HÂN HOAN ĐÓN CHÀO CHƯ TÔN ĐỨC VÀ QUÝ PHẬT TỬ

Minh Hạnh biên soạn

Ngày 02 tháng 02, 2004

 

Phẩm 25: Đời Sống Xuất Gia - Phẩm Tỳ Khưu

(bhikkha-Vagga) - Kệ Ngôn 378

 

Bản dịch của TT Giác Đẳng

 

An Tịnh Ba Nghiệp

 

Thân an, khẩu cũng an

Tâm thiền tư vắng lặng

Bậc từ bỏ tục niệm

Chính thật thanh tịnh tăng

 

TT Trí Siêu giảng ngày 02 tháng 01, 2004: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật , kính bạch TT Giác Đẳng, kính thưa qúi vị, hôm nay chúng tôi có trách nhiệm thuyết giảng kinh Pháp Cú kệ 378 An Tịnh Ba Nghiệp, bản dịch Việt do TT Giác Đẳng dịch.

 

Thân an, khẩu cũng an

Tâm thiền tư vắng lặng

Bậc từ bỏ tục niệm

Chính thật thanh tịnh tăng

 

Kính thưa quí vị trong đời sống tu tập, chúng ta cần phải biết rằng, thân nghiệp, khẩu nghiệp, y’ nghiệp; tam nghiệp rất quan trọng, và mục tiêu cứu cánh của chúng ta làm như thế nào để dứt trừ được những phiền năo sanh khởi và sai sử thân nghiệp, khẩu nghiệp, y’ nghiệp.  Trong đời sống hằng ngày của tất cả chúng sanh, chuyện hạnh phúc hay đau khổ  tùy thuộc vào ba nghiệp mà ra, ngày nào ba nghiệp được an tịnh thi` ngày đó chúng ta co`n được sự an vui.  Chúng ta có được sự an vui, có được sự hạnh phúc, co`n ngày nào chúng ta không an tịnh được ba nghiệp thi` ngày đó là ngày chúng ta phiền toát khổ đau, sự khổ đau phiền toái đó, mặc dù chúng ta biết rằng cũng do ngoại cảnh, do tha nhân gây ra, nhưng phần chính do nội tâm này không thắng phục được phiền năo, và khi đặc cảm cảnh bằng phiền năo đă nhận thức được bằng phiền năo thi` ngay khi đó chúng ta bị một cảm giác khổ đau phiền toái. 

 

Bởi thế cho nên ở đây thưa quí vị, việc chúng ta tu tập làm thế nào để chúng ta có được thân an tịnh, khẩu an tịnh, và y’ tức là tâm thiền tư vắng lặng, ba việc này nếu chúng ta làm được, phải hiểu rằng trong đời sống tu tập của chúng ta và trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của chúng ta sẽ an vui, hạnh phúc.  Đức Phật và chư vị A La Hán, các Ngài cũng có thân bịnh, nhưng khi thân bịnh hoằng hành, các Ngài vẫn được hạnh phúc, vẫn được an lạc, tâm y’ của các Ngài an trú vắng lặng, tức y’ được an tịnh.

 

Ở đây chúng ta cần phải hiểu rằng giữa những danh từ, thân an tịnh, khẩu an tịnh điều đó có liên hệ đến khẩu nghiệp, chứ chúng ta đừng nghĩ rằng thân nghiệp ở đây chỉ cho xác thân ngũ uẩn này, thân an tịnh ở đây chỉ cho thân ngũ uẩn này không bệnh tật, không phải như vậy, hễ có thân tứ đại đất nước lửa gió, chịu chi phối bởi thời tiết, phải được nuôi dưỡng bởi vật thực,  như vậy cái sắc thân tứ đại này có đôi lúc cũng sanh ra sự bất hoà, và do vậy phát sanh lên những bệnh tật,  thân này phải chịu sự già sự bệnh, sự chết là một điều hiển nhiên, không thể tránh khỏi. 

