HÂN HOAN ĐÓN CHÀO
Câu Kệ Ngôn 268 & 269 - Kinh Pháp Cú, ngày 27 tháng 10, 2003
Kinh
Pháp Cú kệ ngôn 268 & 269 - Phẩm Pháp Trụ
(Dhammatthavagga)
Bản
Việt do TT Giác Đẳng dịch.
Có Những
Im Lặng Không Phải Là Vàng
Im lặng nhưng thiếu trí
Không Phải Bậc thánh hiền
Như người
cầm cán cân
Trí gỉa chọn điều thiện
Từ bỏ các ác hạnh
Chính là bậc mâu ni
Ai biết hai
thế giới
Mới đúng là ẩn sĩ
TT Trí Siêu giảng : Kính bạch Chư Tôn Đức,
thưa quí Phật tử, hôm nay chúng ta sẽ thảo luận
hai câu kệ ngôn 268 và 269, trong bài kệ này cũng có một
nội dung và y' kiến cũng giống như hai câu ngày hôm
qua chúng ta đă được nghe TT Bửu Chánh thuyết
giảng, chỉ có khác về
danh từ, nhưng về cách thức tri`nh bày và y' chính thi` cũng
giống như vậy, ngày hôm qua Đức Phật đă minh
định y' nghĩa Tỷ Kheo, hôm nay hai bài kệ này minh
định y' nghĩa bậc Mâu Ni hay là bậc hiền
thánh.
Thực ra danh từ Mâu Ni chúng
ta dịch có rất nhiều nghĩa, chúng ta khó xác định
được một y' nghĩa nào xác với danh từ Mâu
Ni để chúng ta sử dụng riêng biệt, cho nên chúng
ta phải phiên âm là chữ Mâu Ni mà thôi, bởi vi` tiếng
muni trong tiếng phạn nói một cách rộng răi thi` nó có
đến ba y' nghĩa.
-
Y' nghĩa thứ nhất chữ muni là bậc trí tuệ
, Sakya-Muni là Thích Ca Mâu Ni, là danh hiệu của Đức Phật,
bậc Đạo Sư của chúng ta, thi` chữ Sakya-Muni tức
là bậc hiền trí của do`ng Thích Ca.
-
Y' nghĩa thứ hai của chữ muni ở đây
được dịch là bậc hiền thánh, tức là bậc
đă thanh tịnh được thân khẩu y' đă tự
chế, tự điều cái sở hành của mi`nh như vậy
được gọi là muni.
- Y'
nghĩa thứ ba của chữ muni được dịch
là bậc Tu Sĩ, tức là một vị khổ lụy
theo một pháp môn tu tập để trở thành một
con người hoàn thiện, như vậy gọi là bậc
muni.
Ở đây trong cả ba y'
nghĩa này, chúng ta hăy chọn lấy một y' nghĩa để
chúng ta đưa vào đề tài thuyết giảng trong
ngày hôm nay.
Ho`a Thượng Thích Minh Châu dịch
hai bài kệ này trong bài kinh Pháp Cú, Ho`a Thượng Ngài dịch
chữ muni là ẩn sĩ, nhưng thực ra chữ Pali, chữ
ẩn sĩ có biệt danh khác, ẩn sĩ tức là ẩn
tu ở trong nơi tĩnh lặng.
Co`n chữ muni ở trong trường hợp này nó bao
hàm nghĩa là bậc tu tập thuần hóa thân khẩu y', là
bậc có trí tuệ, như vậy thi` được gọi
là bậc tu sĩ nói chung. Thật
sự chúng ta rất khó định nghĩa được
một y' nghĩa nhất định cho danh từ này, để
chúng ta sử dụng ở đây, nhưng trong ba y' nghĩa
chúng ta có thể dựa vào duyên sự của hai bài kệ,
tức là tích chuyện nguyên nhân mà Đức Thế Tôn đă vi`
đó thuyết lên hai bài kệ này, chúng ta sẽ thấy
được y' nghĩa của danh từ muni.
