HÂN HOAN ĐÓN CHÀO CHƯ TÔN ĐỨC VÀ QUÝ PHẬT TỬ

Minh Hạnh biên soạn

   

Ngày 17 tháng 11, 2003

Kinh Pháp Cú, Phẩm 21

Tâm Niệm Người Tu Tập Phẩm Tạp Loại (Pakinnakavagga)

kệ ngôn 296 - 301

An Trú Chánh Niệm

    (Bản Việt dịch của TT Giác Đẳng)

 

Đệ Tử Gotama                                       Đệ Tử Gotama

Thường tỉnh giác chánh niệm                  Năng tỉnh giác chánh niệm

Không luận ngày hay đêm                      Chẳng luận ngày hay đêm

Thường niệm tưởng Phật Đà                  Thường niệm tưởng Chánh Pháp

 

Đệ Tử Gotama                                       Đệ Tử Gotama

Thường tỉnh giác chánh niệm                  Thường tỉnh giác chánh niệm

Không luận ngày hay đêm                      Không luận ngày hay đêm

Thường niệm tưởng Tăng già                 Thường tu tập thân quán

 

Đệ Tử Gotama                                       Đệ Tử Gotama

Thường tỉnh giác chánh niệm                  Thường tỉnh giác chánh niệm

Không luận ngày hay đêm                      Không luận ngày hay đêm

Tâm vui niềm bất hại                              An vui trong thiền tịnh

 

TT Giác Đẳng giảng : kính đảnh lễ Chư Tôn Đức và thân chào quí Phật tử, ngày hôm nay là buổi học rất đặc biệt, trước nhất đây là một bài học có 6 kệ ngôn được giảng một lúc, chúng tôi không nhớ có bài học nào từ trước đến nay chúng ta có cùng lúc 6 kệ ngôn như vậy, và điểm thứ hai là với 6 kệ ngôn này chúng ta đă bước ngang bài kệ số 300 trong 423 bài kệ Pháp Cú, chỉ c̣n 5 phẩm nữa là chúng ta đă hoàn tất bộ kinh Pháp Cú 423 bài kệ này.  Đó là sự đánh dấu hết sức hoan hỷ trong sinh hoạt đều đặn hành ngày của chúng ta, và thưa quí vị, điểm đặc biệt thứ ba ở trong kệ ngôn này chúng ta sẽ có thi` giờ để bàn về pháp tu, pháp tu đó ngày hôm nay hết sức là phổ thông đại chúng, và chúng ta có ít thi` giờ để nhi`n lại pháp tu này đă có mặt thời Đức Phật như thế nào. Đó là pháp tu niệm Phật, niệm Phật ngày hôm nay đặc biệt là ở trong một số các tông phái như Tịnh Độ tông thi` đă trở thành một pháp môn tu tập chính.

        Có nhiều người xem pháp môn niệm Phật, được xem là pháp môn ưu việc nhất trong tất cả pháp môn bởi v́ những vị này cho rằng pháp môn niệm Phật thích hợp với thời đại mạc pháp này.  Thưa quí vị niệm Phật trong kinh điển Pali là một trong nhiều cách niệm, mà trong câu chuyện này khi chúng ta đi sâu vào thi` chúng ta sẽ thấy rằng khi nhà vua hỏi Đức Phật phải chăng chỉ niệm Phật là cách duy nhất để an trú tâm và ti`m sự khổ tŕ, thi` Đức Phật Ngài đă dạy cả 6 bài kệ với 6 nội dung khác nhau, chúng ta sẽ lần lượt đi vào từng phần một của y' nghĩa từng bài kệ ngày hôm nay.

        Trước hết chúng ta hăy có một cái nhi`n đại loại, cái nhi`n chung về pháp môn niệm Phật ở trong Phật Giáo, vào thời Đức Phật c̣n tại thế thi` Đức Phật Ngài giới thiệu cho chúng ta nhiều pháp tu tập.  Theo trong Thanh Tịnh Đạo ghi có tất cả 40 đề mục thiền chỉ, và niệm Phật là một trong 40 đề mục thiền chỉ đó, và rồi chúng ta cũng biết được bốn phép niệm xứ, niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, được xem như thiền quán của Phật Giáo, thi` không có pháp môn niệm Phật ở trong bốn pháp niệm xứ, cho dù rằng những vị thiền giả  thỉnh thoảng khi hành thiền cũng có niệm Phật, có đảnh lễ Tam Bảo, nhưng không gọi là niệm Phật theo cách của chúng ta thường niệm được.

      Và chúng ta cũng biết được người ta có ba quan niệm khác nhau về niệm Phật.

      - Thứ nhất niệm Phật công cử hay là niệm Phật với sự chuyên chú niệm một hồng danh Phật, niệm tên danh xưng của Đức Phật, như Đức Phật A Di Đà chẳng hạn, niệm nhất tâm bất loạn nghĩa là niệm liên tục, niệm như vậy thường được qua nhiều phương tiện như người Trung Hoa, như người Việt Nam thường niệm Phật lần chuỗi, hay là người Tây Tạng cũng đều dùng chuỗi để niệm, một ngày họ có thể niệm 1000 lần những danh hiệu của các Đức Phật, như Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, hay Đức A Di Đà v.v...

