giờ có thể tập trung vào một cái ǵ. Lối tập chú ư hơi thở này, một lối giản dị và dễ nhất, là cốt để phát triển lực tập trung dẫn đến những trạng thái thiền cao siêu. Ngoài ra, năng lực tập trung c̣n là điều cốt yếu để đạt đến bất cứ sự hiểu biết sâu xa nào, sự thâm nhập, tri kiến về bản chất của vạn hữu, kể cả sự thực chứng Niết-bàn. Ngoài ra, sự luyện tập này về hơi thở đem lại cho bạn những kết quả tức th́. Nó lợi ích cho sức khỏe của bạn, giúp bạn thoải mái, ngủ ngon, và có hiệu năng trong công việc hằng ngày. Nó làm cho bạn b́nh an thanh thản. Ngay cả những lúc nóng nảy xúc động, nếu thực hành pháp quán này vài phút, bạn sẽ thấy ḿnh trở lại b́nh tĩnh, lắng dịu ngay. Bạn cảm thấy như vừa được nghỉ ngơi đầy đủ. Một h́nh thức thiền hay tu tâm khác nữa là có ư thức, để ư đến bất cứ ǵ bạn làm hay nói trong đời sống hàng ngày, khi ở một ḿnh, giữa công chúng hay khi hành nghề nghiệp. Dù khi đứng đi ngồi nằm hoặc ngủ, hoặc co giăn chân tay, hoặc nh́n quanh, hoặc mặc quần áo, hoặc nói năng hoặc im lặng hoặc ăn hoặc uống, hoặc ngay cả khi bạn đáp tiếng gọi của thiên nhiên - trong tất cả những động tác này và những động tác khác, bạn đều phải hoàn toàn ư thức và tỉnh táo về hành vi mà bạn đang làm mỗi lúc. Thế nghĩa là, bạn phải sống trong phút hiện tại, trong hành động hiện tại. Điều này không có nghĩa bạn không nên nghĩ chút nào về quá khứ hay vị lai. Trái lại, bạn nghĩ về chúng trong sự tương quan với hiện tại, hành động hiện tại, tùy lúc và tùy trường hợp. Người ta không thường sống trong hành động của họ, trong hiện tại. Họ sống trong quá khứ hoặc trong vị lai. Mặc dù họ dường như đang làm một việc ǵ ở đây và bây giờ, nhưng kỳ thực họ sống ở một nơi nào khác trong tâm tưởng họ, trong những âu lo và những vấn đề tưởng tượng của họ. Họ thường nhớ về quá khứ hay nuôi những khao khát và suy tưởng về tương lai. Bởi vậy họ không sống trong những ǵ họ đang làm, và cũng không thưởng thức được những ǵ họ đang làm trong mỗi lúc. Do đó họ bất măn và bất hạnh với hiện tại, với công việc đang làm, và dĩ nhiên họ không thể nào làm "hết ḿnh" những ǵ họ có vẻ đang làm. Đôi khi bạn thấy một người trong quán ăn vừa ăn vừa đọc - một cảnh rất thường. Họ cho bạn cái cảm tưởng rằng họ là một người rất bận bịu, không có th́ giờ để mà ăn nữa. Bạn tự hỏi họ đang ăn hay đang đọc. Người ta có thể nói họ làm cả hai chuyện. Nhưng thật ra họ không làm được việc nào, họ không thưởng thức được việc nào. Họ bị căng thẳng, rối ren trong tâm trí, không thưởng thức được những ǵ họ đang làm, mà vô t́nh một cách điên rồ họ đang cố thoát khỏi sự sống. (Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng người ta không nên nói chuyện với bạn trong lúc ăn trưa hay ăn tối). Dù cố gắng cách mấy, bạn cũng không thể nào thoát khỏi cuộc đời. Bao lâu bạn c̣n sống, dù trong thành thị hay trong hang động, bạn vẫn c̣n phải đối đầu với cuộc đời và sống nó. Sự sống chân thật là lúc hiện tại - không phải kư ức về quá khứ, v́ quá khứ đă chết đă trôi