 

Nhưng ở đây thân an tịnh là như thế nào.  Thân an tịnh tức là thân hành động với một tâm tư an tịnh vô nhiễm, không bị chi phối bởi phiền năo thi` như vậy được gọi là thân an tịnh.  Không phải chúng ta trốn ở trong rừng sâu, hay chúng ta đi vào trong hang núi, hoặc chúng ta xây dựng một cái chùa, một cái tịnh thất hoặc một cái nêu cốc, ở nơi vắng vẻ không có người qua lại,  chúng ta sẽ sống được một đời sống gọi thân an tịnh. Không phải như vậy, ngày nào các tà tư duy, tức là dục tư duy, sân tư duy, và hại tư duy vẫn co`n chế ngự nội tâm này, phát khởi ở nột tâm này và khiến cho sự hành động thô tháo, cử chỉ thô tháo thi` như vậy thân chưa được an tịnh. 

 

Thân an tịnh ở đây, có nghĩa lúc nào nội tâm này được an tịnh, được yên vui, được tự tại không bị quấy nhiễu bởi phiền năo, hành động đều oai nghi, hoặc hành động cử chỉ tạo nghiệp thi` được gọi thân an tịnh, và khi có thân an tịnh như vậy mới thật sự là bậc tỉnh tịnh, chứ co`n nếu như thân vẫn co`n hành động một cách mù quáng hay vẫn co`n hành động  theo sự điều khiển của y’ phiền năo, thi` như vậy cho dù thân ở nơi yên tịnh vắng lặng , vắng vẻ nhưng  thân hành không được an tịnh, chúng ta cần phải nghĩ như vậy.

 

Về lời nói tức khẩu an tịnh, cũng như thế ngôn ngữ chúng ta phát ra lời nói đó, khẩu nghiệp đó, khẩu hành đó sẽ bị chi phối bởi y’, tức là bởi tâm, vi` thân hành hay khẩu hành tất cả đều thuộc về sắc biểu chi, sắc biểu chi là một loại sắc tâm, tức là do tâm điều động, do tâm chi phối, như vậy ở đây thưa quí vị, nếu người tu tập chúng ta nhận thức hiểu được điều đó thi` việc tu tập của chúng ta rất đơn giản,  không phải cầu kỳ, không cần phải có một nghi lễ nào đặc biệt mà chúng ta tu tập, ở đây chúng ta áp dụng với chính nội tại này, bởi lẽ khi chúng ta áp dụng được đời sống nội tại an tịnh, thi` tất nhiên thân hành sẽ an tịnh và khẩu hành sẽ an tịnh, sự tu tập của chúng ta là như vậy.

 

Ở đây thưa quí vị, nội tại tức nội tâm được an tịnh định là do y’ nghiệp.  Khi chúng ta tu tập thiền định,  một là chúng ta tu trí về tâm, hai là chúng ta tu trí  về tuệ, hai cách đó làm cho tâm được an tịnh.  Như thế nào gọi là tu trí về tâm, chữ tâm ở đây chúng ta cần phải hiểu, co`n gọi là định.  Chữ susamaahito ở trong bài kệ nó có liên hệ đến chữ samathí, tức là trạng thái tâm an trú không bị phóng dật, không bị chi phối không bị phan duyên theo trần cảnh, và lúc nào cũng giữ được tâm niệm vững chắc, ghi nhớ nhận thức được cái gi` đang sanh, đang diệt, như vậy gọi là khéo định tâm trong đời sống hàng ngày của chúng ta.   

 

Phàm phu của chúng ta bị phiền năo sanh khởi được, sân sanh khởi được, si mê tà kiến sanh khởi được, ngă mạn sanh khởi được và bất cứ sự phiền năo nào khác sanh khởi được là do nơi tâm này không được an trú, tâm bay nhảy chạy theo cảnh giới này, chạy theo cảnh giới khác, cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh thí, cảnh vị, cảnh súc và cảnh pháp, thi` tâm luôn luôn biến động, như vậy cho nên mới có cơ hội để cho phiền năo phát sanh. 