       Niệm Phật như vậy thi` mang tánh cách thiền định và chúng ta cũng nghe đến một vài pháp niệm Phật khác trong truyền thống Phật Giáo Nam Tông như niệm Budho là ân đức Phật, ở trong đó là ân đức Phật Đà,thi` cũng là một cách niệm như là một cách thiền, nghĩa là niệm qua hơi thở, niệm đi niệm lại nhiều lần, tuy vậy cũng có một cách niệm Phật khác mà nó mang sắc thái tôn giáo tính nhiều hơn là tánh của thiền, tôn giáo tính có nghĩa là chúng ta niệm Phật trở thành quen miệng, giả sử như trong truyền thống Bắc truyền thi` mỗi khi gặp nhau hay niệm ADiDaPhật. ADiDaPhật được xem như câu mở đầu cho câu chào hỏi, và rồi niệm Phật nó đă trở thành bản sắc của những người Phật tử, cũng như là các tôn giáo khác họ cũng niệm xưng danh hiệu vị giáo chủ của ḿnh, ở trong Ky Tô Giáo họ cũng nói " rằng lạy Chúa tôi " chẳng hạn, những câu đó quen miệng như là một sự gần gủi một tín đồ với một đấng thiêng liêng cao cả.

       - Trong cách niệm Phật thứ hai này, niệm lâu trở thành quen miệng mà thường nói như vậy, chúng tôi đă có rất nhiều cố gắng để nh́n lại pháp môn niệm Phật khi Đức Phật c̣n tại thế, và ở trong bài kệ này là một thí dụ hết sức đặc biệt về quan điểm liên quan đến niệm Phật. Trong câu chuyện này chúng ta sẽ đi xa hơn vào chi tiết niệm Phật, của câu truyện được nhắc ở tại đây là có một em bé quen miệng lúc nào cũng niệm câu mà chúng ta phiên âm là Nam Mô Phật Đà Gia, như quí vị thường nghe Nam Mô Phật Đà Gia, Nam Mô Phật  Đà Gia, Nam Mô Tăng Đà Gia, cái câu Nam Mô Phật Đà Gia  là Namo Buddhàya, có nghĩa là thành tâm đảnh lễ Đức Phật, xin đảnh lễ Đức Phật.  Ở trong nhà em bé này cha mẹ thường hay nói câu Namo Buddhàya và em cũng hay quen miệng tụng như thế.

       Cũng trong câu chuyện này thi` một lần cha đi ti`m con ḅ lạc, một con ḅ bị lạc mất, cửa thành đóng lại và khi ti`m lại đươc con ḅ lạc, bấy giờ cửa thành đóng lại, không có cách gi` để ra ngoài ti`m con, đêm đó em bé đă ngủ một mi`nh ở ngoài thành ở băi tha ma, theo trong kinh kể thi` tối hôm đó có một ác dạ xao đă định hại em bé này, nhưng khi trong giấc ngủ em bé mớ lên lời Namo Buddhàya, lúc bấy giờ dạ xoa cảm thấy sợ hăi không dám đụng đến, một dạ xoa tốt đă nói với ác dạ xoa rằng phải làm một cái ǵ đó để đừng làm em bé kinh hoàng, và câu chuyện chúng ta đă được nghe đọc là ác dạ xoa đă vào trong hoàng cung lấy một ít thức ăn đựng trong một đĩa bằng vàng đem ra giả làm cha mẹ để cho em bé ăn cho đỡ đói trong đêm.

       Về sau này khi biết được câu chuyện thi` nhà vua đă bạch hỏi Đức Phật rằng, có phải chỉ có sự niệm Phật mới được sự hộ tri` như vậy không, thi` Đức Phật đưa ra tất cả 6 pháp niệm Phật mang đến sự hộ tŕ.  Ở đây từ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, và rồi tu tập  về thân quán, tâm an trú vui trong sự bất hại và sau cùng là an lạc ở trong thiền định, phần an lạc trong thiền định có lẽ phần đề cập đến rất là chung, chúng ta có thể nói rằng bao gồm nhiều thứ.

       Trước khi đi vào trong từng pháp môn thi` chúng ta có một từ ngữ ở tại đây, có lẽ với nhiều Phật tử không quen thuộc lắm, đó là chữ Gotama, chữ Gotama được dịch âm là Cồ Đàm, hay là Kiều Đàm, Kiều Đàm tức là họ của Đức Phật, Đức Phật Ngài lấy họ mẹ, mẹ của Ngài là Gotami, c̣n Ngài là Gotama, và rồi theo một số y' kiến của những nhà nghiên cứu, thi` có hai chữ đă từ Ấn Độ truyền sang Trung Đông đó là chữ Gotama và chữ Arahan. Chữ Gotama chúng ta thường gọi Cồ Đàm thi` thường được chuyển sang chữ gọi là God Đam sang đến Trung Đông thi` được gọi God là thượng đế, và theo những nhà nghiên cứu thi` Arahan là Bậc A La Hán hay là bậc Ứng Cúng, được truyền bá dần sang những sứ khác trở thành chữ ALa, Ala cũng là chữ thượng đế, trong chữ Yah Hebrew và chữ Ả Rập, nhưng về sau này chữ Ala được chỉ cho thượng đế của Hồi Giáo, và chữ God để chỉ cho thượng đế chung ở trong Anh ngữ và một số các ngôn ngữ Ấn Âu khác, chúng ta vẫn chưa có được một cái sưu khảo đáng kể về hai chữ Gotama và chữ Arahan, mà có sự nghiên cứu chi tiết về tầm nguyên như thế nào.