Ở đây khi các vị Tỳ
kheo được Đức Phật cho phép mỗi khi thọ
thực tại nhà cư sĩ , những người cư
sĩ họ mời đến để cúng dường,
các vị Tỳ kheo được phép phúc chúc phước
báu, hoặc thuyết pháp cho họ, để cho thí chủ
càng hoan hỷ với sự cúng dường của mi`nh, và
khi các vị Tỳ kheo sau này mỗi lần đi thọ thực
do thí chủ cúng dường trai Tăng thi` các vị Tỳ
kheo dành thời gian để phúc chúc phước báu hoặc
để thuyết pháp cho người cư sĩ hoan hỷ. Trong khi đó các ngoại đạo
sư đi đến thọ thực nơi nhà của
cư sĩ, khi được mời thi` họ chỉ im lặng
và khi đó họ chỉ trích :
- Các vị Tỳ kheo là những
vị được nói rằng được tu tập
mà các vị Tỳ kheo lại nói nhiều quá, hay là tụng
kinh phúc chúc phước báu cho cư sĩ, làm như vậy không thích đáng, hăy làm như chúng
ta giữ im lặng, như vậy mới được gọi
là thích đáng, mới được gọi là bậc chân
tu.
Khi câu chuyện này được
đến tai Đức Phật, Đức Thế Tôn đă khẳng
định một y' nghĩa được gọi là bậc
chân tu (muni) ở đây không phải
là một người giữ im lặng. Trong vấn đề thứ nhất
này chúng ta cần phải hiểu rằng có những người
giữ im lặng vi` do hội chúng dốt nát không biết
nói gi` cho nên họ mới im lặng. Im lặng như ngu si đâu
được gọi tu sĩ, tức là đâu phải tu
sĩ, co`n hạng người giữ im lặng do vị
đó nhận thức được rằng lúc nào nên nói
và lúc nào không nên nói, lúc nào hợp thời để nói và lúc
nào phi thời không nên nói, có trí tuệ nhận xét được
như vậy, phân biệt được như vậy,
cho nên hạng người đó đôi lúc họ cũng giữ
im lặng. Nhưng sự giữ
im lặng của những vị đó không phải giữ
im lặng vi` ngu si, do vậy cho nên đối với vị
này được gọi là bậc chân tu.
Cũng như chúng ta biết
có những hạng người nói nhiều, nhưng nói nhiều
không nhằm y' nghĩa, không có phơi bày chân ly' và không có nghĩa
ly' sâu sắc trong lời nói, như vậy cũng không
đáng gọi bậc chân tu, co`n những vị nói nhiều
nói đúng pháp, nói có lợi ích như vậy lời nói
đó thật cao quí, và những vị này cũng rất xứng
đáng được gọi là bậc chân tu, như vậy
chúng ta có thể kết luận dù im lặng hay nói nhiều
nhưng là bậc có trí tuệ, thi` như vậy đáng
được gọi là bậc muni, đáng được
gọi là bậc ẩn sĩ, hay là bậc tu sĩ, hay là bậc
hiền trí , bậc hiền thánh có trí tuệ.
Nếu như nói nhiều,
hoặc dù im lặng nhưng trong trạng thái nói nhiều,
trạng thái im lặng có sự ngu si dốt nát, v́ rằng
không hiểu biết thi` đối với người
đó, dầu im lặng hay nói
thi` cũng vẫn là được xem như không phải bậc
muni. Bậc muni ở đây
chúng ta cần phải hiểu là chỉ cho bậc có trí tuệ,
bậc tu hành tốt đẹp.
Ở đây trong bài kệ
thứ hai, bài kệ 268, Phật đă khẳng định
một điều mà chúng ta có thể dựa vào đó chúng
ta dịch từ muni là vị tu sĩ, bậc trí tuệ hay
là bậc hiền trí , bậc hiền thánh.
Ở
đây Đức Phật dạy rằng :
Như người cầm cán cân
Bậc Trí chọn điều thiện
Yo ca tula.m-va paggayha
Varamaadaaya
pa.n.dito.