 

Cũng ví như thân của chúng ta, nếu một khi chúng ta để cho ti`nh trạng bị suy sụp thể lực, nghĩa là có cơ hội để cho cơ thể bệnh hoạn phát sanh, các con vi trùng nó hoằnh hành quấy phá, cũng như thế, nếu như tâm này sơ hở thi` phiền năo tức là những con vi trùng bịnh nó sẽ xâm nhập được, Đức Phật Ngài gọi là tâm không khéo tu, cũng giống như mái nhà không khéo lợp, nước mưa có thể thấm dột, co`n ngược lại khi chúng ta khéo an trú tâm bằng cách là chúng ta biết lắng nghe, biết suy tư thi` trong trường hợp đó tâm khéo tu tập. Đức Phật Ngài dạy rằng giống như một căn nhà được lợp nóc một cách kỹ lưỡng, nước mưa không làm hư dột. Cũng như thế, nếu trong đời sống hàng ngày, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng nhận thức được, chúng ta cũng biết tự chủ được và chúng ta tự có chánh niệm tự phát hiện được những gi` đang sanh đang diệt.

 

Thưa quí vị điều thứ hai nữa là tu tuệ, tu tuệ cũng là một phương pháp để giúp cho chúng ta thiền tư vắng lặng, bởi vi` phiền năo độc hại tức là tham sân si một khi mà nó đă sanh khởi rồi, nếu chúng ta chỉ dùng tâm định, thi` cũng giống như là chúng ta lấy đá để mà đè cỏ, phiền năo tức là cỏ, tâm định cũng giống như tảng đá. Chúng ta bê một tảng đá đặt lên một nắm cỏ, thi` cỏ nó sẽ bị đè bẹp và nó không phát triển được, tuy nhiên nó có thể len lỏi phát triển ở hai bên của tảng đá, chứ nó không thể nào xuyên thủng tảng đá.  Cũng giống như tâm định vậy, tâm định trong thiền sắc và thiền vô sắc, hay tâm định trong thiền chỉ, thi` nó chỉ có khả năng đè nén phiền năo thôi. 

 

Bây giờ việc mà chúng ta phải giữ tâm an tịnh đạt đến mức rốt ráo, phải phát triển việc làm tuệ ở đây, tức là một trạng thái sáng suốt, một sự nhận thức sâu sắc khi chúng ta có chánh niệm, chúng ta ghi nhận từng hơi thở ra vào, hay chúng ta ghi nhận trạng thái tâm như thế nào, thi` ngay trong lúc đó quí vị phải được khéo để nhi`n thấy tâm sanh đó vốn   vô thường, khổ và vô ngă.   Khi có chánh niệm với hơi thở ra, hơi thở vào biết rơ đó là chánh niệm, và chánh định nhưng phải có trí tuệ để nhận thức được tánh chất sanh và diệt của tâm, và sanh diệt của hơi thở. 

 

Chính hai yếu tố này tức là tu trí tâm và tu trí tuệ, hai yếu tố đó là y’ và khẩu,  khi y’ được thanh tịnh, tức nội tâm được an tịnh, lúc bấy giờ thân nghiệp, khẩu nghiệp, khẩu hành, thân hành sẽ được an tịnh, bởi vi` hành động của thân, sinh hoạt của lời nói, của khẩu tức là hành động và lời nói được tùy thuộc vào tâm, điều khiển tâm tạo ra, bởi thế cho nên tâm an tịnh thi` thân khẩu cũng đươc an tịnh., chúng ta cũng cần phải hiểu chỗ đó.