        Tuy nhiên ở tại đây thi` chữ Gotama được đặc biệt là để dùng chỉ cho Đức Phật, ở trong mạch văn này thi` thưa quí vị đây là một cái thể kệ do vậy trong cách viết người ta có nhiều cách viết khác nhau, khi Đức Phật giảng câu kệ này, chúng ta cũng khó dựa trên y' nghĩa này để có lượng định tại sao ở đây Ngài không dùng chữ Phật Đà, mà Ngài dùng chữ Gotama, như vậy theo Ngài Santaci thi` chữ Gotama ở đây được đặc biệt nói nên có một y' nghĩa những nhà ngoại giáo thường dùng chữ Gotama hay chữ Samôn Cồ Đàm.  SaMôn Gotama để phân biệt Đức Phật và những người ngoại đạo, thi` trong câu chuyện này Đức Phật Ngài có thể là qua đó Ngài nói lên sự khác biệt giữa Ngài và những đạo giáo khác ở trong quy luật của Phật, của Pháp, của Tăng, ở trong bản sắc sống bằng tâm niệm như thế nào, sống bằng cái thường nghiệp như thế nào mà dẫn đến an lạc, dẫn đến sự hộ tri` một cách chân chánh thi` những người đệ tử Phật có khác hơn là đệ tử ngoại giáo.

        Dĩ nhiên chúng tôi chỉ lập lại lời này như một điều dè dặt bởi vi` đó chỉ là một y' kiến.  Chúng ta cũng có thể nói ở trong cách viết, ví dụ như chúng ta  nói rằng:

                             Đệ tử Gotama, thường tỉnh giác chánh niệm,

                             không luận ngày và đêm,

                             thường niệm tưởng Phật Đà,

      Thưa qui' vị khi ở câu kệ dước chúng ta đề cập đến Phật Đà, và câu trên chúng ta dùng chữ Gotama thi` trên phương diện văn pháp chuyện đó nó cũng là một cách thay thế rất đẹp, chớ không phải là một việc chúng ta cho là hoàn toàn ngẫu nhiên, hay do có sự sắp xếp gi` khác ngoài mạch văn chúng ta cũng có thể giải thích như vậy, nhưng việc đó thật sự nó không có quan trọng lớn đối với chúng ta ở tại đây.

        Bây giờ thi` chúng ta trở lại pháp môn niệm Phật, có rất nhiều sự dị biệt khi người Phật tử quan niệm về vấn đề niệm Phật, đa số quan niệm về niệm Phật trong truyền thống Phật Giáo Bắc truyền là niệm Phật theo danh hiệu của Phật, và trong truyền thống Nam truyền thi` niệm ân đức của Phật, chúng tôi muốn nói danh hiệu của Phật là như chúng ta nghe có những danh hiệu như niệm đức Dược Sư hay là niệm Đức Phật A Di ĐÀ, hay là niệm Đức Tỳ Lô Giá Na và có lẽ vị Phật được niệm nhiều nhất là Phật A Di Đà, hay là Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Phật, như vậy tức là lấy tên của vị Phật nào đó niệm.

        Trong truyền thống Nam tông cũng xác nhận có nhiều vị Phật, mặc dầu có những vị Phật quá khứ, có những danh hiệu như Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Đức Phật Ca Diếp, Đức Phật Thi Khí, Đức Phật Tỳ Bà Thi v.v....tuy nhiên ở trong truyền thống Phật Giáo Nam Tông thi` không lấy danh tánh của Chư Phật mà niệm, mà niệm vào ân đức Chư Phật, và ân đức Phật đây là ân đức của cả ba đời mười phương Chư Phật, ví dụ như là Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc Thiện Thệ. 

      Và hai cái ân đức Phật được niệm nhiều nhứt đó là Arahan là Ứng Cúng tức là trọn lành, là bậc xứng đáng được cúng dường và Buddho, Buddho là Phật Đà có nghĩa là bậc Giác Ngộ tỉnh thức, về pháp môn niệm Phật thi` người ta có nhiều pháp môn đại để là có những pháp môn họ tưởng niệm về ân đức của Phật và an trú vào sự suy niệm đó, như chúng ta nghe giải thích ở trong Thanh Tịnh Đạo, rồi cũng có những pháp môn niệm Phật, dùng một huy hiệu Phật như là Araham hay là Buddho, đặc biệt là Buddho có hai âm đi với hai nhịp điệu của hơi thở ra và vào thi` niệm là Buddho, niệm Phật Đà hay Araham, hơi thở ra niệm Araham Đức Phật trọn lành, hơi thở vào niệm Araham Đức Phật trọn lành.

        Thường thi` niệm Phật chung với hơi thở hoặc người ta cũng niệm chung với tràng chuỗi, ở tại Miến Điện thi` người ta có một cách niệm là trọn cả ân đức của Đức Phật, từ Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc mà theo trong kinh Phạn là

 Itipi So Bhagavà Araham cho đến đoạn cuối, nếu mà họ tụng là Itipi So Bhagavà Araham, Itipi So Bhagavà Sammàsambuddho, Itipi So Bhagavà buddhassa sampanno  thành 108 cái âm, 108 âm đó tương ưng với 108 hạt chuỗi ở trong 108 cái âm tương ưng với 108 hạt trong tràng chuỗi thi` đó là cách niệm Phật bằng chuỗi.

