HÂN HOAN ĐÓN CHÀO
Câu Kệ Ngôn - Kinh Pháp Cú, ngày 12 tháng 11, 2003
TT
Giác Đẳng giảng :Kính bạch Chư Tôn Đức, thưa quí
Phật tử, để bắt đầu buổi
học hôm nay, đây là phẩm rất lạ so với
những phẩm khác, bởi vi` đề tài của
phẩm này không giống như những đề tài
của những phẩm mà chúng ta đă học trước
đây, đây là phẩm pakinnakavagga chúng tôi dịch là
Tạp Loại hay Linh Tinh.
Mới nghe dường như không có gi` đáng để lưu âm lắm, thật sự khi mà nói đến tạp loại, quí vị có thể nhận ngay rằng đó là sự sắp xếp trên phương diện h́nh thức chứ không phải đó là phẩm mà gồm những bài kệ không quan trọng. Đối với chúng ta ở trong nhà, mà sự sắp xếp cái gi` thuộc về linh tinh thường thường chúng ta bỏ vào thùng riêng, và thường những thứ linh tinh đó không quan trọng, nhưng đối với kinh điển không phải như vậy.
Ở trong kinh điển có
rất nhiều bộ mang chữ Tạp như bộ
Tạp A Hàm, hoặc Khuddaka Nikàya tức là Tiểu Bộ
Kinh, chính ra Tiểu Bộ Kinh là một bộ kinh
điển hết sức là quan trọng trong Phật Giáo,
mà trong đó có cả tác phẩm Dhammapada Sutta là kinh Pháp Cú,
mà chúng ta đang học ở tại đây, theo một
số các vị, các nhà sớ giải ngày xưa ngay cả
tạng Diệu Pháp cũng nằm trong Khuddaka Nikàya nữa,
điều đó chúng ta sẽ bàn ở điểm khác.
Nhưng ở đây chữ Tạp Loại hay chữ
Bộ nó không mang tánh cách những gi` không đáng để
y', nếu không đáng
để y' đă không để vào đây.
Bên cạnh đó trong Tạng Luật chúng ta
cũng có một bộ mang tánh cách tạp loại linh tinh,
nhưng bộ đó chứa đựng nhiều Tăng
sự và pháp Yết Ma của hàng Tăng sĩ, phải nói
rằng chúng ta không thể nào nói rằng chữ tạp
loại mang hàm y' những thứ này là những thứ không
đáng để y' hay không đáng chú y' tới. Tuy vậy chúng tôi phải làm
một việc, thay vi` trong phần dẫn nhập này chúng
ta chỉ đề cập đến chữ tạp
loại, đă là tạp loại, linh tinh thi` chữ đó
không cần bàn nhiều, chúng ta chỉ biết đây là bài
kinh mang nhiều bài kệ ngôn mang những nội dung khác
nhau, nhưng nếu chúng ta đọc từng bài kệ
của phẩm này, chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy
rằng nội dung của những bài kệ này có nhiều
điểm giống nhau về một điểm, mà qua
đó chúng tôi đă trọn chữ " Tâm Niệm Của
Người Tu Tập" để thành đề tài
thảo luận của phần dẫn nhập hôm nay,
đây là một việc rất hiếm bởi vi` thông
thường những tên
của phẩm dẫn nhập đều dựa lên trên tên
của phẩm, ví dụ kỳ rồi chúng ta nói hành tri`nh
của sự tu tập, trong sự hành tri`nh của tu
tập đó chúng ta đă nói về phẩm Đạo hay
phẩm Maggavagga hay phẩm Con Đường.
Và khi nói về phẩm Đạo
một cách diễn giải khác chúng ta gọi là hành tri`nh,
thưa quí vị việc đó không có xa lắm, nhưng mà
nếu khi ở đây là phẩm "Tạp Loại"
mà chúng tôi dùng chữ " Tâm Niệm" quí vị sẽ
thấy rằng nó hơi ngỡ ngàng một chút, do vậy
trong bài đọc thêm, đáng lẽ chúng tôi đă lựa
một bài khác hơn, nhưng chúng tôi không lựa một vài
bài đọc cho quí vị, chúng tôi chỉ in trọn bài kinh
Pháp Cú của Ngài Khantipalo và Hoà Thượng Minh Châu, sở
dĩ trong bài đọc thêm được in trọn
phẩm như vậy, bởi vi` chúng ta nên đọc cho
thật kỹ những phần này trước khi chúng ta
trở lại với đề tài " Tâm Niệm của
Người Tu Tập ", chúng tôi sẽ đọc cho quí
vị, đây là một phẩm có kệ ngôn từ 290 cho
đến 305, tổng cộng là 15 bài kệ được
nhắc đến ở trong phẩm này.
Khi chúng ta có dịp
đọc qua 15 bài kệ của phẩm này, quí vị
sẽ thấy rằng những bài kệ ngôn mang một
không khí dặn ḍ của một người cha cho những
đứa con của mi`nh " hăy thường xuyên nhớ
như vậy, nhĩ như vậy, tưởng như vậy"
và những lời dặn ḍ này, chúng tôi nghĩ rằng
những điều mà bất cứ một đứa con
hiếu thảo nào cũng phải thường ghi tâm
khắc cốt, bởi những điều đó có
một giá trị lớn trong cuộc sống tu tập, nên
chi chúng tôi đă chọn chữ " Tâm Niệm "
phải nói rằng chữ Tâm Niệm là chữ sài rất
là thường thức ở bên ngoài.
