HÂN HOAN ÐÓN CHÀO
Câu Kệ Ngôn 259 - Kinh Pháp Cú, ngày 22 tháng 10, 2003
Bản
Việt dịch của TT Trí Siêu
Không
phải do nói nhiều
Mà
thành bậc trì pháp
Người tuy nghe học ít
Nhưng tự thân thấy pháp
Hành
pháp, không buông lung
Ấy
là bậc trì pháp
TT Giác Ðẳng giảng : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Chư Tôn Ðức, và thưa quí Phật tử. Hôm nay chúng ta có một bài kệ, có thể nói rằng bài kệ này ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm về giáo dục trong Ðạo Phật, ngày hôm nay quan niệm về giáo dục người ta thường nói nhiều về sự thu thập kiến thức, càng nhiều càng rộng thì điều đó nói lên cái kiến văn quảng bác và có giá trị đặc biệt. Chính vì vậy nền tân giáo dục đã nhấn mạnh rất nhiều về những bằng cấp học vị, được xem như những thành tụ để đo đạt thế nào là một người có kiến thức rộng rãi hay là kiến thức hẹp hòi. Tuy nhiên đối với Ðạo Phật chúng ta lại được biết rằng trong quan niệm về giáo dục Đạo Phật theo một quan niệm hoàn toàn mới, và chính quan niệm này cũng đã là những nét chấm phá rất lớn của Thiền học khi đem đối chiếu với nền Phật học truyền thống của Phật Giáo Bắc truyền.
Thưa quí vị, khi nói
đến ý nghĩa của bài kệ này, chúng ta có thể
tóm tắc như vầy : có
những vị học kinh điển rất nhiều, nhưng mà sự
học nhiều và hiểu về kinh điển này,
quả thật nói chỉ hiểu về sơ lượt,
chỉ cho đến khi nào người ta thật sự
nếm được hương vị của giáo pháp,
thật sự thiết lập đời sống của
mình ở trên giáo pháp và điều này không nhất thiết
phải là một vị học nhiều hiểu rộng,
mà chỉ người
thật tu thật chứng, và thật sự làm những gì
mình tin tưởng thì điều đó mới mang một
giá trị thật sự.
Nên trong truyền thống
của Ðạo Phật, mặc dù chúng ta có những học
vấn truyền thống mang tính cách trường lớp,
ví dụ như những
lớp học ở tại Thái Lan về Phạn ngữ,
về Pháp và Luật, hay
những trường học ở tại Tây
Tạng, chúng ta có chương trình 17 năm tại Garden Shatse,
hoặc giả chúng ta có nhiều trường Phật
học được tổ chức khắp nơi trên
thế giới, trong đó phải kể rằng Nhật
Bản và Nam Hàn ngày nay có một số lượng lớn
các trường đại học Phật Giáo. Nhưng những trường
đại học này không nói được giá trị
về sự tu tập và chứng đắc của
Ðạo Phật, bởi vì đây là một điểm
rất lạ nó tương tựa như một
người sống đi du lịch, họ có thể
đi rất nhiều nơi, và họ có thể tiếp xúc
với rất nhiều người khác nhau, nhưng mà
chưa chắc họ đã thật sự hưởng
thụ cái văn hoá nào mà ở mức độ chiều
sâu của nó, trong khi có những người tuy rằng
họ không đi nhiều nơi, nhưng họ có thể
tiếp cận với một số người nào đó
bằng tâm thái, bằng thần thái rất đặc
biệt vì vậy họ cảm nhận được
một cách sâu sắc, có thể nói trường hợp này
chúng ta gặp đuợc rất nhiều người, và
trong cuộc đời lưu lạc có thể nói rằng
họ đã 5 lần 7 lượt, từ Bắc vô Nam,
rồi từ miền Nam ra nước ngoài, rồi đi
định cư tại đệ tam quốc gia. Cuộc đời họ có
thể tiếp xúc với rất nhiều trường
hợp, nhiều cảnh huống, nhiều sự việc,
nhưng chúng ta không cảm thấy rằng họ có cảm
nhận sâu sắc về hoàn cảnh xảy ra chung quanh
họ.