        Các niệm Phật rất là tôn giáo tính của chúng ta thường niệm và chúng ta thường nghe một số các Phật tử quen niệm ADiĐà Phật hay là mô Phật, những chữ đó thi` ở tại các quốc gia Nam truyền thi` không nghe nhiều, ở tại quốc gia Nam truyền người ta nói tùy hỷ là sadho nhiều hơn là bắt đầu bằng câu là AdiĐà Phật hay Mô Phật, tuy nhiên pháp môn niệm Phật có một chỗ đứng vào thời Đức Phật, và ở đây ví dụ là "

                                 Đệ tử của Gotama năng tỉnh giác chánh niệm,

                                 không luận ngày và đêm thường niệm tưởng Phật Đà,

      Và niệm tưởng Phật Đà ở đây có thể được hiểu như là trong Thanh Tịnh Đạo đă đề cập, một người suy tư quán niệm ân đức của Đức Phật một cách sức nhuần nhuyễn từ sự quen thuộc của âm thanh, sau đó là sự biến măn ở trong ân đức của Ngài và sự nhập tâm ân đức của Ngài và đem vào trong từng hơi thở của ḿnh, cái phép niệm Phật đó được xem như là phép niệm Phật nhuần nhuyễn và pháp niệm Phật đó là pháp niệm Phật thường được đề cập đến ở trong thiền chỉ.

      Tuy nhiên ở tại đây thi` chúng ta thấy Đức Phật có xác định cho nhà vua, khi nhà vua hỏi có phải pháp môn niệm Phật là pháp môn duy nhất niệm để được hộ tri` không, thi` Đức Phật đă đưa ra 6 bài kệ khác nhau, ở trong bài kệ này kể cả niệm Pháp, kể cả niệm Tăng, kể cả niệm y' vui niềm bất hại, kể cả điều mà chúng ta gọi là tu tập thân quán và an vui ở trong thiền định.

       Bây giờ thưa quí vị ở trong thời lượng tương đối rất ngắn của bài kinh ngày hôm nay, thi` chúng ta không có đủ thi` giờ để đi qua một cách rất chi tiết, thế nào là niệm Pháp, thế nào là niệm Tăng.  Mỗi một ngày khi vào trong lớp học quí vị thường nghe vị MC đọc lên câu kính lễ Tam Bảo, ở trong đó Đức Phật là bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Điều Ngự Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, đó là những ân đức của Phật, rồi chúng ta cũng nghe ân đức của Pháp và ân đức của Tăng, trong những hoa nghi của Phật Giáo Bắc truyền mà người Phật tử Việt Nam thường quen thuộc thi` thường đảnh lễ Chư Phật, nhưng không có phần xưng tán ân đức riêng của chánh pháp và Chư Tăng, ví dụ như "chánh pháp đă được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian đến để thấy hiệu năng hướng thượng các bậc kư giả thân chứng".  Hoặc giả Chư Tăng " là đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc Diệu Hạnh, Trực Hạnh, Như Lư Hạnh Chân Chánh Hạnh gồm bốn đôi tám vị đáng nhận lễ phẩm tặng phẩm tế phẩm kính lễ là phước điền vô thượng ở đời", ân đức của Pháp của Tăng thi` thật sự ti`m thấy rất ít ở trong cái hoa nghi của Phật Giáo Bắc truyền, mặc dù chúng ta có thể ti`m thấy ở trong các bản A Hàm của Hán Tạng, nhưng lại không có phổ cập ở trong nghi thức tụng niệm.

      Ngoài niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, ở đây lại có hai phương pháp niệm kế tiếp theo đó là niệm thân, niệm thân ở đây thưa quí vị theo các nhà sớ giải thi` chúng ta biết có nhiều pháp niệm thân, ví dụ như niệm về hơi thở, niệm về đại oai nghi, tiểu oai nghi, niệm về tứ đại, niệm về thể trược, niệm về hài cốt, niệm về tử thi v.v...Nhưng các vị nên lưu y' rằng niệm thân ở đây là niệm hơi thở, hơi thở được xem như là một pháp niệm căn bản trong cả chỉ và quán, bởi vi` tính cách liên tục của hơi thở, sự hiện hữu không ngừng nghỉ của hơi thở khi mà mạng sống hiện hữu hơi thở với hai nhịp điệu vào và ra là một đối tượng ly' tưởng để mà gom tâm, do vậy thường chúng ta vẫn nghe Đức Phật dạy rằng hơi thở thuộc về thân hành, tầm và tứ thuộc về tâm hành, chúng tôi sẽ nói cái đó ở trong một dịp khác, nhưng ở đây hơi thở là một trọng điểm, một đề mục chủ yếu của thiền định.

     Rồi y' vui niềm bất hại đó là một cách diễn tả rất đặc biệt của một người sống trong cuộc đời mà không bao giờ mang mảy may một tâm niệm nào để mà hại bất cứ ai. Thật ra thi` chúng ta có thể hiểu cả hai cách, một là y' vui niềm bất hại, có nghĩa là vị này tu tập tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả.  Tâm từ có nghĩa là vị này mong cho chúng sanh được an lạc, tâm bi là mong cho chúng sanh được bớt khổ, tâm hỷ là vui trong hạnh phúc của chúng sanh khác, và tâm xả là giữ tâm quân bi`nh, không bị cái quá vui cái quá buồn nó chi phối mi`nh, thi` cả bốn trạng thái từ, bi, hỷ, xả, cũng là đề mục của thiền chỉ, và chúng ta cũng có một quan niệm khác, y' vui niềm bất hại, nó tương tựa giống như câu nói mà chúng ta thường nghe mọi người nói rằng mi`nh không có làm gi` hại ai, do đó không có chuyện gi` phải sợ, thi` phải nói rằng một con người sống ở trong ba cái nghiệp, là lời nói, hành động việc làm, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp và y' nghiệp hoàn toàn không bao giờ có chủ tâm cố y' để mà hại người khác, thi` người đó thật sự là đáng hoan hỷ, rất đáng vui thấy rằng mi`nh đă sống và mi`nh không có làm tổn thương bất cứ một sinh linh nào.

