HÂN HOAN ÐÓN CHÀO
Câu Kệ Ngôn 277 - Kinh Pháp Cú, ngày 8 tháng 11, 2003
Tất Cả Pháp
Hữu Vi Là Vô Thường
Tất cả hành vô thường
Với tuệ quán liễu ngộ
Nhờ vậy yểm ly khổ
Ấy con đường thanh tịnh
(Bản Việt
dịch của TT. Giác Ðẳng.)
TT
Giác Ðẳng giảng : Kính bạch
Chư Tôn Ðức và thưa quí vị, sáng hôm nay tại thành
phố Toronto, trời bây giờ đã sang thu, mùa thu ở
Canada rất đẹp với lá vàng và đỏ, đó
đây vẫn còn vài cây thông vẫn còn mang màu xanh, trời
mùa thu ở đây rất là hữu tình, và có thể nói
rằng trên cuộc hành trình đi qua ngang nhiều thành
phố, và thỉnh thoảng cũng bắt gặp hình
ảnh hết sức tươi đẹp, nó có thể là
một phần quà của cuộc sống này, nhưng mà
đồng thời nó cũng có thể là những gì làm tâm
tư dính mắc lại với trần gian nhiều thay
đổi này .
Tâm tư của chúng ta
mỗi khi tiếp xúc, với cái đẹp của sắc,
với cái hay của thinh, rồi với cái khả ái,
khả hỷ,khả lạc của thí, vị, xúc, pháp
v.v... Chúng ta luôn luôn mong mỏi kéo dài những gì nghĩ
rằng vừa lòng đẹp ý, và nếu thật sự
chúng ta không thể kéo dài được, thì tự trong tâm
tư của mình, mình vẫn mơ về một
phương trời miên viễn.
Chúng tôi nhớ người
Tổng Thống và cũng là vị Chủ Tịnh Tổng
Bí Thư của đảng sau cùng của Cộng Hòa Liên
Bang Sô Viết cũ , ông Gorbachev, trong những năm tháng
về sau này một lần ký giả hỏi ông:
-
Hình ảnh gì mà ông cảm thấy thích thú nhất.
Thì ông Gorbachev trả lời
rằng : Ông thích nhìn cả mặt đất bao phủ
bởi màu trắng của tuyết, và mùa đông khi
tuyết rơi xuống, nhìn màu trắng phủ khắp
mặt đất này, chải rộng ra tận chân
trời, thì ông có cảm tưởng rằng có một cái
gì vĩnh hằng ở trong cuộc sống vốn
nhiều biến đổi.
Cụ Nguyễn Du có viết
trong bài "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh".
Lòng
nào lòng chẳng thiết tha
Cõi
âm là thế huống là cõi dương .
Ðời sống của chúng ta
thì mong mỏi cái gì mà vừa lòng, toại ý. Có thể đứng lại, và
hiện hữu mãi mãi và không bao giờ thay đổi,
nhưng mà thực tại thì không phải như
vậy. Bất kể đó
là cái đẹp của núi, cái đẹp của sông
hồ, hay là một vẻ đẹp dường như khó
có thể hủy hoại được của một viên
kim cương, thì điều đó nó sẽ không có ý
nghĩa dễ gì trên phương diện lâu dài, đối
với mỗi chúng ta. Bởi
vì một viên kim cương có tồn tại hàng triệu
triệu năm như vậy, nhưng mà bản thân của
chúng ta sống trong thế giới này, dù chúng ta sống
ở một nơi, một cái đẹp của sơn
thủy đã có mặt vài ba chục triệu năm thì
bản thân của chúng ta cũng không có hưởng nó
được quá một trăm năm, và " Chính thân
chẳng có lại cầu chi ai " có thể nói rằng
khi chúng ta nằm xuống trút hơi thở cuối cùng,
những gì của trần gian thì chúng ta trả lại cho
trần gian, và thưa quí vị lúc đó những thứ
đó trở thành vô nghĩa.