Ở trong mỗi phẩm
của kinh Pháp Cú, chúng tôi thường mở đầu và
đặc tên phẩm bằng một đề cử mà
tương đối không phải thuật ngữ kinh
điển nhiều, phần lớn từ ngữ dễ
hiểu ở ngoài, phải nói rằng trong kinh điển
của Đạo Phật chữ "Tâm" và chữ
"Niệm" hai chữ được hiểu một
cách khác nhau hoàn toàn, có lẽ
chúng tôi không cần phải nói dài do`ng ở tại
đây, riêng thường thức ở bên ngoài "Tâm
Niệm" là điều gi` mà chúng ta phải tâm tâm,
niệm niệm tức là phải thường ghi nhớ,
phải thường tưởng nhớ, phải
thường xuyên dặn ḷng nhắc nhở chính mi`nh,
phải thường xuyên dùnh những thứ đó
thường niệm, tưởng. Thí dụ như chúng ta
có quyển 10 điều tâm niệm của Hoàng Đạo,
một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn
trước đây, và chúng ta có
10 điều tâm niệm của người xuất
gia, hoặc giả chúng ta có 10 điều tâm niệm trong
Luận Bảo Vương Tam Muội mà các chùa
thường in ra và treo ở trên tường.
Thưa quí vị chữ
"Tâm Niệm" ở đây hiểu theo phương
diện thường thức cái gi` mà chúng ta thường
phải nhắc nhở, thường ghi nhớ
lấy. Thật ra pháp tu
tập về tâm niệm nó không phải xa lạ trong
Đạo Phật, như trường hợp chúng tôi vừa
nhắc đến 10 điều tâm niệm của
người xuất gia, Đức Phật Ngài dạy 10
điều tâm niệm đó, ví dụ như Ngài nhắc hi`nh dáng của ta đây phải
khác hơn kẻ thế, như đầu tṛn áo vuông khác
hơn kẻ thế, sự nuôi mạng ta phải nhờ
nơi kẻ thế, để
không sanh tâm kiêu mạn. Rồi bậc trí có thể tự
chê trách mi`nh không, ngày và đêm trôi qua mi`nh đă làm
đưọc chuyện gi` v.v....
Có nhiều điều
để nhắc nhở hàng ngày, hay hoặc giả chúng ta
cũng nghe những điều quán tưởng của
người xuất gia, khi thọ dụng tứ vật
dụng, tức là khi ăn, khi mặt, khi sử dụng
chỗ ở, khi dùng thuốc men, những thứ đó
cần nên được quán tưởng ra sao. Sự quán tưởng đó là
một sự nhắc nhở, là một sự y' thức,
sự quán tưởng hay là tâm niệm nó cho chúng ta đi
theo đường hướng nhất định. Và về điểm này như
trong phần thảo luận, quí vị sẽ thấy
rằng rất thú vị khi
chúng ta nêu lên một vài điểm ở tại đây, quan
niệm của một người tu tập chánh
niệm, thấy sao ghi nhận như vậy, hơi
thở vào biết là hơi
thở vào, hơi thở ra
biết là hơi thở ra, hơi thở ngắn
biết hơi thở ngắn, hơi thở dài biết
hơi thở dài, mi`nh thở ra với tâm hân hoan th́ mi`nh
biết là mi`nh thở ra với tâm hân hoan và thở ra
với tâm không hân hoan biết là thở ra với tâm không hân
hoan.
Như vậy ở trong
một phương diện nào đó, một người
tu thiền quán là người thấy sao biết vậy,
không có tô hồng chuốt lục, không có vẽ rắn thêm
chân, và cái nhi`n của người thiền quán là cái nhi`n
rất tự nhiên. Nói như
vậy không phải rằng một người tu tập
không cần đến tâm niệm, không cần đến
những khái niệm, khái niệm nó vốn đă lấy
từ trong kinh điển, khái niệm đó vốn có
sẵn mà chúng ta dùng ở đây là tiền chế. Tiền chế có nghĩa là những
quan niệm vốn đă đặt bày, vốn
được gợi y', vốn đă được nói
đến, đă được dạy ở trong kinh
điển, c̣n cho biết một người tu thiền
quán thấy sao ghi nhận
như vậy, thấy sao biết vậy, thật ra hai
điều này không có trái chống với nhau nhiều.
Nếu chúng ta ở tại các
trường thiền, nếu chúng ta ở tại các trung
tâm thiền định, chúng ta sẽ biết rằng không
phải một ai bước vào trong trường thiền,
được giao cho chi`a khoá của am thất, rồi
về am thất đó ngồi xuống một mi`nh là có
thể nhi`n vạ hơi thở của mi`nh được,
không phải ai được vị thiền sư dạy
thiền rồi thi` có thể ngồi xuống để
theo dơi hơi thở được, không phải như
vậy, chúng ta phải phấn đấu rất nhiều
và lấy ví dụ chúng ta bị sự lôi cuốn của
sắc đẹp của tiếng hay của mùi thơm
vị ngon xúc lạc.