 

Một điều chúng tôi cũng nên gợi y’ cho các phật tử,  rằng chúng ta tu tập tam nghiệp, không dễ dàng để tu tập tam nghiệp, bởi vi` phiền năo nó mạnh hơn thiện pháp, phiền năo mạnh hơn đức tin, phiền năo mạnh hơn tinh tấn, phiền năo mạnh hơn chánh niệm, phiền năo mạnh hơn chánh định, phiền năo mạnh hơn trí tuệ của kẻ phàm phu, bởi thế cho nên phải tu tập thường xuyên, chúng ta phải trao dồi về đức tin, trao dồi về sự tinh tấn và chúng ta phải trao dồi về trí tuệ, lâu ngày sẽ trở thành thuần thục, lúc bấy giờ phiền năo bị bào mo`n.  Ở đây trong việc tu tập, nếu chúng ta tu tập về tam nghiệp, để cho tam nghiệp an tịnh, nắm tận gốc tức là chúng ta có những cử chỉ, chúng ta giữ cử chỉ lời nói cho được tốt đẹp, cho được trang nghiêm, như vậy cũng chưa phải là đạt đến mức độ an tịnh. 

 

Thưa quí vị, dựa theo duyên khởi, chúng ta nên hiểu một điều rằng, Đức Thế Tôn Ngài chỉ nhân sự kiện này, Ngài thuyết lên một đề pháp, trước nhất để đánh thức được trí tuệ  giác ngộ của Ty` khưu Santakaya, thứ hai nữa nhân cơ hội này,  Đức Thế Tôn Ngài dạy cho các vị Ty` kheo để tu tập cho đúng pháp.  Trong trú giải nói rằng vị Tỳ kheo này có được cử chỉ uy nghi tế hạnh, đi đứng khoan thai, lời nói trầm tỉnh, và chính thái độ nghiêm túc như vậy, an tịnh như vậy, khiến cho các vị Ty` kheo chú y’, và các vị Ty` kheo này đă hết sức hoan hỷ tán thưởng, về uy nghi tế hạnh của Ty` kheo Santakaya và sẵn cơ hội này Đức Phật Ngài đă nói giữa hội chúng là vị Ty` kheo này y’ thức được như thế nào là quan trọng trong vấn đề làm cho thân nghiệp, khẩu nghiệp và y’ nghiệp được an tự.  Vừa dứt bài kệ, vị Ty` kheo đó hiểu ngay chánh pháp và chứng quả ALaHán.

 

Trong đời sống hàng ngày của chúng ta có qúa nhiều phiền lụy, tự nhiên tâm của chúng ta không được an tịnh, chính vi` tâm không được an tịnh, do đó cho nên về cử chỉ hành động luôn cả lời nói cũng vẫn không được an tịnh, người Phật tử chúng ta đừng nghĩ rằng khi chúng ta tu tập , chúng ta quá quan tâm đến cử chỉ lời nói của mi`nh, thi` như vậy là một sự câu nệ.  Nhưng không thưa quí vị, ở đây chúng ta cần phải hiểu rằng thế nào là sự câu nệ về những cử chỉ nhỏ nhặt, tức là cái điều quan trọng thấy là quan trọng và những điều không quan trọng  lại thấy là quan trọng, chính vi` chấp một cách sai lạc như vậy, cho nên khi một người mà khép nép về cử chỉ nhỏ nhặt của mi`nh hay của người khác, rồi cố gắng để sửa chữa thi` đó mới gọi là sự câu nệ, co`n ở đây khi chúng ta có đến những cử chỉ những lời nói , chúng ta hăy thực hành theo một điều mà Đức Phật đă ban hành giáo giới trong Trung Bộ kinh, khi chúng ta có sự xem xét, chúng ta quan tâm như vậy, thời hành động nào mi`nh làm thi` hành động đó sẽ  tốt đẹp, lời nói nào mi`nh nói thi` lời nói đó sẽ  tốt đẹp. 