Có những khi cầm tờ
báo đọc buổi sáng, chúng tôi có cảm tưởng
rằng, những người họ đang tường
thuật về những phát minh mới trên phương
diện kỹ thuật, niềm lạc quan về nền
kinh tế trong tương lai, những tiện nghi và
sự giàu có của nhân loại.
Bên cạnh đó chúng ta cũng nghe những lời
tiên tri, hoàn toàn chắc thật, đó là trái đất chúng
ta đang ở đây, rồi một ngày kia, nó cũng
sẽ bị hủy hoại.
Trái đất còn bị hủy hoại, thì nói gì
đến núi đến sông, nói gì đến thân thể
của chúng ta.
Thưa quí vị, cái gì gọi
là lâu dài, miên viễn mãi mãi giống như những
điệu nhạc lập đi lập lại, những
nhạc nói về tình yêu, nó giống như những
giấc mơ bất tuyệt của loài người, thì
tất cả những thứ đó đều chỉ là
phù du, và bây giờ thật sự rất là khó để
chúng ta có thể đón nhận một ý tưởng, đó
là cái gì hữu sanh thì hữu diệt, hữu hình thì hữu
hoại, có tập hợp thì có tiêu tan.
Ðối với Ðức
Phật thì khi đề cập đến những cái mà
chúng ta gọi là hiện hữu trên thế gian này, thì
Ðức Thế Tôn Ngài dùng chữ sa'nkhaaraa, sa'nkhaaraa là
chỉ chung cho những gì thuộc về vật chất,
cũng như là về nội tâm, nói theo Atỳđàm
đó là danh pháp và sắc pháp, dù là danh pháp hay sắc pháp thì
tất cả những thứ đó nó đều là sự
hiện diện, sự hiện hữu của kết
cấu, nó đều là sự hiện hữu của
tập hợp do nhiều nhân, nhiều duyên mà hiện
hữu, và bởi vì nó được kết cấu
tập hợp, nó phải đi theo một định
luật ắt có và đủ, một định luật
bất di bất dịch là cái gì có tụ thì phải có tán,
cái gì có sanh thì phải có diệt, không có cái gì sanh lên do nhân
duyên mà nó lại không diệt hết. Bởi vì có nhân duyên để sanh, có nhân duyên
để tồn tại mà khi nhân duyên đó không còn
nữa, thì tất cả những thứ đó đều
bị tan biến.
Ở đây có hai bài học
rất là khó nuốt ở trong cuộc sống của chúng
ta, cuộc sống của chúng ta hầu như mọi
thứ đều quyết định một cách
độc đoán một chiều và từ một thứ
mà thôi, một cách rất là tầm thường, thì chúng ta
quan niệm rằng mọi thứ đều phải làm theo
ý của mình muốn : "tôi muốn cái này, tôi muốn cái
kia, và cuộc sống phải thế này, cuộc sống
phải thế kia ".
Chúng ta sống hầu như
nghĩ rằng, chính cái ý muốn của mình nó phải là
một ông vua, nó phải là một trung tâm quyền lực,
quyết định tất cả và dĩ nhiên chúng ta
hiểu rồi cái ý muốn đó nó có thể dự
phần vào việc biến đổi của cuộc
sống này, nhưng cuộc
sống này nó không phải hoàn toàn chi phối của ý
muốn của chúng ta, bây giờ chúng tôi có thể nói
với quí vị rằng những chiếc lá vàng của mùa
thu tại Gia Nã Ðại, nó rất đẹp, chúng tôi
cảm nhận được điều đó như là
cảm nhận một người khách từ xa
đến đây, nhưng mà bảo rằng ý muốn chúng
tôi khác hơn, chúng tôi không muốn nhìn màu ảm đạm
của trời thu, chúng tôi không muốn nhìn những
chiếc lá rụng xuống, thì điều đó không
thể được, là vì ý muốn của mình có giới
hạn, và sự tha thiết của con người dẫn
xa đến nữa, nếu mà cá nhân bất lực,"
lực bất tòng tâm ", thì ít nhất là quyến
thuộc, ít nhất là công tư của mình, ít nhất là
chủng tộc của mình, ít nhất là Quốc Gia của
mình, những thứ đó phải có một khả năng
điều trị để chiếm ngự thế
giới này và điều khiển thế giới này theo ý
của mình muốn.