Ở đây thưa quí vị,
phải nhắc lại một giai thoại mà ông
Chosacoton thường nhắc
đến các khoá thiền của ông, có một lần ông
đến dự một khoá thiền, thức ăn theo kiểu người Miến
Điện và thức ăn lại hạn chế, một
ngày chỉ ăn được một buổi thôi, và do
vậy đầu óc của ông bị ám ảnh bởi
một miếng bánh mi` nướng, bánh mi` nướng là
một cái gi` rất quen thuộc đối với bữa
ăn sáng của người Tây Phương, và miếng
bánh mi` nướng bi`nh thường thi` nó không có nghĩa
gi` hết, bánh mi` nướng mà để nghĩ
đến, cũng không ai muốn nghĩ đến làm gi`,
thật ra muốn ăn thi` ra nướng bánh mi` ăn,
bánh mi` đối với người Tây Phương
cũng giống như cơm đối với chúng ta vậy.
Tuy nhiên vào trong giờ hành thiền thi` miếng bánh mi`
nướng nó trở nên một cái gi` ám ảnh ở trong
đầu, tự nhiên thèm miếng bánh mi` nướng
một cách lạ lùng, chưa bao giờ thèm như vậy,
và lúc bấy giờ không ngồi định tâm
được và không ngồi tập trung vào hơi thở
được.
Nên chi một người hành
thiền cũng thường phải sống với
một số tâm niệm, một số tâm niệm tức
là một số nhắc nhở, hay một số lời
dạy được trích từ trong kinh điển hay
lời dạy của các vị thiền sư và
điều này chúng ta gọi là điều tiền chế
cũng được, và điều này chúng ta gọi
những gi` đă định đặt sẵn cũng
được, tuy vậy những điều tâm niệm
này giúp ích cho người hành thiền rất nhiều,
chứ không có đơn giản, tại sao giúp cho chúng ta
rất nhiều, bởi vi` chúng ta không phải ai cũng có
thể giữ được tâm tự nhiên để mà
theo dơi hơi thở ngay lập tức như chúng tôi đă
nói, mà chúng ta phải phấn đấu với bản thân,
và trong sự phấn đấu với bản thân
để có thể ngồi xuống yên lặng, có thể
ngồi xuống lặng lặng nhi`n hơi thở thi`
sự phấn đấu đó đ̣i hỏi một
số khí giới để chúng ta có thể đánh lại
với giặc phiền năo.
Phải nói nhận ra một
điều là đối với tất cả những
người tu tập hay những người muốn thay
đổi cuộc sống của mi`nh, trước nhất chúng ta phải trọn
một số điều để tự nhắc nhở
lấy ḿnh, và những điều này đối với
chúng ta phải là những gi` có y' nghĩa rất lớn,
không phải chúng ta phải nhắc mi`nh như là những
điều răn của thánh thần, mà chúng ta chỉ
nhắc mi`nh về những điều đến từ
những lời dạy của Đức Phật,
những điều này khi chúng ta đọc vào chúng ta
cảm thấy thấm thía, cảm thấy có đủ
sức mạnh để cho chúng ta vượt qua những
phiền năo.
Khi năy chúng tôi cũng nhắc
đến trường hợp người xuất gia có
những pháp quán tưởng, quán tưởng về
bốn món vật dụng, bốn món vật dụng
của người xuất gia ngày hôm nay người ta ít
có đề cập đến bởi nó không quan trọng và nó có sẵn nhiều.
Chúng tôi nhớ những
năm tháng đầu, TT Trí Siêu với chúng tôi đi
xuất gia, và đặc biệt là thời gian sống
ở Long Thành, thưa quí
vị thực phẩm rất khan hiếm, lúc bấy giờ
hầu như thường xuyên phải ăn độn
với khoai mi` và lúc bấy
giờ người ta bán rất nhiều loại mi`
sợi, hồi trước năm 75 chúng tôi thích ăn mi`
sợi lắm, nhưng phải nói rằng lúc sống
ở Long Thành, rất sợ ăn mi` sợi, mi` sợi
người ta luột cả thúng to như vậy đó,
rồi lấy nước chấm chan lên cho ăn thôi,
chứ không có cái gi` để ăn với nó hết,
ăn thế cho cơm, lúc
đó mới thấy rằng miếng ăn nó quan trọng,
chỗ ở cũng quan trọng, nhưng thật sự
đối với người Việt Nam thi` một giai
đoạn nào đó miếng ăn được coi
như quan trọng như vậy.
Bây giờ chúng tôi
được nghe rằng thực phẩm rất
đầy đủ, miếng ăn không c̣n quan trọng
nữa. Nhưng mà nói chung đời sống khi đi
xuất gia, cái ăn, cái mặc, thuốc uống, chỗ
ở nó rất dễ trở thành những thứ làm cho
mi`nh sanh ra tâm phiền năo, dễ dàng để sanh phiền
năo lắm, bởi vi` sao, bởi vi` khi mà đă giảm
bớt những nhu cầu khác, nó chỉ tập trung vào
những nhu cầu hết sức tương đối
thi` những nhu cầu đó nó lại có sức quyến
rủ rất đặc biệt.