Đức Phật Ngài dạy
như người cầm cán cân là như thế nào, ở
đây thưa quí vị những người buôn bán, khi họ
cầm cán cân để họ cân hàng hóa như trái cây chẳng
hạn, họ sẽ lựa chọn trái cây và để vào
cái cân để họ cân, và họ có thể thêm hoặc bớt để làm cho cân ngang bằng,
nó không giác và không non, không thiếu và không dư, thi` như vậy
được gọi là người cầm cán cân. Cũng vậy đối với
bậc trí, Ngài sẽ lựa chọn giải pháp tối
ưu khi mà sử sự . Ở
đây chữ vara không hẳn là điều thiện, vara có
nghĩa là sự cao quí, ở đây chúng tôi dịch là
điều tối ưu, trong khi chúng ta tiếp xúc với
người khác, lời nói nào đem lại sự an vui cho
mi`nh và đem lại sự an vui cho người khác, bậc
trí sẽ chọn lời nói đó như vậy sự chọn
lời nói này được gọi là sự lựa chọn
tối ưu, chứ không phải tất cả lời lẽ
hiểu biết đều phải nói ra ở đây, không
phải như vậy.
Bậc trí biết cân nhắc,
biết lượng xét điều nào nên nói và điều
nào không nên nói, gặp những điều nên nói thi` nói, co`n gặp
những điều suy sét thấy không nên nói thi` im lặng,
như vậy thi` sự im lặng hay không im lặng của
bậc trí, tức là đă có sự chủ y', đă có sự
lựa chọn, bởi thế cho nên một người biết
cách im lặng hay biết cách nói thi` bậc đó mới gọi
là muni (mâu ni) là bậc hiền tri', bậc hiền thánh, bậc
có trí tuệ. C̣n những
người khác cho dù họ có giữ im lặng đi nữa,
nhưng trong sự giữ im lặng đó, do sự ngu dốt
không biết nói gi`, không biết phải làm gi`, không biết
phải tri`nh bày gi` cho hội chúng nghe thi` họ giữ im lặng,
sự im lặng của họ là sự im lặng dốt
nát do đó họ không đáng được gọi bậc
muni là bậc hiền thánh.
Ở đây chúng ta cũng nên
hiểu trong câu kệ 268
như vậy.
Trong bài kệ 269 Đức
Phật Ngài tŕnh bày những đặc tánh đáng gọi
là bậc ẩn sĩ, đáng gọi bậc mâu ni, là bậc
hiền thánh hay là bậc trí tuệ tu tập. Đức Phật Ngài nêu nên hai
pháp.
- Pháp thứ nhất được
gọi bậc muni, là người thật sự từ bỏ
các ác pháp (Paapaani parivajjeti) thực ra chữ parivajjeti này nếu
dịch theo nghĩa từ, thi` chúng ta phải dịch là
tránh né, từ khướt, nếu dịch là từ bỏ
thi` nó trùng lập với y' nghĩa của động từ
pacahati, động từ pacahati có nghĩa từ bỏ,
thi` ở đây có những trường hợp mà cần phải
né tránh, y' nghĩa này rộng lắm, khi chúng ta nói tránh điều
ác, nó có hai nghĩa.
- Y' nghĩa thứ nhất
ác pháp nào sanh khởi, mi`nh ti`m cách dập tắt nó đi,
đừng để sanh khởi, không chấp nhận
nó
thi` như vậy được gọi là né tránh
điều ác.
- Y' nghĩa thứ hai,
sự né tránh điều ác có nghĩa là tránh né những
nguyên nhân, những sự kiện có thể khiến cho ác bất
thiện pháp sanh khởi, chẳng hạn như khi chúng ta
biết ở chỗ đó có thú dữ : như voi dữ,
trâu dữ, hoặc cọp dữ, hoặc người hung
ác, để tránh sự phiền
phức đáng tiếc xảy ra cho mi`nh, trong trường hợp đó nên
né tránh, đừng có đụng chạm đến, đừng
có đối mặt với những cái đó.
Bởi vậy trong bài kinh
Nhất Thiết Lậu Hoặc (Sabbasavasuttam) trong Trung Bộ
Kinh, bài kinh thứ hai thi` chúng ta thấy rơ rằng:
- Trong các pháp lậu hoặc,
có một số lậu hoặc cần phải đoạn
trừ bằng sự né tránh, tức là có những sự kiện
sắp xảy ra, mà chúng ta biết rơ điều đó sẽ
làm cho phiền năo lậu hoặc sanh khởi , hay chỉ
cho điều ác sanh khởi thi` trong trường hợp
đó chúng ta phải tránh né.