Trái lại chúng ta cũng
gặp những người có một cuộc sống
rất bình dị, họ lớn lên tại một miền
quê hẻo lánh của một quốc gia nào đó, nhưng
sự cảm nhận của họ với các sự việc
chung quanh rất là xâu sắc, họ có thể nói về
những lời chiêm ở trong làng, họ có thể nói
về cảnh trí của quan cảnh mặt trời
mọc, mặt trời lặng như thế nào, và
thậm trí họ có thể hiểu một cách rất là sâu
sắc về những người sống ở trong làng
như thế nào. Thì như
vậy cho chúng ta thấy rằng cái lượng và cái
phẩm nó không nhất thiết là tương
đương với nhau, có nhiều khi người ta chú
trọng về lượng mà không chú trọng về
phẩm và đặc biệt ở trong giá trị tinh
thần, Ðức Phật Ngài cho chúng ta biết rằng
điều này là một thực chứng thực hơn
bất cứ điều gì khác mà chúng ta được
biết.
Ở trong sự tu tập có
lúc đôi lúc một người chỉ thọ trì một
pháp tu, hay thọ trì một cảnh giới nào đó,
như chúng tôi có dịp được sống gần
những vị chỉ chuyên về trì luật thôi. Nếu
một người nào đó trong chúng ta nghe nói ngày hôm nay mà
chỉ ôm bộ luật Thiện Trí chẳng hạn,
để mà tu tu tập thì chúng ta mường tưởng
đó là một người có một cuộc sống
hết sức khắc khe, tỉ mỉ, người đó
chỉ sống bó gối ở trong khung trời hạn
hẹp, nhưng mà không thưa quí vị, khi mà chúng ta ở
gần những vị đó, chúng ta mới cảm nhận
được cái niềm tin, chúng ta mới cảm
nhận được sự lãnh hội, chúng ta mới
cảm nhận được sự xâu sắc của
một người thọ trì về luật..
Có một lần chúng tôi nghe
một vị Thầy, sau hơn 19 năm sống
dưới chân của Ngài Achaan Cha. Ngài nói về một sự việc, những ai
hộ trì giới luật, thì người đó sẽ
được giới luật hộ trì, bởi vị này
đã sống trong một thời gian dài như vậy, và
khi vị này nói thì nói với tất cả cái kinh nghiệm
của mình. Chúng tôi nghĩ
bất cứ ai được nghe bài pháp đó thì
đều nhận ra rằng vị đó đã đạt
đến một cảnh giới xâu sắc, không có
đơn thuần như chúng ta nghĩ rằng, mình đi
tu thì mình phải học đủ tam tạng kinh
điển, mình phải là một vị Pháp Sư, hay mình
là một vị Thiền Sư, mình phải có một
tầm cở như thế này, mình phải có địa
vị như thế kia, phải có bằng cấp cao nào
đó hay là tác gỉa của
nhiều quyển sách.
Thật ra thì những
điều này nó có một giá trị rất tương
đối về cái nhìn của thường thức,
dĩ nhiên chúng ta không thể có cái gì đó để có
thể đo đạt cái khả năng sâu sắc
của một người họ đã tiếp xúc thật
sự với lời dạy chân thật của Ðức
Phật như thế nào, nhưng chúng ta có thể thấy
rõ rằng có những người học rất nhiều,
có những người hiểu rất rộng, nhưng
người đó lại không nếm được
hương vị của chính pháp, đối với
người này thì chính pháp chỉ là gánh nặng đối
với họ, đối với những người này thì
chính pháp là khu vườn lớn mà họ phải bỏ ra
quá nhiều thì giờ để mà bảo trì, thậm trí
Ðức Phật Ngài dùng hình ảnh giống như
người mục đồng chăn bò cho người
khác, dĩ nhiên đàn bò càng lớn thì mình chăn càng
cực khổ, tuy nhiên dù cực khổ đến đâu
thì mình chỉ chăn bò cho người khác, chứ bản
thân của mình lại không hưởng được bao
nhiêu.
Nên chi khi chúng tôi nói
đến quan niệm giá trị của Ðạo Phật,
thì phải nói rằng có rất nhiều điểm làm cho
con người phải ngạc nhiên, không may rằng trong việc canh tân Ðạo
Phật, trong cái việc chúng ta nói tới đem Ðạo
Phật vào trong cuộc đời ngày hôm nay, thì càng lúc
người ta càng chú trọng đến bằng cấp,
đến học vị và những chương trình
học Phật mang tính cách trường lớp, thật ra
thì điều này nó vẫn có giá trị nhất
định của những thứ này, nhưng bên cạnh
đó chúng ta cũng lấy làm buồn mà thấy rằng
khi người ta quá chú trọng đến trường
lớp, thì người ta quên rằng Phật Pháp là một
cái gì mà có thể cảm nhận một cách sâu sắc, không
những cảm nhận một cách sâu sắc mà còn sống
với điều đó nữa.