Chúng tôi nhớ là có một
vị Thầy cho chúng tôi biết rằng có một lần
đi đến một chùa ở Uden, chùa của Ngài Achaa
Maha Boowa, Ngài giao cho một cái
thất, mà chúng ta gọi là cái cốc, cốc là chỗ
để những vị xuất gia ở, bên Thái lan thi`
những ngôi chùa và quach bà là những ngôi chùa theo truyền
thống đầu đà, hay tu thiền, chúng ta gọi là
lăn tăn, những ngôi chùa này đa số cất
những cái cốc riêng, những cái cốc này gọi là
những am thất, đa số được cất
ở những nơi thanh vắng, thường
thường được bao bọc chung quanh bởi
những rừng cây để tạo ra sự yên tĩnh,
và thưa quí vị cũng có một phong tục ở bên
Thái Lan, có nhiều người khi họ qua đời, tài
sản họ c̣n để lại, thân nhân hay gom tất
cả tài sản đó để cúng dường vào trong
chùa để cất những am thất cho những
người tu thiền, ví dụ như người đó
để lại một số tiền vài ba chục ngàn
đồng, số tiền đó sẽ được dùng
cất một cái cốc và ở trước cái cốc
đó có bản nhỏ đề là cốc này cất
để hồi hướng cho ông A bà B nào đó, và
cũng có trường hợp đặc biệt, mỗi
cái cốc như vậy người ta xây một con
đường kinh hành, con đường kinh hành nghĩa
là con đường bằng gạch để cho
những vị hành thiền đi tới đi lui tu
tập, và pháp kinh hành mà ngày hôm nay Hoà Thượng Nhất Hạnh
gọi là thiền hành, tức là tu thiền tu dưỡng
chánh niệm lúc đang đi, thông thường
người ta lấy hũ cốt của người
mất, họ chôn ở cuối con đường kinh hành
đó, có nhiều vị sợ ma khi đi hành thiền mà
biết rằng có hũ cốt chôn ở cuối con
đường kinh hành quí vị
sợ, nhưng thường thường người ta
tin rằng khi một người tu thiền, đi kinh hành
hay ngồi thiền mà nhớ rằng cái cốc này, con
đường kinh hành này được xây dựng
bởi một thí chủ nào đó, bây giờ thí chủ
đă quá văng, người ta hồi hướng cho thí
chủ đó, nên chi cái phong tục như vậy
thường dễ t́m thấy ở các chùa thiền.
Chúng tôi trở lại với
câu chuyện đang bàn đó là những cái am thất thông
thường được cất rất đẹp,
chúng tôi ở và chúng tôi phải nh́n nhận rất
đẹp, rất thoáng.
Người Thái Lan họ có kinh nghiệm rất
lớn về thủ pháp cất các am cốc, họ
cất như thế nào mà kiến không vào được,
rắn không vào được, cất như thế nào mà
thoáng mát, trông nó giản dị.
Ví dụ như cốc
luôn luôn cất giống như nhà sàn và cao lên một
chút, cửa sổ không cao, cửa sổ sát với cái sàn
vi` vậy có thể mở cửa sổ gió nó có thể vào trong, cả
trong lúc chúng ta nằm cũng có thể có gió thoáng
được và phải nói rằng một cái am thất
nằm giữa trong rừng cây bao bọc ở chung quanh,
thưa quí vị đó là một nơi rất dễ làm cho
chúng ta sanh tâm ái nhiễm, ái nhiễm chỉ muốn ở
tại chỗ đó mà thôi. Đặc biệt nếu chúng
ta đến đó vào mùa gần tết, như mùa bây
giờ không có mưa, tâm hay sanh dính mắc, bởi vậy
ở tại các trường thiền của Ngài Achaan Chaa
thông thường những vị tu thiền phải
dời chỗ ở của mi`nh, trong ba tháng phải
đổi một lần, ví dụ như chúng ta mới
bước vào trong rừng thiền, người ta giao cho
chúng ta một cái am thất rất đẹp, chúng ta nghĩ
rằng mi`nh sẽ xin Ngài Thiền Sư ở luôn tại
đó tu tập, như vậy tâm sẽ dính mắc. Trong
ṿng khoảng chừng ba tháng, có một phiên họp vào ngày
bố tát, người ta lấy ch́a khoá ra để
đổi với nhau, người này phải rời qua
chỗ kia, chỗ kia rời qua chỗ nọ, có thể am
thất của mi`nh ở chỗ rất gần lại
rời đi xa, chỗ rất đẹp rời lại
cái am xấu, chỗ mới dời đi chỗ cũ
chẳng hạn, để không có tâm dính mắc vào
những am thất mà mi`nh đang ở.
Nói chung đời sống khi
dẫn đến sự tu tập, thường
thường những nhu cầu về vật chất nó
nằm ở trong bốn nhu yếu phẩm, như bốn
nhu yếu của một người tu đó là thực
phẩm chỗ ở thuốc men và y phục, những
thứ đó nó làm cho người tu tập dễ dính
mắc và để đối trị với những
thứ này Đức Phật Ngài dạy cho một
người xuất gia quán tưởng, quán tưởng
trước khi dùng, quán tưởng khi đang dùng, quán
tưởng sau khi dùng, và mỗi buổi sáng trước
khi mặt trời mọc, các vị Tăng sĩ có
đọc những bài về quán tưởng như
một điều tâm niệm,
bởi vi` những điều tâm niệm này ví dụ
như Đức Phật Ngài dạy một người
xuất gia nên tâm niệm rằng ḿnh ăn uống không
phải để mập, để mạnh, để làm
cho cơ thể được đẹp đẽ,
ăn uống để từ cái khổ của đói,
ăn uống để nuôi cáo mạng tu tập v.v...cái
sự nhắc nhở như vậy ban đầu nghe
giống như thủ tục, ban đầu nghe giống
như những điều răn, nhưng mà với
một người tu tập, những điều đó có
ư nghĩa lớn, tại vi` trả cho chúng ta trở về
với y' thức chân thực về thái độ nào là thái
độ nên có đối với những món vật
dụng những nhu yếu của đời sống,
như vậy tâm niệm nó là pháp tu rất phổ thông trong Đạo
Phật.