Và rồi khi chúng ta thấy
rằng ngay cả nguồn máy công quyền cũng bất
lực trước những thay đổi, thì chúng ta
lại mơ về một thế giới khác đó là
một thượng đế toàn năng, một
thượng đế quyết định tất cả,
chúng ta không dám sống nhìn cuộc đời này, để
mà thấy rằng mỗi một pháp, mỗi một sự
vật nó có tự tánh riêng của nó và chúng ta sẽ rất
là sợ hãi để nhìn cuộc sống nó vốn không có
một ai, không có một thế lực nào và cũng không có
một cá thể nào có thể làm chủ tất cả.
Và chữ sa'nkhaaraa ở đây
rất khó tiêu hoá đối với một người bình
thường. Các Pháp sanh lên do
nhân do duyên tập hợp, chúng ta không có can đảm nhìn nhận
như vậy, trên phương diện lý luận, trên
phương diện ngôn ngữ, trên phương diện
thảo luận thì chúng ta có thể tạm nhận là như
vậy, nhưng mà tận ở trong lòng chúng ta không dám
nhận, bởi vì vậy con người luôn luôn mong
muốn cuộc sống nó phải diễn tiến, nó
phải hiện hữu, nó phải duy trì ở tại
một ý trí, ý trí của một cá nhân hay ý trí của
nguồn máy công quyền, hoặc là ý trí của thượng
đế, nhưng phải có một cái gì đó làm chủ
tất cả, chúng ta rất sợ hãi khi mọi việc
tự sanh và tự diệt.
Nhưng mà thưa quí vị,
cuộc đời này giống như một khu rừng,
chúng ta vào trong khu rừng môi sinh có những cây cao bóng mát,
chúng ta nhìn mỗi loại cây nó vươn lên từ mặt
đất, nó lớn lên già đi và gẫy đổ
xuống, để trở về lòng đất, tan
biến vào lòng đất, nó có tự tánh riêng của nó, khó
có thể nhìn thấy một khu rừng hiện hữu mà
nó do một người nào quyết định tất
cả, rất khó.
Cuộc sống của chúng ta
đều vì ăn mặc ngủ nghĩ, từ những
việc giải trí đến những việc văn hoá
chính trị, xã hội v.v... tất cả nó đều
bị chi phối bởi nhiều nhân và nhiều duyên,
bởi vì vậy Đức Phật Ngài dậy cho chúng ta
biết rằng sự hiện hữu của cuộc
đời đó gọi là sa'nkhaaraa là thượng vi, là
pháp hành, là sự tập hợp, là sự kết
cấu. Và kết cấu này,
đã gọi là kết cấu thì nó không có một đơn
vị duy nhất, nó cũng không có một cá thể làm
chủ tất cả, mà tất cả đều có tự
tánh riêng của nó, là bởi vì có tự tánh riêng của nó
nên sự quyết định hết sức là khó khăn.