    Cái không làm tổn thương bất cứ một sinh linh nào cũng là một bản sắc, và cũng là một bản chất mà Đức Phật Ngài dạy trong Từ Bi kinh, và cái thái độ harmlessness hay là bất hại được xem là một khả năng không những là tự chế, không những là đạo đức, như là một nơi nương tựa và chúng ta được biết rằng một vị đại đế, được xem là vị thánh quân ở trong lịch sử của Ấn Độ, và trong lịch sử Phật Giáo là vua A Dục, được nổi bậc khi mang chủ trương bất hại mà ngày hôm nay chúng ta hiểu qua một danh từ khác là nonviolent hay là bất bạo động, nhưng nhiều học giả đă dịch chữ harmlessness tức là bất hại,là không gây thương tổn đến cho muôn loài.  

       Mới nghe thi` bất hại đó rất tiêu cực, nhưng trên thực tế nó là cả một tri`nh độ trưởng thành của tâm linh, chúng ta sống ở giữa những người Việt Nam, thi` chúng ta hiểu được một điều thông thường chúng ta ghi nhận cái chuyện không làm  hại ai nó không phải là  đơn thuần, không làm hại ai là tiêu cực, nghĩa là mi`nh cột tay cột chân lại không làm hại ai, không làm hại ai đó là cả một y' thức rất lớn, một người có trách nhiệm chẳng những thế mà là một người rất xung măn về từ tâm, cứ tưởng tượng rằng trong đời sống hằng ngày có bao nhiêu lời nói của chúng ta trước mặt người khác và sau lưng người khác gây tổn thương cho người mà chúng ta hoàn toàn không để y', nên  một người sống trong đời sống bất hại là dù ở một ḿnh hay ở giữa đám đông hoặc trong lúc nói chuyện thi` không để cho lời nói hành động việc làm của mi`nh với bất cứ một dụng tâm, một chủ y' lớn nhỏ nào để gây ra tổn thương phiền muộn nào cho người khác, đó gọi là " y' vui niềm bất hại " và chúng ta đặc biệt có một câu chuyện ở trong bài kinh ở trong Trung Bộ Kinh, một bộ kinh rất nổi tiếng mà quí vị ti`m thấy trong Trung Bộ Kinh tập một đó là Kinh Sợ Hăi Và Khiếp Đảm.

      Ngày xưa khi Đức Phật, Đức Đạo Sư của chúng ta Ngài sống trong rừng sâu lúc Ngài chưa thành đạo,co`n là một vị đại bồ tát đang hành thiền ở trong rừng sâu, Ngài cũng có y' nghĩ rằng: bởi vi` mi`nh không gây ra tổn hại cho bất cứ sinh linh nào, mi`nh sống với tất cả tâm từ mẫn thi` không có ly' do gi` phải sợ , nên thái độ bất hại nó cũng là  thái độ mang lại cho lo`ng tự tin và hơn thế nữa là nó hộ tri` cho một người, bởi vi` người đó có được cái phước của lo`ng từ, và phước báu của lo`ng tư` thi` quí vị đă nghe Chư Tăng nói rất nhiều, chúng tôi không cần đề cập thêm ở đây.

     Bài kệ sau cùng thi` chúng ta nói về quan niệm về quán niệm, quan niệm về thiền định, thiền định cũng là một pháp được xem như có thể an trú ngày và đêm, thiền định ở đây được hiểu y' nghĩa rất rộng lớn, kể cả thiền chỉ và thiền quán, nhưng mà nói một cách nôm na, là một cách sống mà qua đó chúng ta vận dụng cái khả năng tập trung vào tỉnh giác để làm ṃn và từ dần dà lắng đọng được phiền năo, phiền năo nó được xem như cuộc sống ngoại tại, và thiền định là cách gom tâm về sống với nội tại, thi` trong những pháp môn này thưa quí vị, niệm Phật, thường tưởng niệm Phật, tưởng niệm Pháp, tưởng niệm Tăng, thường an trú trong sự bất hại và chúng ta cũng thấy ở đây là tu tập thân quán mà hồi năy chúng tôi nói chủ yếu là hơi thở và sau là an vui trong thiền định là những pháp năng hộ tri`.

      Nhi`n 6 bài kệ này được Đức Phật Ngài thuyết một loạt thi` cho thấy rằng Đức Phật đă giới thiệu cho chúng ta một hi`nh ảnh rộng lớn hơn là quan niệm ngày hôm nay, chúng tôi nói như vậy thật ra bằng một thái độ rất là cẩn trọng, bởi vi` bây giờ chúng ta nghe rất nhiều sự cổ vơ, chúng tôi biết rằng một số qúi vị rất đặc biệt tin tưởng vào một pháp môn, thi` dĩ nhiên việc đó rất kiên tri`, tuy nhiên chúng ta cũng đừng quên rằng trong lúc mà chúng ta rất nhiệt thành để cổ vơ một pháp môn, thi` chúng ta đừng quên thái độ mà Đức Phật Ngài dạy cho chúng ta đó là có rất nhiều pháp môn khác nhau, có rất nhiều cách hành tri` khác nhau, và những hành tri` này cũng mang lại những lợi lạc to lớn chứ không phải chỉ một pháp môn. Tuy nhiên chúng ta cũng khám phá ra qua bài kệ này có thể nói rằng Đức Phật Ngài đă đưa ra một cách sống miên mật, cách sống miên mật tức là khi nói ở bất luận, không luận ngày và đêm thường niệm tưởng chánh pháp hay là không luận ngày hay đêm thường tu tập thân quán, không luận ngày hay đêm tâm vui niềm bất hại.