Cũng giống như một
người muốn có được sức khỏe, không
có sự bệnh hoạn thi` họ cần phải né tránh những
thức ăn, thức uống không hợp với thể tạng
chứ không phải đợi đến khi ngă bệnh rồi
lúc bấy giờ mới lo chữa trị, có đôi lúc nó cũng
đă muộn. Cũng như
thế đối với một người tu tập , cần
phải biết né tránh những gi` có thể làm cho phiền
năo sanh khởi. Điều này không có nghĩa người
Phật tử chúng ta tu tập, là chúng ta chạy trốn tất
cả những sự kiện xảy ra trong đời
thường. Nhưng ở đây có nghĩa những cái gi`
chúng ta không thể giải được, nếu chúng ta
đương đầu thi` nó phát sanh lên phiền năo, phiền
toái, như vậy càng trở ngại cho việc tu tiến
của chúng ta hơn nữa, cho nên chúng ta cần phải né
tránh, cũng giống như một
người muốn giữ được sức khỏe
của mi`nh cho tốt, họ phải né tránh việc ăn
không thích hợp, việc uống không thích hợp, nếu họ
biết kiêng tránh như vậy thi` họ sẽ không khổ
đau do bệnh tật.
Trong trường hợp né
tránh, chúng ta cũng phải biết một người né
tránh những trách nhiệm thuộc về thiện pháp,
đó là xấu. Co`n nếu
như một người biết né tránh truờng hợp
nào có thể xảy ra ác bất thiện pháp, thi` trường
hợp đó tốt, không phải là xấu.
Khi một người bị
nghiện rượu sau một thời gian họ cai nghiện
được, không uống rượu được,
nhưng nếu như họ lân la thân thiện với bợm
rượu, với bè bạn hay xúi họ uống rượu,
họ thân cận như vậy chắc chắn họ không
thể kiêng cử rượu, nhưng nếu họ biết
né tránh có nghĩa là họ có sự chủ y', chỉ chơi
với những bạn nào không có say sưa chè chén, và tránh mặt
không tiếp xúc, không gặp gỡ thường xuyên với
những người bạn hay rủ rê đi uống
rượu, trong trường hợp đó là sự né
tránh, chúng ta phải biết rằng đây là vấn đề
hết sức tốt đẹp.
Việc tu tập của chúng ta không phải đợi
đến lúc phiền năo phát sanh rồi chúng ta mới
đoạn trừ, cũng như chúng ta không phải đợi
đến lúc chúng ta ngă bệnh rồi chúng ta mới đi
chữa trị.
Trong đời sống hàng
ngày của chúng ta những phiền năo nào chưa sanh khởi,
và nó sẽ có cơ hội sanh khởi trong tương lai,
chúng ta thấy rơ nguyên nhân sanh khởi đó, ngay từ buổi
đầu ở góc độ này chúng ta cần phải né
tránh nó đi, c̣n như đối với thiện pháp, những
phận sự, những trách nhiệm thi` điều này
chúng ta không cần phải né tránh, chúng ta vẫn
đương đầu để làm, để thực
hiện thi` như vậy thưa quí vị. Đối với
ác pháp chúng ta cần phải né tránh, vi` ác pháp coi như là những
pháp bất thiện, những pháp đưa đến sự
tai hại.
Có những người quan
niệm rằng nếu không đối đầu với
phiền năo thi` làm sao có thể giác ngộ được, họ
cho rằng phiền năo tức cảnh bồ đề, họ
nói như thế họ không nghĩ đến chiều sâu
và y' nghĩa thật của câu này : "Phiền năo tức
bồ đề" ở
đây tức là những cảnh khổ đau, phiền lụy,
những cảnh khổ đau phiền lụy nếu chúng
ta biết khéo tác y', khi chúng ta đối đầu với
nó, tự nhiên chính đó là cảnh đối tượng
để giúp cho phát triển tâm thiện hay phát triển sự tu tập. Co`n khi nói đến tất cả
sự phiền năo đều là cảnh của bồ đề,
tức là cảnh của sự giác ngộ, rồi chúng ta
đi ti`m kiếm nó, thi` chắc chắn đây là một
điều không tốt đẹp, nó sẽ đưa
đến sự tai hại cho chúng ta. Bởi vậy cho nên né tránh các ác
pháp, người biết né tránh các ác pháp như vậy mới
đáng gọi là bậc mâu ni, hay là bậc ẩn sĩ .