Nếu chúng ta dọn một
bữa tiệc và chúng ta là chủ nhà, thì thưa quí vị
chúng ta có một số quyền kiểm soát nhất
định, ai ngồi chỗ nào, món ăn nào phải
dọn lên trước và cách trang trí ra sao, nhưng mà
nếu chúng ta đi vào một bữa chợ đời,
một buổi chợ phiên mà chúng ta thấy ở tại
Việt Nam chẳng hạn, chúng tôi không biết ngày hôm nay
người ta còn có những nhà lồng chợ, là những
chợ mà buổi sáng dân ở trong làng, trong xóm, kẻ thì
nải chuối, kẻ thì buồng cau, đôi lúc
người ta chỉ có mấy trái dừa, người ta
cũng đem ra chợ ngồi xuống. Ở trong chợ đời mênh
mông đó, chúng ta không quyền kiểm soát, chúng ta có rất
ít thứ kiểm soát, chúng ta chỉ có nhìn, chỉ có quan
sát, nhưng mà gọi là làm chủ tất cả thì chúng ta
không làm chủ là vì nó là một cuộc chợ. Khi mà nói là một cuộc chợ
thì chuyện đến và đi của mỗi người
đều quyết định lấy, và hình ảnh toàn
diện của nó không thể nào là một hình ảnh
được quyết định bởi bất cứ
ai, và nó là do sự kết cấu của rất nhiều
yếu tố, thì như vậy cái quan niệm đầu
tiên của Đạo Phật, nói rằng sự hiện
hữu của chúng ta là sự hiện hữu của pháp
hành, sự hiện hữu của hữu vi, sự hiện
hữu của pháp tập hợp, của những pháp do
nhân do duyên và có nhiều cái tự tánh và có nhiều pháp,
mỗi pháp có tự tánh riêng của nó.
và bài học thứ hai chúng ta
cũng phải học và rất khó tiêu hóa đó là cái gì sanh
lên do nhân do duyên thì cái đó nó phải có chung cuộc
của nó, cái nhân cái duyên nó kết thúc . Lấy một thí dụ đơn giản
như vầy, chúng ta thắp nên một ngọn nến,
ngọn nến đó cháy được là nhờ có sáp,
nhờ có tim, nhưng nhờ có sáp và tim nó là yếu tố
quyết định cho ngọn nến cháy thì sáp và tim
đó nó không phải là thứ gì vĩnh hằng, nó không
phải là thứ gì bất diệt, nó bị mòn mỏi theo
thời gian và khi sáp với tim không còn nữa thì ngọn
lửa cũng chấm dứt, như vậy ngọn
lửa hiện hữu là nhờ sáp với tim, và ngọn
lửa không hiện hữu nữa thì cũng bị chi phối
điều kiện của sáp và tim.
Chúng ta sanh ra ở trong
kiếp người, chỉ đơn thuần là do sanh
nghiệp và thiện nghiệp chúng ta hiện hữu,
nhưng mà thiện nghiệp đó cũng không thể nào là
một năng lực bất tận, nó phải có cái
chấm dứt của nó, và thưa quí vị bởi vậy
cái câu " Hữu hình hữu hoại, hữu sanh hữu
diệt ", cái gì tụ thì phải có táng nó không phải
là điều mà chúng ta dễ dàng nhận thức
được.
Khi Ngài Xá Lợi Phất
bấy giờ còn là một cư sĩ Upatisya, gặp
được Tôn Giả Asvajit đang đi khất
thực trên đường, nhìn phong thái của vị SaMôn
này, Upatisya đã cảm thấy có một cái gì siêu việt,
có cái gì vượt thoát ở trong khuôn mặt, ở trong
cử chỉ và ở trong cái nhìn từ trong ánh mắt trang
thực trong sáng.
và Upatisya đã đến
chắp tay hỏi Ngài Asvajit.
- Ngài là ai, và học
đạo với Thầy nào, và có thể nói cho con biết
Ngài đã học những gì ở vị Đạo Sư
đó.
Ngài Asvajit mặc dầu lúc
đang đi khuất thực, và đã trở về
ngồi một chỗ thọ thực đã xong, Ngài
thấy vị thiện nam này kiên nhẫn đi theo mình
từ lúc đi khuất thực cho đến bây giờ
sau giờ thọ thực xong.