 

Có những người trong cử chỉ, trong uy nghi họ đi đứng không khoan thai, cử chỉ không tế nhị, nhưng họ vi` không y’ thức được, không nhận thức được, không quan tâm, do vậy cho nên họ chỉ làm chướng mắt người khác mà thôi.  Những người nào mà họ không chịu quan tâm về lời nói của chính bản thân họ, lúc bấy giờ khi họ nói ra, họ không nhận thức được lời nói đó có tác dụng hay không tác dụng, lời nói đó hữu ích hay vô ích, lời nói đó sẽ được người khác nghe dễ chịu hay cảm thấy khó chịu, vi` vậy cho nên người này dễ mắc phải những nỗi lầm, những khuyết điểm.  Do đó cho nên ở đây trong sự quan tâm về những cử chỉ nhỏ nhặt, đó là một điều cũng rất cần thiết trong việc tu tập của chúng ta. 

 

Tuy nhiên như chúng tôi đă nói, đối với những gi` quan trọng thi` chúng ta nên thấy là quan trọng, co`n  những gi` không quan trọng thi` chúng ta đừng có thấy là quan trọng, thi` như vậy chắc chắn chúng ta sẽ có được một thân hành, khẩu hành an tịnh.  Và một điều chúng tôi cũng xin được gợi y’ thêm cho các Phật tử chúng ta, đó là về sự tu tập y’ nghiệp thanh tịnh, y’nghiệp an tịnh. 

 

Ở đây chúng ta có 5 loại triền cái, tức là phiền năo tham dục, phiền năo sân hận và phiền năo hôn trầm thụy miên, tức là buồn ngủ uể oải, phiền năo ray rứt hối hận, như phóng tâm, và cuối cùng phiền năo hoài nghi đó hằng chi phối và làm cho tâm này bị trở ngại trong việc chúng ta tu trí để đạt đến thiền định cho tâm được an tịnh.  Bởi vậy cho nên trước nhất khi người Phật tử chúng ta tu tập về tâm an tịnh, chúng ta cần phải lưu y’ đến 5 thứ phiền năo đó, lúc nào tâm của chúng ta thiên nặng về dục tham ham muốn trong cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh hương, cảnh vị, cảnh xúc, thi` lúc đó chúng ta phải ti`m cách loại trừ tư tưởng đó đi. 

 

Khi nào tâm của mi`nh gặp cảnh bất bi`nh, chúng ta lại khởi lên một cái tâm bực phiền, thi` như vậy chúng ta đă bị thua, đă bị thất bại bởi vi` tâm chúng ta không được an tịnh. Khi tâm co`n bị quấy nhiễu bởi sân hận, khi nào tâm của chúng ta trở lên lười biếng dă dượi thi` lúc bấy giờ chúng ta cần phải y’ thức đó là một chướng ngại phiền năo, chúng ta cần phải loại trừ nó đi.  Khi nào tâm của mi`nh nó bay nhảy, nó phóng túng hay có sự hối tiếc về quá khứ, thi` trong trường hợp đó chúng ta cũng phải nhận thức rơ ràng và chúng ta dừng lại ở đây.  Và kính thưa quí vị khi chúng ta tu tập, nếu chúng ta biết giữ được trạng thái tâm an tịnh bằng cách chúng ta dùng thiền chỉ và thiền quán, hay tu trí tâm và tu trí tuệ, để chúng ta khắc phục làm cho tâm được an tịnh, thi` lúc bấy giờ thân sẽ được an tịnh và khẩu sẽ được an tịnh.

 

Ở đây Đức Phật Ngài đă dạy rằng vị Tỳ kheo cần phải bỏ tục niệm, danh từ được gọi là tục niệm,  là nói chung tất cả những gi` thuộc về sự xu hướng theo thế gian, xu hướng bận rộn bởi các công việc như người đời,hoặc bận rộn bởi những cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị ,cảnh xúc, cảnh sắc, cảnh pháp, thi` như vậy cũng được gọi là một sự bận rộn thế tục, hay là một tục niệm.  Khi chúng ta co`n quá bị chi phối bởi tục niệm như vậy thi` chúng ta chưa có được trạng thái tâm an tịnh. 