Chúng tôi chỉ đưa ra có
hai ví dụ thôi, chúng tôi chưa kể ra những ví dụ
khác, ví dụ như chúng ta niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm
Chư Thiên, những pháp niệm đó quí vị gọi
tiền chế thi` cũng có một phần tiền
chế, thế nào là ân đức Phật, ân đức
Pháp, ân đức Tăng như chúng ta đọc ở
trong Thanh Tịnh Đạo, kể cả cái đức
của Chư Thiên và những thứ đó được
đem vào trong đời sống để khai triển làm
một khái niệm để mà tập trú, để mà an
trú, như vậy những cái chúng ta gọi là tâm niệm nó
vẫn có một giá trị nhất định, nó vẫn
có giá trị lợi lạc, chứ không phải khi chúng ta
tu thiền rồi chúng ta nhi`n sự vật một cách
tự nhiên, cái gi` xảy ra như thế nào chúng ta nhận là đủ,
phải nói rằng trước khi chúng ta có khả năng
để quan sát sự vật có tánh cách tự nhiên, chúng ta
phải có rất nhiều cái
tâm niệm cần thiết để chúng ta đem vào
cuộc sống tu tập của ḿnh.
Thưa quí vị chúng ta hăy
bước qua một đề tài khác, khi chúng ta
đề cập đến những điều tâm
niệm và cuộc sống tu tập, trong câu thảo
luận số 5, chúng tôi có đặt ra một câu hỏi,
tâm niệm có phải là một giới luật hay không, và
đối với chúng tôi
điểm này là một điểm rất thú vị,
khi chúng ta đề cập đến phẩm gọi là
phẩm tạp loại hay
phẩm tạp lục, có thể nói rằng những
gi` mà ḿnh cần phải tâm niệm và quán tưởng
để nhắc nhở, trừ khi liên quan những
điều tứ vật dụng mà Đức Phật Ngài
dạy những điều đó là thanh tịnh giới,
ở trong tứ thanh tịnh giới gọi là quán
tưởng thanh tịnh giới, nhưng những
điều tâm niệm khác, phải nói rằng tùy vào căn
cơ, tuỳ vào căn duyên của mỗi người, và
mỗi người có thể đem vào trong tâm tư
của mi`nh những tâm niệm, và những tâm niệm này
nó phải thích hợp với căn tánh của mi`nh ví
dụ ân đức Phật, ân đức Pháp, ân
đức Tăng, hay ân đức của Chư Thiên.
Một người niệm ân
đức của Chư Thiên không có nghĩa ân đức
của Chư Thiên hơn của Phật, không có nghĩa ân đức của Chư Thiên
hơn ân đức Pháp, ân đức Chư Thiên hơn ân
đức Tăng, mà tại vi` người đó họ
hạp với tâm niệm đó, họ hạp với khái
niệm đó, như vậy khi mà nói đến những
điều tâm niệm đó, chúng ta cứ tưởng
nghĩ rằng đó là những khuôn mẫu mà tâm nhất
phải đi theo, ở trên thực tế những
điều tâm niệm này là những cái gợi y', nhưng mà khi áp dụng vào
đời sống chúng ta thi` nó được áp dụng
như là giới luật, giới luật là điều
phải thọ tri`, giới luật là điều không có
thể thay đổi được, nhưng những tâm
niệm thi` nó khiến cho chúng ta có một không gian rộng
lớn khác, ở trong không gian rộng lớn đó chúng ta
có thể lựa chọn.
Thật ra trong lịch sử
đạo Phật thời gian gần đây có một
trường hợp rất thú vị, đó là
trường hợp của Hoà Thượng Nhất
Hạnh có lập ra một do`ng tu gọi là do`ng tiếp
hiện và có một giới luật gọi là giới
luật tiếp hiện, đúng ra trong những năm tháng
gần đây Hoà Thượng Nhất Hạnh đă
đổi hướng đi từ những quan niệm
hết sức khác biệt với truyền thống, bây
giờ là Hoà Thượng lại trở về với quan
niệm rất là truyền thống, kể cả tu chính và
kể cả nhấn mạnh đến những giới
bổn người xuất gia, nhưng trước đây
Hoà Thượng nói rất nhiều đến giới
luật tiếp hiện, khi đọc vào giới luật
tiếp hiện thi` thật ra với quan niệm của
một vị tu sĩ Phật Giáo truyền thống,
nhất là tu sĩ Nam Tông những điều trong giới
luật tiếp hiện mang tánh cách tâm niệm nhiều hơn giới luật.