     Co' nhiều ngày trước đây trong một buổi thảo luận trực tiếp với TT Trí Siêu trong room DieuPhap này, chúng tôi có cố gắng để đưa lên một câu hỏi, và  TT Trí Siêu cũng đă trả lời mà qua đó chúng ta làm sao để có một cái nhi`n mà tương đối tránh xa hai cái cực đoan, một là bỏ vào trong rừng tu thiền và hai là không tu gi` hết, chúng ta quan niệm như vậy và trong cuộc sống hàng ngày có đi, đứng, có ăn nói, có sinh hoạt có thuyết pháp tụng kinh, có đi làm, thi` những lúc đó không thể nào sống bằng sự an trú vào trong tâm niệm thiện được, không chuyên chú vào những đề mục niệm, ví dụ như niệm Phật được.

    Ở trên thực tế thi` thưa quí vị người ta đă chứng minh rằng cái gi` mà mi`nh tha thiết thi` mi`nh gắng bó, cho dù với cuộc sống hết sức bị chi phối, bận rộn bởi nhiều việc, chúng tôi lấy một ví dụ là có những người rất thích chơi cây kiểng, mặc dù họ có phận sự ở sở làm, có phận sự ở trong nhà, nhưng mà họ đă thích chơi cây kiểng thi` cây kiểng luôn luôn trở lại một vị trí vô cùng quan trọng ở trong lo`ng của họ vào những giờ họ có thể có được, thi` điều đó nó tương tự như một người họ sống hết sức là tập trú vào một đề mục niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm hoan hỷ trong sự bất hại hay là niệm hơi thở, niệm thân hoặc giả là an trú trong thiền định, chúng tôi nói như vậy là một ví dụ rất là tương đối, nhưng mà quí vị sẽ thấy  như vậy, hay là chúng tôi biết những vị rất thích về thi ca, lúc nào cũng có thể thể nhập vào cái khung trời của thơ, có thể hướng tâm của mi`nh trở lại bắt từng cái nhịp của từng gio`ng từng chữ của các bài thơ bởi quá quen trong việc đó, hoặc giả là ngày hôm nay quí vị thấy rằng các em nhỏ, một số người họ chơi game bằng máy điện tử thi` họ nghiền đến mức độ thâm nhập vào được, do vậy quan niệm mà "không luận ngày hay đêm thường tưởng niệm Phật Đà", ở đây chúng ta có thể hiểu được trong một cách nhi`n nếu mà chúng ta thường xuyên dành những thi` giơ` ban đầu để chúng ta tâm niệm vào ân đức của Đức Phật, mà chúng ta cảm kích khi mà chúng ta  nghe đến, thi` chúng ta bỗng nhiên hết sức là hoan hỷ, hết sức là có cái cảm giác gi` đặc biệt, thi` thưa quí vị cho dù chúng ta có sinh hoạt rất bi`nh thường thi` chúng ta vẫn an trú trong đó được.

       Đời sống bản thân của chúng tôi, có một lần chúng tôi có nghe được Ngài Tăngvulu vị Bổn Sư truyền giới cho chúng tôi, Ngài có đề cập đến ân Đức Phật mà qua một ân đức ở trong kinh đó là chữ thiền tuệ hay là  sugato , mà sau đó chữ thiền tuệ lại có một âm hưởng rất đặc biệt khi chúng tôi nghe đến chữ sugato hay là thiền tuệ, th́ chúng tôi nghe có một cái gi` đó hết sức khác lạ, nghĩa là mỗi lần bản thân chúng tôi nghe chữ sugato thi` chúng tôi lại liên tưởng đến một bậc đại giác đă đi và đă đạt đến chỗ tối thượng và Ngài là một vị có thể nói rằng sự thành tựu bất thối chuyển, và khiến chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có thể đặt trọn vẹn niềm tin đi theo bước chân của Ngài.

    Chúng tôi cũng biết một số Phật tử rất thâm nhập Phật hiệu Araham tức là Ứng Cúng hay bậc trọn lành và chúng tôi cũng có biết một vài vị hết sức là nhuần nhuyễn ở trong cách niệm Phật chữ Buddho hay là Phật Đà.

       Nói chung thi` thiền định là chúng ta tạo ra một cái thói quen tốt, chữ thói quen ở đây có nghĩa là thuần thục có nghĩa là nhuần nhuyễn, khi tâm của chúng ta đă được đặt trong một cái nếp nào cố định thi` chúng ta trở lại rất nhanh, đọc những câu chuyện ở trong kinh như chúng ta nghe một người thường dùng màu xanh hay màu vàng hoặc màu đỏ để làm đề mục thiền chỉ, khi mà họ bị hoại thiền, hay là ở kiếp trước họ đă  từng tu đề mục đó, kiếp này họ chỉ thấy thi` tự nhiên có khả năng tập trung tư tưởng lớn và họ có thể thành tụ được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, điều đó không ngạc nhiên vi` họ quá quen thuộc.

       Chúng tôi có quen một anh Phật tử trước kia vốn xuất gia với Sư Cậu của chúng tôi, về sau này anh hoàn tục, sang đây cũng sống ở thành phố này, có một lần chúng tôi hỏi anh  vậy chớ sau mười mấy năm rời mái chùa, khi anh trở lại chùa thi` co`n nhớ nhiều kinh tụng không, anh nói rằng có những bài kinh mặc dù không tụng đă lâu nhưng bây giờ lâu lâu nghe Chư Tăng tụng thi` biết rằng mi`nh sẽ học trở lại và học rất nhanh, thưa quí vị có những thứ mà cơ hồ như chúng ta không thấy được trong một thời gian nào đó mà tâm tư của chúng ta đă quá quen, bây giờ bỗng nhiên tự một gợi nhắc rất nhỏ thi` nó cũng đủ mang một khung trời rộng lớn trở lại với chúng ta.

       Nên mi`nh phải thấy cái lợi đó và mi`nh hoan hỷ về một số y' niệm an trú, chúng tôi có biết rằng một vài người trong đời sống của họ có nhiều cái tự hào, họ tự hào về kiến thức về địa vị, và khi quí vị nói về một chuyện gi` đó, ví dụ như họ đă từng là một tướng lănh tài ba ngoài trận mạc, bây giờ mỗi lần trong tuổi già mà quí vị nhắc lại thuở xa xưa hay là nhắc lại trận chiến nào đó thi` đôi mắt người đó sáng rực lên, người đó trở về với cả một qúa khứ, một quá khứ huy hoàng, một quá khứ oanh liệt, điều này nó là một hiện tượng của tâm lư thôi, và chúng ta cũng biết rằng có những người mà suốt cuộc đời họ có tâm niệm rằng họ sống không bao giờ làm hại bất cứ ai, mà khi nghe nói đến quan niệm về nghiệp báo thi` họ rất hoan hỷ, họ hoan hỷ vô cùng bởi v́ điều đó là một điều mà họ thường tâm niệm, và tâm niệm lớn. 

      Bởi vậy pháp tu tập nó có cái lợi như vầy là cho phép chúng ta làm quen, chẳng những làm quen mà co`n gắng bó, co`n thân thiết, co`n cảm thấy rằng mi`nh thuộc về một cái thế giới, thuộc về một cái gi` đó mà ở trong giây phút thảng thốt, cho dù chúng ta chỉ đón nhận điều đó, đón nhận sự gợi y' hay là một nhắc nhở một cái gi` rất đơn giản, thi` chút ta cũng có thể trở lại thể nhập vào trong cảnh giới đó được, nói về điểm này chúng ta không thể phủ nhận được rằng cái giá trị của sự tu tập rất lớn, lớn lắm.

     Chúng tôi măi về sau này có được nghe một vài vị kể một kinh nghiệm, khi chúng tôi co`n nhỏ, chúng tôi nhớ rằng chúng tôi và TT Trí Siêu có thời gian đi học trong Vạn Hạnh và học Trung Bộ Kinh, tuy rằng tuổi co`n rất nhỏ, nhưng mà khi chúng tôi đọc Trung Bộ Kinh, chúng tôi không bao giờ cảm thấy rằng bài kinh đó khô khan hay là cảm thấy chán, một khi vào học thi` cảm thấy rất là thích thú.  Về sau này khi chúng tôi tiếp xúc với một số các vị khác, thi` chúng tôi biết rằng một số các vị khi đọc vào những bài kinh như vậy thi` rất buồn ngủ, rất là chán, chỉ muốn đọc những quyển Phật sử hay là tích chuyện Phật Giáo, hoặc giả những cuốn sách phổ thông, mà đọc vào những bài kinh trong chánh tạng thi` lại không hoan hỷ nhiều.  Thi` qua đó chúng tôi cũng có niềm tin đâu đó, có lẽ kiếp trước có ít nhiều túc duyên với những chánh kinh như vậy, với những bản kinh ở trong chánh tạng như vậy, nên mặc dù hồi co`n thơ ấu chỉ có thể tiếp xúc và nghe giảng, nhưng mà ti`m thấy ở đó nhiều điều thích thú, thích thú một cách rất đặc biệt, và nó trở thành một trong những quyển kinh sách mà có thể nói rằng mang theo ở trong cả cuộc đời của mi`nh. 

      Thời bấy giờ Đức Phật khi Ngài dạy về điều này, Ngài nhấn mạnh cho chúng ta ba cái lợi lạc rất lớn ở trong cuộc sống, lợi lạc đầu tiên đó là nếu chúng ta thường xuyên để mà tưởng niệm, để mà thâm nhập vào những giá trị tốt đẹp của đời sống thi` tâm tư của chúng ta sẽ dễ dàng trở về với cảnh giới trong sáng, cho dù đó là một cái sự giựt mi`nh ở trong cơn mơ, cho dù ở trong phút bất chợt, bất chợt mà chúng ta không để y' đến, thi` chúng ta vẫn có thể trở về ngay, bởi vi` sao, bởi vi` đó là chỗ nương náu mà lúc nào chúng ta cần phải tự bảo vệ lấy chính mi`nh, thi` chúng ta sẽ đi vào ngay trong nơi đó.

      Chúng tôi nhớ cách đây vài hôm chúng tôi có nhắc trường hợp của Ngài Achaan Sumedho một vị danh Tăng người Mỹ     , vị này trong lúc nói chuyện riêng với chúng tôi, thi` vị này nói rằng bất cứ khi nào lo lắng, khi nào gặp chuyện khó khăn thi` vị này chỉ đọc là Buddham saranam gacchàmi, Dhammam saranam gacchàmi, Sangham saranam gacchàmi - con về qui y Phật, con về qui pháp, con về qui y Tăng, là vị này ti`m về cảnh giới hết sức là nhiệm màu để nương náu nội tâm của mi`nh.