Ngài Asvajit nói với Upatisya
rằng:
- Bần đạo xuất
gia với Đức Phật, và bởi vì xuất gia không
bao lâu, nên cái hiểu thì không có nhiều, nhưng có thể
tóm tắt một câu rằng "chư phục tùng duyên
sinh, diệt phục tùng duyên diệt, ngã Phật
Đạo SaMôn, thường tác như thị
thuyết" nghĩa là "Pháp gì do nhân do duyên mà sinhm thì
pháp đó cũng do nhân do duyên mà diệt, và Đức
Phật là Đại Samôn, Ngài thường thuyết
giảng như vậy".
Câu đó thưa quí vị
đối với nhiều người coi nó bình
thường lắm, nhưng đối với Ngài Upatisya
về sau trở thành Tôn Giả Xá Lợi Phất, đã
mở ra một vùng trời cao rộng, bởi vì cái gì có
nhân sanh ắt có diệt là điều ít có khi chúng ta
nghĩ đến ở trong đời sống, chúng ta
chỉ muốn tạo thêm, và cái gì chúng ta tạo nên thì chúng
ta chỉ muốn nó tồn tại và tồn tại vĩnh
viễn hầu như chúng ta sẽ ăn đời ở
kiếp với những thứ đó, nhưng mà thưa quí
vị tất cả nó đều đi theo một
định luật, đó là định luật vô
thường. Chúng ta không
thể nào tránh được chuyện đó.
Có một Phật tử ở
trong room Diệu Pháp này, đã tham dự room Diệu Pháp
đã trên ba tháng qua. Và đã tâm sự với chúng tôi
rằng : mỗi buổi sáng vị ấy chỉ muốn
thức dậy và biết rằng ở trong room Diệu
Pháp đang có sinh hoạt thì trong lòng đã cảm thấy
vui lắm. Và vị ấy
hỏi chúng tôi, vậy
chứ chúng ta có duy trì được room Diệu Pháp mãi mãi
không ?.
Thì chúng tôi có cười và nói
với đạo hữu đó rằng:
- Không có cái gì mãi mãi cả,
nếu có cái nhân, cái duyên gì mà nó duy trì được room
Diệu Pháp này, thì nhân duyên đó nó đang là một
chất liệu để cho room tồn tại, và khi
chất liệu đó hết thì mỗi thứ chấm
dứt.
Chúng ta có nhiều lý do lắm,
có thể một lúc nào đó người ta sẽ không tha
thiết với những đề tài, không tha thiết
với những chương trình paltalk, hoặc các vị
Giảng Sư không còn có điều kiện để làm
việc trong room nữa, thì tự nhiên cái room phải
kết thúc. Chúng ta biết rằng cái gì mà hiện hữu
là vốn dĩ nó hiện hữu dựa trên một số
điều kiện nhất định, khi điều
kiện nhất định đó không còn nữa thì
phải chấm dứt.
Nhưng chúng ta dù có chấp nhận như vậy,
nhưng chúng ta vẫn né tránh, chúng ta nghĩ rằng: "
À, có những thứ chợt đến chợt đi, có
những thứ vĩnh hằng, nó có những thứ mãi
mãi".
Thậm chí khi chúng ta thấy
rằng người nằm xuống trút hơi thở
cuối cùng, và xác thân của họ đã trở về thành một khúc
gỗ xây dựng, xác thân của họ bây giờ đã
chứng tỏ rằng cái gì họ xây dựng trên thể
xác đó, dù là oanh liệt, dù đẹp đẽ, dù có
một quá khứ huy hoàng đi nữa thì thể xác đó
bây giờ không còn ý nghĩa nữa, thường thì chúng ta
chấp nhận, phải nghĩ rằng phải có một
cái gì đó, đó là linh hồn, đó là tâm linh, đó là
" sống là thể xác, chết là tinh anh ". Cái tinh anh phải mãi mãi tồn
tại, tại sao chúng ta cần có một linh hồn,
tại sao chúng ta cần có một tinh anh, và thật sự
chúng ta không có can đảm mà nhận rằng tất
cả mọi thứ đều phải thay đổi,
thân cũng vậy, tâm cũng vậy, danh pháp cũng
vậy, sắc pháp cũng vậy, tất cả mọi
thứ đều phải thay đổi, và hễ nó
tồn tại theo nhân duyên thì nó phải thay đổi.