Chúng tôi nói tâm niệm nhiều
hơn giới luật là ví dụ như vầy, ví dụ
như chúng ta quan niệm trong giới luật là không sát
sanh, thế nào là người phạm giới sát sanh thi` có
quy định rất rơ, con vật có thức tánh là
biết con vật có thức tánh và có ư giết rồi ráng
sức giết, rồi con vật đă chết v́ sự
ráng sức đó, thi` sau khi tính như vậy mới
đủ gọi là giới sát sanh, và nếu mà chúng ta
vẫn quan niệm một điều như vậy là mi`nh
sống mi`nh phải thương yêu muôn loài, phải
thương yêu sự sống, phải bảo vệ môi
sinh, phải bảo vệ hành tinh sanh này v.v... những khái
niệm như vậy mang tánh cách tâm niệm hơn là
giới luật, tại vi` nó phải áp dụng
được trên phương diện giới, nếu mà
đem điều đó đem áp dụng vào đời
sống hàng ngày của chúng ta thi` không biết ai là
người phạm giới hay là người không phạm
giới.
Chúng tôi lấy một ví
dụ, những tờ báo chúng ta đang đọc hiện
nay, những tờ báo in màu và giấy láng bóng, những
tờ giấy đó nó vốn là những tờ giấy
được sản xuất một cách rất tai hại cho việc bảo
vệ môi sinh, quí vị cầm tờ báo, trang bià in màu bóng
láng, thi` thưa qúi vị các hoá chất để họ
dùng vào thứ đó nó là hoá chất làm ô nhiễm rất
lớn môi trường, do vậy người ta kêu gọi
rằng con người hăy bỏ bớt những thứ
đó lại. Khi người
ta in bản in màu, mà bản đó không có sáng, màu nó không bóng
láng tự nhiên thấy màu nó không hấp dẫn, tuy nhiên cách
in đó khiến cho chúng ta ít có làm ô nhiễm môi sinh.
Bây giờ nếu như
một tờ báo được in b́a bóng như vậy mà
chúng ta mua, chúng ta cầm đọc th́ bảo rằng
người đó đă phạm giới luật tiếp
hiện, tức là người đó không bảo vệ môi
sinh, thi` thưa quí vị điểm đó rất khó
bởi vi` chung quanh chúng ta nó có rất nhiều thứ mà
chúng ta hoặc y' thức được hoặc là không y'
thức được, do vậy tinh thần bảo
vệ môi sinh nó không thể gọi là giới luật
được, tinh thần bảo vệ môi sinh là một
điều rất đẹp, nhưng mà cái đẹp
đó nó lại khác với quan niệm về giữ
giới, khi mà nói về giữ giới không nói về
đẹp hay xấu, giới là điều, điều
đó là điều qui định rất rơ ràng chứ
không phải chỉ là một khái niệm như cái tâm
niệm. Do vậy chúng tôi
phải nói rằng những giới luật về tiếp hiện của Hoà
Thượng Nhất Hạnh đề ra, nếu quí
vị đọc kỹ lại thi` đó là những
điều mà mang tánh cách tâm
niệm hơn là giới luật, bởi vi` có những
thứ không có.
Chữ Bồ Tát giới ở
trong Đại Thừa có rất nhiều điểm mang
tới tâm niệm hơn là về giới, cái giới khác
xa với điều đó, có thể nói rằng khi
đề cập đến giới luật, nó là một
câu chuyện khác hơn những gi` chúng ta quan niệm mang
tánh cách tư tưởng hay khái niệm, hay là tâm niệm
đem áp dụng vào trong đời sống, và chúng tôi
cũng phải nói ở tại đây những điều
tâm niệm là những điều rất có lợi cho
sự tu tập của ḿnh, tuy nhiên khi đă nói đến
tâm niệm thi` không thể đem một kiểu mẫu nào
đó áp dụng cho tất cả mọi người, có
những người họ lại hạp với những
thứ này, có những người hạp thứ khác.
Chúng tôi lấy một ví
dụ, hồi năy chúng tôi nói rằng một người tu
tập thiền chỉ hay thiền quán, những
người này có thể niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm
Chư Thiên, chúng ta không thể nói một ân đức nào
lớn hơn ân đức nào, thật ra đối
với một người tu tập thi` dù ân đức
Pháp, ân đức Tăng, hay ân đức của Chư
Thiên, hay ân đức của thí, của giới thi` tất
cả đều giống nhau ở một điểm, cái
nào thích hợp với căn tính của ḿnh thi` cái đó nên
tu tập, nên thường xuyên niệm tưởng, chính vi`
vậy đối với những điều chúng ta
gọi là tâm niệm, tuy là nó mang tánh cách tiền chế,
tức là cái gi` được quy định sẵn, nó là
những khái niệm mà đă được ti`m đâu
đó ở trong kinh điển, ti`m đâu đó ở trong
lời dạy và chúng ta chỉ dựa trên điều
đó để nhắc đi nhắc lại trên
đời sống, tuy vậy phải nói rằng những
điều tâm niệm là một lợi khí rất lớn
cho chúng ta để đương đầu với
phiền năo.