Điều thứ hai Đức
Phật giới thiệu với chúng ta trong bài kệ 289
này, được gọi là bậc ẩn sĩ tức là
ai hiểu được cả hai đời thi` như vậy
được gọi là bậc ẩn sĩ, chúng ta thấy
chữ munati có nghĩa là một sự hiểu biết, một
sự thông suốt bởi vậy cho nên ở trong bài kệ
268 chúng ta thấy có từ munena muni hoti và ở dưới
này khi đề cập đến Yo munaati ubho loke thi` trong
trường hợp này chúng ta cần phải so sánh giữa
hai từ đó,chử munaati tức là sự hiểu biết,
sự thông suốt, và như thế nào được gọi
là thông suốt hai đời, hiểu được hai
đời. Nếu chúng ta nghĩ
rằng biết đời này biết cả đời vị
lai nữa, th́ chỉ có các nhà tiên tri mới có thể biết
hoặc các vị đă chứng đắc được
thiên nhăn thông, hay là sanh tử thông thi` mới biết
được đời sau, c̣n như thường phàm
phu của mi`nh làm sao có thể biết được.
Nhưng trong y' nghĩa này chúng
ta lại có vấn đề khác, thế nào gọi là biết
cả hai đời, hiểu cả hai đời tức
là hiểu sự lợi ích của đời hiện tại
và hiểu được và lợi ích của đời
tương lai . Sự lợi
ích của đời hiện tại tức là người
cử sĩ phải biết rơ trong đời sống hiện
tại phải muốn được sự an lạc, muốn
được sự lợi ích thi` phải tháo vát trong nghề
nghiệp, phải biết gi`n giữ những gi` đă có
đời sống thăng bằng và phải làm thân thiện
với những người bạn
tốt, một người mà hiểu được
như vậy, thấy được như vậy, biết
được như vậy, phải áp dụng như vậy
trong đời sống này thi` người đó biết rơ
đời hiện tại, tức là biết rơ lợi ích
hiện tại, c̣n như một người họ an trú
vào đức tin vào giới hạnh, vào hạnh bố thí,
hoặc trí tuệ th́ như vậy người đó
được gọi là làm lợi ích trong tương lai,
chính Đức Phật Ngài đă dạy bốn điều
lợi ích hiện tại và bốn điều lợi ích
tương lai.
Ở đây thưa quí vị,
khi chúng ta biết được lợi ích trong đời
hiện tại và lợi ích trong đời tương lai
thi` chúng ta có thể thực hiện những thiện pháp
thích hợp và chúng ta biết cách cư sử trong đời
sống hàng ngày để cho thích hợp đem lại sự
an vui lợi ích cho mi`nh trong đời hiện tại, khi
chúng ta có trí tuệ chúng ta thấy rơ muốn có được
lợi ích tương lai thi` phải tạo nhiều công
đức phước báu, như là có đức tin, có tŕ
giới v.v...biết rơ như thế đó, được
xem như chúng ta biết lợi ích trong tương lai.
Một mặt khác nữa tức
là lợi ích trong tương lai,
cũng ám chỉ cho quả vị giải thoát, quả
vị niết bàn, bởi vi` ngay trong hiện tại nếu
chúng ta chưa chứng đắc được tầng
thánh nào hay chưa chứng đắc được
thượng pháp , thi` ở đây mục đích giải
thoát cũng là cái đích mà chúng ta muốn đạt đến
trong tương lai, khi chúng ta muốn có được sự
lợi ích để đạt đến đích
tương lai, tức là sự giải thoát thi` chúng ta phải
hành thiện pháp ngay trong hiện tại, tương ứng
với hạnh nghiệp để đưa đến sự
giải thoát, như vậy thi` đối với một
người mà biết lợi ích trong hiện tại và biết
rơ lợi ích trong tương lai như thế mới
được gọi là bậc ẩn sĩ, gọi là bậc
mâu ni, tức là bậc tu sĩ hay là bậc trí giả, hoặc
gọi là bậc hiền thánh.