Và thưa quí vị bây giờ
lại có một câu kệ ngôn khác rất là quan trọng:
Tuệ quán thấy vậy, hay là quán sát với trí tuệ.
Có bao nhiêu lần chúng ta nhìn thấy sự thay đổi
trong đời sống này, nhiều lần lắm. Chúng ta đã nhìn thấy sự
thay đổi từ thưở còn tấm bé, chúng ta nhìn
thấy sự thay đổi của những lúc ăn
uống hỷ hả cho đến lúc bụng đó cào,
chúng ta nhìn thấy sự thay đổi của những
người thân của chúng ta, rời khỏi chúng ta, chúng
ta nhìn thấy sự thay đổi của thể chế,
sự thay đổi của một dân tộc, sự thay
đổi của một trào lưu, sự thay đổi
của khuynh hướng.
Nói về đất
nước Việt Nam thôi, một người nào bốn
mươi tuổi, sống bốn mươi năm qua
nhìn lại đất nước Việt Nam thì có trăm
ngàn thứ thay đổi.
Nhưng mà điều khác biệt giữa đạo
và cái nằm ngoài đạo lý, đó là người
hiểu đạo rồi họ nhìn sự vô thường
bằng trí tuệ, nhưng đối với chúng ta không
hiểu đạo thì chúng ta sẽ nhìn sự vô
thường bằng một tâm tư ảm đạm,
bằng những giọt nước mắt, bằng
nỗi bi lụy, bằng nỗi bi ai.
Và phải nói rằng khi
Đức Phật dạy rằng với tuệ quán
thấy vậy đó là Ngài mở ra cả một chân
trời mới, chân trời đó mà Ngài dạy rằng cái
nhìn của trí tuệ nó có khác với cái nhìn của bình
thường chúng ta, chúng ta nhìn sự vật, thì thưa qúi
vị phần lớn đến từ cảm xúc,
đến từ tinh thần vị ngã, và đến từ
sự chấp thủ, nó phải như vậy, nó không
thế thứ khác được. Lấy ví dụ chúng ta
có một người thân, rất thân, rồi bây giờ người
đó bỗng dưng không còn thân với chúng ta nữa,
người đó có thể thân thiết với một
người khác, người đó có thể thay
đổi cái nhìn về chúng ta, và rồi chúng ta thật
buồn, buồn lắm và uất hận, và tức tối
nghĩ rằng ; tại sao nó
lại như vậy, đáng lẽ nó phải như
thế này, nó phải như thế kia, mà tại sao có
chuyện thay đổi, sự thay đổi đó có
thể là sự thay đổi của tình yêu, sự thay
đổi những lời cam kết, sự thay
đổi trong cách đối sử. Nhưng cho dù đó là sự thay đổi gì,
chúng ta cũng xác nhận rằng tâm tư của con
người vốn là thay đổi, người
đời không thay đổi thì tâm tư của mình
cũng thay đổi và trong sự thay đổi đó,
thì nó là một điều rất là tự nhiên. Nếu bảo rằng lúc nào
cũng như vậy, thì thưa quí vị đó là vấn
đề của chúng ta, bởi vì chúng ta lúc nào chúng ta đòi
hỏi sự việc nó phải tiếp tục như
vậy nó không được thay đổi, và Đức
Phật gọi cái nhìn đó không phải cái nhìn của trí
tuệ, cái nhìn của trí tuệ là nhìn một cách toàn
diện, nhìn để thấy rằng: à, nó phải như
vậy.