Phải nói rằng cuộc
sống tu tập hay đời sống của
người xuất gia, khi chúng ta phấn đấu
với phiền năo thi` thưa quí vị chúng ta phải có
một vài chỗ đứng, và chỗ đứng này
nhất định phải của mi`nh chứ không thể
của phiền năo được, như một
người lính họ ra trận, tuy rằng xông pha ngoài
trận mạc sống giữa làn tên mũi đạn,
nhưng họ phải trở về hậu cứ, hậu
cứ tức là nơi an toàn của họ, hậu cứ
là nơi họ canh gác cẩn mật để họ có
thể an toàn sống ở trong lănh vực nào đó, thi`
hậu cứ đó sẽ giúp cho quân đội
được dưỡng quân, phải giúp cho những
người lính t́m thấy những giây phút mà không phải
mặt đối mặt với kẻ thù và lúc nào cũng
lo sợ, thi` như vậy một người tu tập
phải có cứ điểm nội tâm, và những cứ
điểm nội tâm đó nó khiến cho chúng ta qua đó
không có tranh luận hơn thua, không phải đôi co, không có
bàn thảo mà nó là như vậy để chúng ta có sự
ổn định.
Chúng tôi muốn nói ở đây
một điểm đó là sự nghi hoặc, nghi hoặc
tức là một người tu tập mà không sống bằng những tâm
niệm, thi` thường xuyên phải đối diện
với tâm hoài nghi, hoài nghi ở đây là hoài nghi Phật,
hoài nghi Pháp, hoài nghi Tăng, hoài nghi về quá khứ
hiện tại vị lai, hoài nghi về nhân quả v.v.... và
những hoài nghi này có thể đưa chúng ta trôi dạt
về nhiều phương hướng, vi` vậy tâm
niệm là cái gi` cho chúng ta cái hậu cứ, nó cho chúng ta
một cứ điểm, cứ điểm đó khi chúng
ta trở về, chúng ta không cần phải đôi co, không
phải vật vă, không phải hoài nghi, không phải nghi
hoặc, để làm gi`, để tạo ra sự ổn
định của mi`nh, cái sự ổn định này
cần thiết.
Không hẳn là khi chúng ta tu
tập, chúng ta phải sống với một số quan
niệm định bất di bất dịch mà không thay
đổi, nhưng mà thưa quí vị, khi đương
đầu với phiền năo, từ cái tham, cái sân, cái si,
cái thay đổi trong đi đứng nằm ngồi, cái
thay đổi ở trong bất cứ sự thay
đổi nào khi đối diện với phiền năo thi`
nó làm cho chúng ta trở lên lúng túng, nó làm cho chúng ta trở lên
khó chịu và lâu ngày ḿnh cảm thấy ḿnh bị thua
trận nhiều hơn là đạt được ḷng
tự tin.
Chúng tôi xin được
nhắc ở đây lại giai thoại liên quan đến
một vị thiền sư, liên quan đến một
vị Tăng sĩ, vị Tăng sĩ đó là Achaan
Sumedho là người đă thành lập ra Tăng đoàn
Phật Giáo Tây Phương ở Anh Quốc và nhiều
quốc gia khác, Ngài là một trong những khuôn mặt
Phật Giáo lớn của thế kỷ này, khi quí vị
nghe Ngài kể câu chuyện, quí vị rất ngạc nhiên
về đời sống tu tập của Ngài, Ngài là
một người sanh ra ở tại Mỹ, và là
người da trắng, lớn lên ở tại Mỹ, khi
đi sang Á Châu xuất gia tu tập dưới sự
hướng dẫn của Ngài Achaan Cha, thi` phải nói rằng: Một con
người đến từ nền văn hoá khác, một
con người sống từ một xă hội như Hoa
kỳ mà chọn con đường tu tập xuất gia
lại trọn con đường trở thành người
Phật tử, một đứa con của Phật thi`
phải nói rằng đó là sự lựa chọn lớn.
khi chúng ta nghe về quan
niệm tu tập của Ngài có một vài đoạn chúng
ta rất ngạc nhiên ví dụ như Ngài Sumedho nói,
đời sống của ngài thường an trú trong ba câu:
Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami, Sangham saranam gacchami là
con về nương tựa với Phật, con xin quay
về nương tựa với Pháp, con xin quay về
nương tựa với Tăng.
Đối với một
người Phật tử Việt Nam quan niệm rằng:
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng là những quan niệm
rất sơ đẳng, vào chùa thi` tam quy trước,
rồi ngũ giới, rồi sau đó thiền
định v.v..., mà tại sao với một vị
xuất gia, một vị thiền sư có thể nói
rằng một người có nhiều năm tu tập mà
lại trở về với những quan niệm đó,
thật ra thưa quí vị quan niệm của một
người mà đă một lần người đó qui`
xuống và phát nguyện từ đây trở về sau cho
đến trọn đời con sẽ sống
nương tựa Phật, nương tựa Pháp,
nương tựa Tăng, quy y Phật, quy y Pháp, quy y
Tăng đó là quyết định lớn và trong quyết
định đó, tâm niệm này hoàn toàn có thể nói
rằng trong sạch tịnh tính, và trong cái tâm tịnh tính
đó không c̣n nghi hoặc nữa và vị đó lựa
chọn là từ đó trở về sau sự quy y
Phật, quy y Pháp, quy y Tăng nó trở thành cứ
điểm an toàn của mi`nh, hễ khi mi`nh nghĩ
đến điều đó thi` tâm mi`nh được
thuần, tâm mi`nh được trong sạch, tâm mi`nh
được ỗn cố, nó không hoài nghi, nó không có
những uế nhiễm phức tạp.