Thưa qúi vị, chúng tôi
muốn chia sẻ kinh nghiệm này đến với quí
vị khi mà chúng tôi tiếp xúc với một số nhà
Sư ở tại Anh Quốc và ở tại Hoa Kỳ và
ngay ở Úc Ðại Lợi cũng vậy, chúng tôi biết
rằng có nhiều vị học rất giỏi, có 5, 7
bằng tiến sĩ, bằng cao học về Phạn
Ngữ, về Hindi hoặc giả về Phật học,
về văn chương Anh ngữ, nhưng các vị này
đã không đủ sức thu hút , hoặc giả khai
thị cho những người Phật tử Tây
Phương, hay những người Tây Phương
muốn tìm về với Ðạo Phật. Trái lại những người
Tây Phương họ lại tìm đến những vị
tuy rằng không có học vị cao, không có bằng cấp
nhiều, nhưng họ
nghĩ rằng những vị này thật sự sống
trọn vẹn với những gì những vị này tin
tưởng. Ở trong đó phải kể đến Ngài
Achaan Cha là một vị Thiền Sư mà thưa quí vị,
trình độ của Ngài chỉ khoảng chừng lớp
ba trong ngành học phổ thông mà
thôi, nhưng đời sống tu tập và cái trí
tuệ Ngài cống hiến qua đời sống thực
của Ngài đã có một sức hút mãnh liệt và có
thể nói trong lịch sử cận đại chưa có
một vì Thiền Sư nào mà có ảnh hưởng lớn
đến những người Phật tử Tây
Phương, như chúng ta được biết và chúng ta
được nghe về trường hợp Ngài Achaan Cha.
Do vậy chúng ta phải
đặt trở lại vấn đề rằng ở
trong Đạo Phật nếu chúng ta nghĩ đến
chiều rộng, nghĩ đến pháp học thì phải
nói rằng có rất nhiều kinh điển, có rất
nhiều lãnh vực để chúng ta tìm hiểu. Nhưng
bên cạnh đó chúng ta đừng quên rằng có những
pháp hành, ví dụ như một người thọ bát quan
trai, một đêm hành trì đầu đà, hay một khoá
thiền hay những giờ giấc tụng kinh, niệm
Phật, hoặc giả có cái
gì đó khiến chúng ta gắng bó với đạo, chúng
ta sống gần với đạo và chúng ta thật
sự thể hiện được đạo bằng
chính cuộc sống của mình, thì những lúc đó
mới là lúc thật sự sống với những gì mình
tin tưởng hơn là chỉ một niềm tin ở bên
ngoài. Và quan niệm này đã khiến cho Đức Phật
mở ra một chân trời mới, ở trong chân trời
mới này Đức Phật Ngài đã cho phép nhiều
người từ nhiều tầng lớp khác nhau ở
trong xã hội để trở thành những vị Tỳ
kheo, Tỳ kheo Ni, và có thể những vị cư sĩ,
những nam cư sĩ, nữ cư sĩ hành trì mà không có
phân biệt nhiều về giai cấp, về địa
vị học vấn của họ.
Gucatata là một tỳ nữ
trong cung, Ambapaly là một
kỹ nữ, và chúng ta biết Upali là một thợ
hớt tóc trong cung đình, Angulimala là một tướng
cướp sát nhân có một hồ sơ lý lịch
đầy tội ác, nhưng mà tất cả những
người đó đều được Đức
Phật Ngài cho phép có được cơ hội
để sống với chính pháp, không những chỉ
hoàng lương mà còn có thể tìm về để đón
nhận ánh sáng thật sự của chính pháp. Thì ở đây thưa quí
Phật tử, cái sự lãnh
hội đạo, cái sự thấm nhuần của
đạo đôi lúc nó vượt ngoài ngôn ngữ, nó
vượt ngoài bất cứ điều gì mà chúng ta có
thể quan niệm theo cách quan niệm trong thời
đại ngày hôm nay. Thật
ra thì chúng tôi có nghe một vị Thầy hiện là khoa
trưởng khoa Phạn ngữ
của Đại học Ananda ở tại Ấn
Ðộ, khi chúng tôi đến thăm viếng đại
học Ananda thì vị này có than rằng ngày xưa khi Ấn
Ðộ vùa mới dành được độp lập và
dưới sự khuyến khích của thủ
tướng Meru. Lúc bấy giờ Ngài Kasac được
mời làm viện trưởng, lúc đó Ngài cho rằng
đã đào tạo được một số Chư
Tăng, và trong số các vị Chư Tăng này có kể
cả Chư Tăng Việt Nam, trong đó có Hoà
Thượng Minh Châu, Hòa Thượng Minh Châu là viện
trưởng viện Vạn Hạnh về sau này.