Chúng ta đọc rất
nhiều tiểu thuyết, nhiều chuyện phim mà chúng ta
được xem, nói về những ông cha, bà mẹ,
rất thương con, sao không thương con
được, đứa con nó đã chào đời ở
trong niềm vui của mình, đứa con nó đã lớn
lên từ tấm bé ở trong vòng tay thân yêu bảo bọc
của mình, rồi có một ngày đứa con đó
lại thay đổi hoàn toàn cái quan hệ với gia
đình, nó không còn gắng bó với cha, gắng bó với
mẹ nữa, đứa con đó bây giờ lại hướng
vọng về sống với một người khác, cha
mẹ cho dù đã có tuổi, thường thường là
tuổi trung niên rồi, nhưng mà cũng không dễ dàng
để suy xét, không phải dễ dàng để đón
nhận là đứa con có thể rời vòng tay bảo
bọc của mình, đứa con có thể sống ngoài tình
thương của mình, và tình thương của mình bây
giờ không còn quan trọng nữa, vì vậy có những ông
cha, có những bà mẹ vô cùng khổ sở, khổ sở
vì thấy đứa con mình thay đổi, nhưng mà
nếu khi mà chúng ta nhìn sự việc bằng trí tuệ thì
chúng ta nhìn khác, chúng ta nhìn bằng trí tuệ thì chúng ta
sẽ không trách móc, sẽ không thống trách, mà chúng ta
chỉ thấy được một sự việc,
đó là nó phải như vậy.
Vì vậy câu này là một câu
hết sức là quan trọng là " với tuệ quán
thấy vậy ", chúng ta đã thấy cuộc
đời thay đổi bằng nước mắt, chúng
ta đã thấy cuộc đời thay đổi bằng
sự vô minh, chúng ta thấy cuộc đời thay
đổi bằng sự giận dữ của mình, nhưng
mà Đức Phật mời gọi chúng ta một lần
nào đó nhìn thấy thay đổi đó bằng trì
tuệ, nhìn nó bằng trí tuệ nó có khác hơn là chúng ta
nhìn với phàm tâm, nhìn nó bằng trí tuệ nó khác hơn là
với sự đòi hỏi, với sự đinh ninh,
với sự kỳ vọng là nó phải như thế này,
phải như thế khác.
Và thưa quí vị, có một
câu thứ ba là một câu rất đẹp của kinh
điển, " nhờ vậy yểm ly khổ ". Chữ " yểm ly "
thật ra nó có nghĩa là nhàm chán (disappointment), cái gì đó
chúng ta không bám vưí chúng ta không có tha thiết nữa, nhưng
chúng tôi không dịch chữ nhàm chán là như vậy, chữ
chán có khi nó nghĩa là tiêu cực, như mình chán nản cái
gì đó rồi mình bực bội , nhưng mà đúng cái nghĩ là lúc bấy
giờ cảm thấy, mình có thể dửng dưng
với nó. Chúng ta có thể
dửng dưng, có thể không có dính mắc vào điều
đó nữa, thật là lạ, chúng ta lớn lên ở trong
cuộc đời này ai cũng sợ đau khổ,
nhưng mà chúng ta lại không dửng dưng được
với sự đau khổ, cũng như ngay cả chúng
ta rất ghét kẻ thù, nhưng mà chúng ta cũng không
dửng dưng được kẻ thù, chúng ta làm như
làm mặt lạ với kẻ thù, nhưng chúng ta không
tự tại với kẻ thù, kẻ thù thấp thoáng
ở đâu đó, thì thưa quí vị chúng ta giẫy
nảy, chúng ta không có tỉnh táo được, chúng ta
không tự nhiên được, và còn tệ hại hơn
nữa, là cho dù chúng ta khổ đến đâu đi
nữa thì chúng ta vẫn lao đầu vào đó, chúng ta ôm
chầm lấy nó, chúng ta như là một người
vắt nước cốt dừa, cố gắng
để tìm cái gì đó, ở trong nước cốt
dừa, mà cái gì đó khả dĩ chúng ta nghĩ
rằng " đặng là
được cuộc sống."
Vì buổi giảng vào ngày
thứ bảy, paltalk bị gián đoạn nên buổi
giảng đến đây chấm dứt, Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Minh Hạnh biên soạn