 

Ở đây một điều nữa ngoài vấn đề thân an tịnh, khẩu an tịnh, và tâm thiền tư an tịnh, ngoài việc đó ra chúng ta co`n một điều nữa, mà điều này nói riêng về một vị Ty` kheo, nhưng chúng ta cũng có thể nói chung cho tất cả những vị hành giả, dầu cho vị hành giả đó là cư sĩ, đó là đang trong lúc chúng ta tu tập, chúng ta cũng phải chú y’.  Bởi vậy cho nên quí vị biết tại sao ở trong các trường thiền, được nghe nói rằng ở những trường thiền bên Miến Điện chẳng hạn, hay những trường thiền, những thiền viện chuyên chú về pháp hành, người ta dặn do` các vị hành giả hăy bới đi sự nói chuyện, sự hỏi thăm, hăy bớt đi sự viết thư từ, hăy bới đi những công việc làm, như giặt giũ tắm rửa hoặc xây dựng pḥng ốc v.v… tại sao phải bới đi, bởi tất cả những việc làm đó đều gọi là thế tục, đều gọi là tục niệm và khi vị hành giả bị chi phối như vậy,  thi` vị hành giả không thể có tâm an lạc. 

 

Nói đến điều này  chúng ta cũng rất thông cảm cho các vị xuất gia làm trụ tri`, bản thân chúng tôi không phải là một vị trụ tri`, nhưng vai tro` của chúng tôi cũng giống như một vị trụ tri`, chúng tôi toàn quyền để sắp đặt công việc tổ chức trong chùa, sinh hoạt lễ hội, hay đưa chương tri`nh giảng dạy, hoặc chúng tôi đề xướng những công tri`nh xây dựng ở trong chùa, phải sửa chữa chỗ này, xây cất chỗ kia v.v… phải thú thật rằng, những lúc đó của chúng tôi bị tục niệm chi phối nhiều lắm, những lúc như vậy phải nói tâm bị chao động, và không gắn liền với đời sống giao động.  Mặc dầu nói đến đâu thi` biết đến đó, đang ti`nh cờ như thế này, người ta mời đi thuyết pháp, một vị Pháp Sư hiểu pháp thi` có thể nói được, nhưng trong việc tu tập để giữ được sự an tịnh, phải nói trong thời gian bị tục niệm như vậy, thế tục như vậy, trong thời gian đó khó mà có được tâm an tịnh, vi` bị chi phối nhiều lắm. 

 

Và thưa quí vị, khi chúng ta mất đi sự an tịnh, nó có hậu quả như thế nào, chúng ta có cần thiết chăng trong sự an tịnh nhất là đối với người cư sĩ, bởi vi` người cư sĩ nghĩ rằng bậc xuất gia cần nên tu tập về tam nghiệp an tịnh, nhưng đối với người tại gia cư sĩ có quá nhiều tục sự, có quá nhiều công việc cần phải làm, có cần thiết chăng phải như một vị xuất gia, giữ được thân khẩu y’ an tịnh, có cần thiết không. Ở đây thưa quí vị chúng tôi nói rằng rất cần thiết, bởi vi` dầu muốn hay dầu không, khi chúng ta bị chi phối bởi những công việc, tâm chúng ta không được an tịnh, lúc bấy giờ chúng ta mất đi sự an vui, cái sự an vui đó nó xuất phát từ ở tâm này, chớ không ở đâu cả. 

 

Chúng ta đừng nghĩ rằng hạnh phúc nó tùy vào ngoại cảnh, đồng y’ nó cũng tùy thuộc vào ngoại cảnh phát sanh lên sự an vui hạnh phúc, nhưng trước nhất căn bản phải là nội tâm, hễ nội tâm này được an tịnh thi` tự nhiên thân an tịnh, và khẩu an tịnh, như vậy sẽ phát sanh hạnh phúc.  Bây giờ tự chúng ta mỗi người phải là vị Thầy thuốc của chính mi`nh, là vị bác sĩ của chính mi`nh, để điều trị các căn bịnh của chúng ta.  Chúng ta trông cậy vào người khác làm cho mi`nh được an tịnh, không bị phiền toái thi` điều đó không thể được, chúng ta trông cậy vào người khác sẽ làm cho mi`nh được hạnh phúc, được yên vui, điều đó không thể có được, trong khi nột tâm vẫn co`n trộn rộn bất an, thử hỏi làm sao chúng ta có được sự an vui, có được hạnh phúc.