Thật sự cả hai bài kệ
này, khi chúng ta nói đến y' nghĩa Đức Phật
Ngài đă minh định về danh từ gọi là mâu ni,
điều này cũng không phải là khó đối với
chúng ta, khi Đức Thế Tôn Ngài xuất hiện ở
đời gần như Ngài đă minh định lại
những y' nghĩa từ ngày xưa ở bối cảnh Ấn
Độ, người ta thường xử dụng, ở
đây Đức Phật Ngài chỉ minh định lại
y' nghĩa thôi, Ngài vẫn sử dụng lại danh từ
đó, chẳng hạn như danh từ Tỳ kheo (bhikkhu)
mà ngày hôm qua chúng ta nghe TT Bửu Chánh thuyết, thi` danh từ
Tỳ kheo đó thật ra không phải chỉ có ở trong
Phật Giáo của chúng ta, trong kinh điển mới nhắc
đến mà danh từ đó, những người ở
ngoài đời những vị đi khất thực,
đi ti`m vật thực, đi ăn xin cũng được
gọi là bậc bhikkhu là bậc Tỳ Kheo,
Đức Phật Ngài minh
định nghỉa đó, Đức Phật Ngài nói rộng
hơn
Ai
vượt ngoài thiện ác,
Đời
phạm hạnh chuyên tu
Quán triệt
cuộc đời nầy,
Mới chính là Tỷ
Khưu
(Kinh Pháp
Cú 267 Bản dịch của TT Giác Đẳng)
Đức Phật Ngài
đă minh định ư nghĩa, Ngài đă phát họa lên
như vậy, c̣n ở đây trong bài kệ này Đức
Phật Ngài cũng phát họa lên h́nh ảnh của một
bậc trí tuệ, một bậc ẩn sĩ hay một bậc
hiền thánh. Chúng ta dịch bậc
hiền thánh hay bậc trí tuệ
thi` có lẽ là ổn hơn dịch là vị ẩn sĩ
. Bởi vi` trong trường hợp
này chúng ta thấy một người tránh né hoàn toàn các ác
pháp, chỉ có bậc A La Hán là hoàn toàn các ác pháp không có sự
sanh khởi, do đó nên tâm của Ngài không bị va chạm và ai thật sự hiểu
được hai đời, tức đời hiện tại
và đời tương lai thi`
cũng chỉ có bậc thánh, chỉ có bậc thánh mới
hiểu biết pháp môn như vậy và mới có thể tu
tập được như vậy, ở đây trong cả
hai bài kệ này Đức Phật Ngài cũng minh định
cho chúng ta y' nghĩa muni và danh từ muni này không phải chỉ
riêng cho bậc đă chứng quả thánh, cũng không phải
chỉ riêng cho những vị tu sĩ xuất gia, mà danh từ
muni xưa kia đă được sử dụng để
chỉ cho những người nào thuộc về nhà hiền
trí, nhà hiền triết, họ quan niệm chữ muni là bậc
trí tuệ là như vậy, cho nên ở đây Đức Phật
Ngài phải làm công việc gọi là minh định y' nghĩa.
Để nhắc nhở
Chư Tỳ kheo, Đức Phật nói:
- Hễ mỗi lần
người ta gọi các ngươi là Tỷ kheo thi` các
ngươi cần phải biết pháp nào cần thực
hành để tác thành Tỷ kheo thật sự , khi mà
người ta gọi các ngươi là bậc mâu ni thi` các
ngươi cần phải tu tập như thế nào, cần
phải thực hành như thế nào để xứng danh
là bậc mâu ni.
Chúng ta cần phải hiểu
như thế.
Như vậy trong hai bài kệ
ở trên đây đă dạy cho chúng ta rất nhiều
điều, do đó cho nên chúng ta cần phải cố gắng
tu tập. Y' chính của bài kệ
này chỉ là sự im lặng không đủ để nói
lên đời sống của bậc mauni, nếu im lặng
mà ngu si dốt nát thi` sự im lặng đó không có gía trị,
co`n đối với bậc biết hợp thời hợp
lúc, biết lúc nào nên nói và lúc nào nên im lặng thi` như vậy
cũng đáng gọi là bậc mâu ni, và đối với
những người thật sự đă đạt đến
kết quả hay đạt đến mục đích tu tập,
đă trở thành bậc hiền ở trong đời này,
người từ bỏ ác pháp, hiểu biết được
cả hai đời, Đức Phật đă định
nghĩa , minh định danh từ như thế. Chúng tôi
xin chấm dứt bài giảng nơi đây. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Minh Hạnh biên soạn