qua, cũng không phải những mơ mộng về tương lai, v́ tương lai chưa đến. Một con người sống trong hiện tại là sống đời sống chân thực, và là người hạnh phúc nhất. Khi có người hỏi Phật, v́ sao những đồ đệ của Ngài sống một cuộc đời đơn sơ lặng lẽ, chỉ ăn ngày một bữa mà lại hoan hỉ như thế. Đức Phật trả lời: "Họ không ân hận v́ quá khứ, họ cũng không trầm tư về tương lai. Họ sống trong hiện tại. Bởi thế họ hoan hỉ. V́ trầm tư tương lai và ân hận quá khứ, những người ngu khô héo như cây xanh bị chặt để dưới nắng."[6] Sự chú ư hay tỉnh thức không có nghĩa rằng bạn phải nghĩ và ư thức rằng "tôi đang làm cái này" hay "tôi đang làm cái kia". Không. Hoàn toàn trái lại. Lúc mà bạn nghĩ "tôi đang làm cái này", bạn đâm ra tự ư thức về ḿnh, và khi đó bạn không sống trong hành động ấy, mà bạn sống trong ư nghĩ về "tôi" và kết quả là việc làm của bạn cũng hỏng nốt. Bạn phải hoàn toàn quên bạn đi, đắm ḿnh trong những ǵ bạn đang làm. Lúc mà một thuyết tŕnh viên tự ư thức và nghĩ "tôi đang nói với khán giả" th́ lời lẽ của anh ta sẽ bị bối rối và ḍng tư tưởng bị gián đoạn. Nhưng khi anh ta quên ḿnh đi trong lúc nói, đặt hết ḿnh vào đề tài, th́ lúc ấy anh ta nói hay nhất, diễn đạt trôi chảy và giải thích mọi sự một cách rơ ràng. Mọi tác phẩm vĩ đại - về nghệ thuật, thi ca, tri thức hay tâm linh - đều được thành h́nh vào những lúc mà những người sáng tác hoàn toàn quên ḿnh trong hành động, say sưa với nó, và không c̣n ư thức về ḿnh. Sự chú ư hay tỉnh thức đối với những hoạt động của ḿnh chính là sống trong hiện tại, sống trong hành động hiện tại. (Đây cũng là cách của Zen, có căn bản chính yếu trên giáo lư này). Ở đây, trong h́nh thức "quán" này, bạn không cần phải làm một hành động nào đặc biệt để phát triển sự chú ư, mà bạn chỉ phải để ư và tỉnh giác (có ư thức) về bất cứ ǵ bạn làm. Bạn không cần phải phí phạm một giây phút nào của thời gian quư báu để thực hành pháp "quán" đặc biệt này: bạn chỉ cần luôn luôn đào luyện sự chú ư và tỉnh thức, ngày và đêm, đối với tất cả mọi hoạt động của bạn trong đời sống thường nhật. Hai h́nh thức "quán" trên đây thuộc về quán thân. Kế đến có một cách thiền hay tu tâm đối với mọi cảm giác và cảm tưởng của ta, dù vui, khổ hay không vui không khổ. Ta hăy lấy một ví dụ: Bạn kinh nghiệm một cảm giác đau buồn, bất hạnh. Trong t́nh trạng ấy tâm trí bạn bị suy sụp, mờ mịt, u ám, không quang đăng. Đôi khi bạn lại c̣n không thấy được tại sao ḿnh có cảm giác bất hạnh đó. Trước tiên, bạn phải tập đừng buồn về những cảm giác bất hạnh của ḿnh. Nhưng hăy cố t́m hiểu rơ v́ sao ḿnh lại có một cảm giác hay cảm tưởng bất hạnh, lo âu, hay buồn sầu. Cố xem xét nó phát khởi ra sao, nguyên nhân của nó, và nó tan biến như thế nào, sự chấm dứt của nó. Cố xem xét nó, làm như bạn đang quan sát nó từ bên ngoài, không có một phản ứng chủ quan nào cả, như một nhà khoa học quan sát một đối tượng. Ở đây cũng thế, bạn không nên nh́n nó như là "cảm giác của tôi" hay "cảm tưởng của tôi" một cách chủ quan mà chỉ nh́n nó như "một cảm giác" hay "một cảm tưởng" theo cách khách quan. Bạn lại cũng cần quên đi ư tưởng sai lầm về "tôi". Khi bạn thấy bản chất của nó, nó sinh và diệt ra sao, tâm thức bạn dần trở nên dửng dưng đối với cảm giác ấy, và hoàn toàn hết ràng buộc, bạn được giải thoát, tự do. Đối với mọi cảm giác hay cảm tưởng khác cũng thế. Bây giờ ta hăy bàn đến h́nh thức thiền quán về tâm. Bạn cần phải hoàn toàn ư thức tâm ḿnh đang mê hay tỉnh; nó đầy hận thù, ác độc, ghen ghét, hay đầy t́nh yêu, từ bi; nó đang có ảo tưởng hay thấy biết chân xác rơ ràng v.v.. Ta phải công nhận rằng rất thường khi ta sợ hăi hay hổ thẹn, không dám nh́n thẳng vào tâm ḿnh. Bởi thế ta ưa lẩn tránh nó. Nhưng ta nên can đảm, thành thật nh́n vào tâm ḿnh như nh́n mặt ḿnh trong gương[7]. Ở đây không có thái độ chỉ trích hay phê phán, hoặc phân biệt phải trái, tốt xấu. Chỉ có sự quan sát, ngắm nh́n, xem xét. Bạn không phải là một quan ṭa, mà là một nhà khoa học. Khi quan sát tâm bạn, và thấy rơ bản chất đích thực của nó, bạn trở nên dửng dưng với những cảm xúc, t́nh cảm và trạng huống của tâm. Nhờ thế bạn không c̣n bị dính mắc ràng buộc, và được tự do để thấy mọi sự đúng như thật. Ta hăy lấy một ví dụ. Giả sử bạn tức giận thật sự, sôi sục v́ giận dữ, ác độc, thù hằn. Điều thật lạ lùng mâu thuẫn là người đang tức giận thường không tự biết, không để ư rằng ḿnh đang tức giận. Lúc người ấy chú ư, có ư thức về tâm trạng của ḿnh, thấy được sự tức giận của ḿnh, th́ sự giận dữ đó dường như đâm ra mắc cỡ, bẽn lẽn, và bắt đầu nguôi bớt. Bạn phải xem xét bản chất của nó, nó sinh làm sao, diệt thế nào. Ở đây lại cũng cần nhớ rằng bạn không nên nghĩ "tôi đang tức giận" hay nghĩ về sự giận dữ "của tôi". Bạn chỉ cần ư thức và chú ư trạng thái của một tâm hồn giận dữ. Bạn chỉ quan sát và xem xét một cách khách quan cái tâm đang giận dữ. Đây phải là thái độ đối với tất cả mọi t́nh cảm, cảm xúc và trạng thái tâm. Kế tiếp c̣n một h́nh thức thiền quán về những đề mục luân lư, tâm linh và trí thức. Tất cả mọi sự nghiên cứu, đọc sách, thảo luận, đàm thoại và bàn căi về những đề mục như thế đều được bao gồm trong pháp thiền quán này. Đọc quyển sách này, và suy nghĩ sâu xa về những đề tài trong đó là một h́nh thức thiền quán. Chúng ta đă thấy trước đây [8] rằng cuộc đàm thoại giữa Khemaka và nhóm Tăng lữ là một h́nh thức thiền quán đă đưa đến sự thực chứng Niết-bàn. Bởi thế, theo h́nh thức thiền quán này, bạn có thể nghiên cứu, suy nghĩ, và thảo luận về "ngũ cái" (5 sự ngăn che, ńvarana) gồm có : 1. Tham dục (kàmacchanda). Năm pháp này được xem như chướng ngại cho bất cứ hiểu biết nào, và do đó, bất cứ sự tiến bộ nào. Khi bị chúng làm chủ, khi không biết trừ khử chúng, th́ con người không c̣n có thể hiểu được chính tà, tốt xấu. Người ta cũng có thể quán về Bảy giác chi (Bojjhanga) là bảy yếu tố của giác ngộ: 1. Niệm (sati): có ư thức và tỉnh giác về tất cả các hoạt động và động tác vật lư cũng như tâm lư, như đă bàn ở trên. 2. Trạch pháp (dhammavicaya).