 

Bây giờ ở trên thế giới có phát sanh những chứng bịnh hết sức ky` lạ, trong số những chứng bịnh ky` lạ đó, có những bịnh gọi là bịnh trầm uất, do sự căng thẳng, suy nghĩ nhiều, suy tư nhiều, bị phóng dật nhiều, chúng ta gọi là bịnh stress.  Chính bịnh này đă làm cho nhân loại mất đi cuộc sống an lạc, cá nhân của chúng ta, khi chúng ta bị như thế đó, phải nói là đời sống của chúng ta luôn luôn lúc nào cũng có cảm giác giống như chúng ta sống ở trong một căn pho`ng oi bức, hay chúng ta ở gần bếp lo`, bây giờ chúng ta phải tự cứu lấy mi`nh, làm như thế nào để cho tâm được an tịnh, để cho thân khẩu được an tịnh, như vậy chúng ta mới được an vui hạnh phúc.

 

Cho nên tùy, nếu chúng ta tự cảm thấy rằng những gi` trong cuộc sống này, chúng ta sinh hoạt quá nhiều để cho tâm của chúng ta bị giao động, mất sự an lạc yên tịnh, thi` tự chúng ta phải cứu lấy, tự chúng ta cũng hăy làm như là một con voi dhammapala, mà Đức Phật đă thuyết trong bài kệ trước.  Một khi con voi này nó đă tự rút ra khỏi vũng bu`n thi` nó sẽ tiến về phía trước, và khi con voi này bị sa lầy thi` không ai có thể giúp được nó, ngoại trừ bản thân của nó và tâm y’ của nó mà thôi, người ta chỉ gợi y’ bằng cách đánh trống trận ở xa, dựng cờ phướng để khiêu khích nó, nhưng tự nó phải dùng hết sức lực rút chân khỏi chỗ bùn lầy như thế nào. thi` chúng ta cũng vậy, tất cả sự khổ đau phiền lụy của cuộc đời cũng giống như những đám bùn lầy, và tự chúng ta phải rút chân ra khỏi đám bùn lầy đó, chứ co`n nếu chúng ta trông cậy vào người khác, chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ rút chân ra khỏi đám bùn lầy đau khổ này, người khác họ co`n bị chi phối chính bản thân họ, có đâu họ có thể lo cho mi`nh được, cho nên người Phật tử tu tập lúc nào chúng ta cũng phải chú y’, để chúng ta có thể tự quyết định vận mạng của chính mi`nh.

 

Bài kệ này thưa quí vị, thật sự rất hoan hỷ, khi chúng tôi đề cập đến ở đây, chúng tôi rất tâm đắc, bởi vi` trong đời sống hàng ngày chính bản thân chúng tôi, có đôi lúc chúng tôi cũng bị phiền lụy vi` phiền năo, và sự phiền lụy phiền năo đó nó dày ṿ làm cho cuộc sống này giống như nghẹt thở, giống như bẩn trật, nhưng chúng tôi đă kịp thời, đă hiểu được những gi` cần phải làm, chúng tôi phải cho thư giăn một chút, và khi chúng tôi đă thư giăn được, và đă có chánh niệm giữ tâm được, đă quay trở về với những công việc thích hợp, thi` tự nhiên tâm của mi`nh được an lạc.  Cho nên chúng tôi xin gởi gấm đến quí vị một lời nói, là hăy tự cho mi`nh một đời sống an tịch, để rồi nội tại chúng ta không bị phiền lụy. Chỉ có một lời đó, chúng tôi xin gửi đến quí vị. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Minh Hạnh biên soạn

   Trở Lại Câu hỏi

   Trở Lại Trang Kệ Ngôn Kinh Pháp Cú

Trở Lại Trang Pháp Đàm