       Và rồi một điểm thứ hai chúng ta có thể nói ở tại đây là vị vua khi hỏi Đức Phật có phải pháp môn niệm Phật là pháp môn duy nhất, thi` Đức Phật Ngài đă đưa chúng ta một hi`nh ảnh rộng lớn, chớ không phải Ngài nói đó là pháp môn duy nhất mà trong đó Ngài đề cập đến chẳng những niệm Phật, mà c̣n niệm pháp, niệm Tăng, niệm hơi thở, quán thân, ư vui trong niềm bất hại và tu tập thiền định, kể cả mở ra một cánh cửa rộng lớn, chúng ta thấy cái nhi`n của Đức Phật và của những người Phật tử ngày Ngài co`n tại thế, thời Đức Phật trụ thế có một cái nhi`n tương đối rộng lớn hơn chúng ta có ngày hôm nay rất nhiều.

      Điểm thứ ba trong bài kệ này, thưa quí vị chúng tôi tin rằng đă giới thiệu cho chúng ta một cái lối sống, lối sống đó không quá cực đoan là phải hoàn toàn như thế này mới là tu thiền, phải hoàn toàn như thế kia, nếu mà không có được như thế kia, tức là không có tu thiền, và ở đây là sự áp dụng trong từng giờ từng ngày, sự áp dụng trong điều kiện nào mà mi`nh có thể áp dụng được, thật ra thi` điều này không có nghĩa chúng tôi cố gắng để phủ nhận giá trị của những người hành giả thiền định liên tục, điều đó rất tốt và không có điều gi` chúng tôi phủ nhận điều đó hết, nhưng một điều rất đáng tiếc khi một số Phật tử cho rằng chúng ta chỉ có thể hành thiền được, chỉ niệm Phật được khi nào chúng ta vào trường thiền, hay chúng ta bỏ hết thi` giờ, hoặc giả chúng ta làm một đại nguyện để thực hành thiền, chúng ta mới thực hành được, ở trên thực tế thi` cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều người có thể an trú trong ân đức của Phật, của Pháp, của Tăng, an trú trong cái niềm hoan hỷ an lạc như niềm vui trong sự bất hại, hay trở về với hơi thở của mi`nh.

     Bây giờ chúng tôi kết luận bài pháp này, phải nói bằng một quan niệm rất thường thức là nội tâm của chúng ta nó cũng giống như thân, thân hay tâm của chúng ta nó là kết quả của quá khứ, nó là sản phẩm của thói quen, mà ở trong 100 việc chúng ta làm, hết 99 việc là do thói quen của chúng ta, cách chúng ta cười, cách chúng ta nói, cách chúng ta hổ thẹn mắc cở, cách chúng ta cảm ơn, cách chúng ta ưa thích việc gi` đó, đều là thói quen hết, và nếu chúng ta có được một sự tu tập và chúng ta quen thuộc với một cảnh giới cao quí, quen thuộc với giá trị cao quí, quen thuộc với đối tượng cao quí mà chúng ta dễ dàng trở về để thể nhập vào ở trong đối tượng đó, cảnh giới đó thi` là một lợi lạc rất lớn và điều đó là điều mà Đức Phật Ngài dạy rằng: đệ tử của Đức Phật thi` thường sống ở trong sự thể nhập như vậy, tức là sống bằng cái thái độ sống, mà thái độ đó là thái độ đưa tâm tư của mi`nh vào một cảnh giới rộng lớn, cảnh giới cao quí, chứ không phải chỉ sum xoe chăm sóc bề ngoài của mi`nh, ma` quên đi rằng ở trong nội tại của mi`nh cần có một chất liệu sống, chất liệu sống đó nó phải lớn hơn, nó phải cao quí hơn, và nó đẹp hơn,

     Thưa quí vị với ba điểm mà chúng tôi vừa tŕnh bày, chúng tôi xin được kết thúc bài giảng hôm nay ở tại đây trong 6 cái kệ ngôn.

     Chúng tôi cũng nhắc lại lần nữa, vi` khi chúng tôi mở đầu bài pháp ngày hôm nay không có mặt của Chư Tôn Đức trong room, và bây giờ chúng tôi thấy có Sư Trưởng, TT Trí Siêu, Sư Pháp Đăng, Sư Pháp Lực, Sư Huệ Giác ở trong room.  kính mong Quí Ngài và quí vị ngày hôm nay hoan hỷ với một điều là với bài học này, chúng ta đă đi qua kệ ngôn số 300 trong kinh Pháp Cú, thật sự hôm nay là từ 296 tới 301.  Chúng ta cứ xem như một lời của một bài hát là " Đường chúng ta đi, từng đóa hoa hồng nở trên từng bước tới ".  Hoa hồng ở đây chúng tôi muốn nói rằng mỗi một bước đi như vậy chúng ta t́m thấy được rất nhiều điều đáng được hoan hỷ, phải nói rằng trong một nỗ lực hằng ngày để cùng tâm niệm về Phật ngôn, thi` chúng ta đă liên tục từ lúc Sư Trưởng khởi xướng, chưa đầy một năm mà chúng ta đă đi qua 300 bài rồi, đó là một việc vô cùng hoan hỷ, và riêng bản thân của chúng con, nghĩ rằng chưa bao giờ mi`nh có thể đi qua một đoạn đường dài ở trong một thời gian ngắn như vậy. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh biên soạn

   Trở Lại Trang "Ke Ngon"

Trở lại trang "Phap Đa`m"