Do vậy đối với
Ngài Sumedho thi` ba câu Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami,
Sangham saranam gacchami nó mang lại cả một y'
tưởng rất lớn lao, nó mang lại cả một
vùng trời an toàn, một không gian mà ở trong đó vị
đó không bị chi phối bởi những nghi hoặc,
những hoài nghi, như vậy là tâm niệm của mỗi
người xuất gia, và quan niệm sự tu tập nó
khả dĩ cho phép chúng ta có một hậu cứ an ổn
và không phải thường xuyên vật lộn đối
với những phiền năo nghi hoặc mà chúng ta sống
trong tâm trạng hồi hộp, năm ăn năm thua, mà
trái lại t́m được một không khí hết sức
là ổn định về tinh thần, một cảm giác
gọi là an toàn, vi` vậy khi chúng tôi nói về những tâm
niệm ở tại đây thi` phải nói rằng với
một người tu tập chúng ta không có bác bỏ
những giá trị tiền chế, giá trị tiền
chế ở đây tức là những giá trị mà chúng ta
hấp thụ từ trong kinh điển, những giá
trị mà chúng ta vốn ti`m thấy ở từ vị
Thầy, từ sự nhắc nhở ở răn bảo
của vị Thầy mà những thứ đó khi đem vào
trong đời sống tu tập nhất là người tu
thiền th́ bao giờ nó cũng cần thiết và hết
sức là cần thiết để chúng ta t́m
được một sự ổn định
trước khi bắc đầu vào sự tu tập.
Như vậy chúng ta phải
t́m sự tu tập ở thế quân b́nh giữa giá trị
tiền chế và giá trị tự nhiên của một
người tu tập, cái giá trị tiền chế ở
đây là chúng ta phải sống bằng một số khái
niệm đă được quy định sẵn, và giá
trị về tự nhiên, là ở trong trách nhiệm là ghi
nhận cái ǵ xảy ra mới nghe nói như vậy, chúng ta
tưởng tượng như hai giá trị giữa cái
tự nhiên vào tiền chế nó có tính cách mâu thuẫn, trái
chống với nhau nhưng mà trên thực tế th́ không
phải như vậy. Một
người mà bỏ vào trong rừng thiền sống 5 ngày
ba ngày th́ người đó cần rất nhiều sự
trang bị, những trang bị này khả dĩ giúp cho
vị đó đương đầu với nhiều
phiền năo, cả hai thứ đó nó đều cần
thiết hết và hỏi rằng những quan niệm này
cần được khai triển tới đâu, th́
thưa quí vị cái khéo đó là cái khéo của mỗi
người hành giả, cái khéo đó là cái khéo của
mỗi người tu tập.
Đó là một vài ư niệm mà
chúng tôi xin được gởi đến quí vị trong
phần dẫn nhập của Phẩm Tâm Niệm, và chúng
tôi mong rằng khi mà quí vị đọc lại 15 câu
kệ ngôn trong phẩm Tâm Niệm này, chúng ta sẽ t́m
thấy rất nhiều cái gợi nhắc mà Đức
Phật đặt biệt dạy cho những đứa
con của Ngài, để dùng làm cứ điểm an toàn khi
mà chúng ta đối diện với ma quân, đối
diện với phiền năo.
Chúng tôi nhắc lại một
lần nữa mặc dầu phẩm này mang tên phẩm
Tạp Loại hay Tạp Lục mà chúng ta gọi phẩm
linh tinh, nhưng mà những bài kệ ở đây không có
nghĩa v́ thế không có một giá trị lớn liên quan
đến sự tu tập, và phải nói rằng các vị
AXàLê v́ một dụng ư nào đó mà các Ngài đă không
đặc phẩm này vào phẩm chót, mà các Ngài đặc
vào phẩm 21.
Chúng ta c̣n có 5 phẩm sau của
kinh Pháp Cú, và cũng phải nói rằng với phẩm này
chúng ta lại đi qua một giai đọan rất quan trọng. Kinh Pháp Cú có 423 bài kệ, với phẩm này chúng
ta sẽ đi ngang qua bài kệ số 300, và chúng tôi tin
rằng đó là một trong những niềm vui rất là
lớn cho toàn thể Chư Tăng và quí Phật tử, khi
mà chúng ta khởi sự giảng kinh Pháp Cú th́ con số 423
bài kệ hứa hẹn một hành tŕnh rất lâu dài, và
rất khổ công của những người trong ban
tổ chức cũng giống như những vị
giảng sư, nhưng cho đến hôm nay th́ chúng ta
phải nhận rằng chúng ta đă đi qua một
đoạn đường rất dài. Chúng tôi tin rằng Sư Trưởng, TT Trí Siêu,
cá nhân chúng tôi, Sư Uyên Minh và những vị Giảng
Sư của room cũng rất hoan hỷ với
đoạn đường dài mà chúng ta đă đi qua.
Chúng tôi xin lỗi quư vị,
mấy tuần trong tuần lễ vừa qua rất
bận rộn với một vài công việc Phật
sự, nên chúng tôi đă không có mặt ở trong room
để sinh hoạt với Chư Tôn Đức, và xin
chân thành để tán thán công đức của TT Trí Siêu,
của tất cả Chư Tăng và của quí Phật
tử đă duy tŕ sinh hoạt thường xuyên
điều đặn của room.
Lời sau cùng xin chúc quí Ngài và quí vị có một ngày
hết sức an lạc.
Minh Hạnh biên soạn