T́m ṭi nghiên cứu những vấn đề khác nhau của lư thuyết. Ở đây bao gồm tất
cả mọi nghiên cứu về tôn giáo, luân lư và triết học, đọc sách, sưu tầm,
bàn luận, đàm thoại, ngay cả dự 3. Tinh tấn (viriya), làm việc một cách đầy nghị lực cho đến cùng. 4. Hỷ (ṕti), đức tính hoàn toàn trái ngược với thái độ tâm lư hoài nghi, bi đát hay thảm đạm. 5. Khinh an (passadhi), sự thoải mái của cả thể xác lẫn tinh thần. Người ta không nên có thể xác hay tâm thần căng thẳng. 6. Định (samàdhi), như đă bàn ở trên. 7. Xả (upekkhà), nghĩa là có thể đối diện cuộc sống trong mọi thăng trầm của nó, với một tâm hồn an tĩnh thanh b́nh, không rối loạn. Muốn đào luyện những đức tính ấy điều cốt nhất là phải có một ḷng mong mỏi thực sự, ư chí, hay khuynh hướng. Nhiều điều kiện vật chất và tâm linh giúp cho sự phát triển mỗi đức tính ấy được tả rơ trong các kinh nguyên thủy. Người ta cũng có thể thiền quán về những đề mục như Ngũ uẩn, nghiên cứu câu hỏi "con người là ǵ?" hay "cái được gọi là tôi là cái ǵ?" hay về Tứ diệu đế, như đă bàn trên. Sự học hỏi và sưu tầm về những đề mục ấy bao gồm trong mục quán pháp, h́nh thức thứ tư của tu tâm hay thiền định, đưa đến sự thực chứng chân lư tối hậu. Ngoài những đề mục đă bàn, c̣n có nhiều đề mục thiền quán khác, theo truyền thống có 40, trong đó đặc biệt ta phải kể đến bốn Phạm trú (brahmavihàra): 1. Từ (mettà), trải ra một t́nh yêu vô biên, phổ quát và thiện cảm đối với tất cả mọi chúng sinh không chút phân chia "như một người mẹ thương yêu đứa con duy nhất." 2. Bi (karunà), ḷng trắc ẩn đối với mọi chúng sinh khổ đau phiền năo và gặp hoạn nạn. 3. Hỷ (mudità), niềm vui đầy thiện cảm đối với sự thành công của kẻ khác, đối với may mắn và hạnh phúc của họ. 4. Xả (upekkhà), sự b́nh thản trước mọi thăng trầm của cuộc sống. Ghi chú: [1] A (Colombo, 1929), p.276 [2] Theo "Yogàvacara's Manual" (do T.W. Rhys Davids xuất bản, London 1896), một bản văn về Thiền quán viết ở Tích Lan vào khoảng thế kỷ 18, đă chứng tỏ Thiền quán vào thời bấy giờ suy đồi thành một tục lệ đọc thần chú, đốt nến v.v.. Xem thêm chương XII, The Ascetic Ideal, trong History of Buddhism in Ceylon do Walpola Rahula, (Colombo, 1956), p.199. [3] Xem phần nói về Hành uẩn ở Chương Hai. [4] Xem kinh Đoạn giảm, Sallekhasutta, Trung bộ kinh 8. [5] Xem bản dịch rút ngắn kinh này ở phần Phụ lục. [6] S I (PTS), p.5 [7] M I (PTS), p.100 [8] Xem phần cuối Chương Sáu về Vô ngă.
|
________________________________________________________________________________________
1. Bản Phạn Ngữ, Anh Ngữ lấy từ website Budsas.org của Dr. B́nh Anson 2. Bản chữ Hán và Kinh Thơ do Phật tử Như Khanh thực hiện
|
|