Vị này nói rằng thời
của Ngài Kasac, những vị đó không học nhiều
môn như bây giờ, nhưng những vị đó ngoài các
môn học ra còn thêm một thứ khác đó là đạo
tâm rất thuần. Còn bây
giờ số lượng các vị Tăng sĩ học
khá hơn ngày trước, thậm trí có nhiều vị
đã trình những luận án tiến sĩ ,và mọi
người đều rất được tán
thưởng, nhưng mà theo vị này thì các phẩm
chất tu tập cũng như niềm tin của các
vị học Tăng tại đại học Ananda bây
giờ không so sánh được với các vị học
thời khi Ngài Kasac còn sinh tiền.
Thưa quí vị về
việc này đó là một cái hiện tượng chúng ta
thấy rất tự nhiên
ở hầu như tất cả các tôn giáo, có nhiều
người khi nghiên cứu về lịch sử Ky Tô giáo,
cũng cho rằng những lời dạy của chúa Jesu
đã dạy, lúc chúa Jesu còn sinh tiền rất giản
dị như người ta
đọc trong kinh Tân Ước, nhưng về sau này khi
đưa vào LaMã, Vương
triều La Mã và Giáo hội La Mã đã tạo ra hệ
thống thần học, mà theo đó nhũng nhà nghiên
cứu ngày hôm nay cho rằng những hệ thống
thần học này lại
không có tác động gì về niềm tin bằng thời
xa xưa, chúng ta muốn nói đến thời đại
chính thống giáo Phương Ðông hoặc giả như thời của Thánh St. Paul
chẳng hạn, mặc dù là nhận định như
vậy , nó còn phải nghiên cứu nhiều sự dị
biệt giữa đông và tây.
Chúng ta thấy rõ ràng ngay trong
Ðạo Phật, khi Ngài Ca Diếp cũng có một lần
đã bày tỏ sự không hài lòng về sự việc Phật Giáo phát triển rất
đông vào năm 25 năm sau cuộc đời hoàng đaọ
của Ðức Phật, nhưng mà phẩm chất của
các vị Tăng đã rất kém so với 20 năm
đầu, và điều này là một điều rất tự nhiên. Tuy nhiên ở chỗ như vầy khi chúng ta
đặt vần đề học nó trở thành một
sở nghiên cứu mang tánh cách chiều rộng, khảo
cứu nhiều hơn là một giáo pháp, là cái gì để
chúng ta sống, để chúng ta trưởng dưỡng
đời sống nột tại của mình để
thanh lọc phiền não, để làm cho chúng ta có khả
năng sống sáng suốt hơn, nhẫn nại hơn
trong cuộc sống, thì thưa quí vị chúng ta bắt
đầu đi xa ngoài giáo pháp, nếu chúng ta chú ý một
chút thì chúng ta sẽ thấy trong truyền thống tu
tập mà Chư Phật dạy
cho đàn hậu tấn, trong đó có lời dạy
mà mới nghe thì chúng ta nghĩ nó không có sâu sắc, không có
mang tánh cách vi diệu thâm sâu như
những môn triết lý.
Ví dụ như Ðức Phật
Ngài dạy ăn uống có tiết độ, và không
biếng nhác phải tinh cần, và con người nên
sống ở nơi độc cư thanh tịnh ,
đặt biệt Ngài chú trọng nhiều đến
sự nhẫn nại, nhẫn nại là một trong sự
thể hiện của đạo ở trong đời
sống hàng ngày của chúng ta, phải nói rằng chính
một vài yếu pháp, thí dụ như về nhẫn
nại cho phép chúng ta chiêm nghiệm Phật Pháp ở
một mức độ hiện thực hơn là ý
thức, ở bên ngoài chúng ta thấy rất nhiều vị rất giỏi về Phật Pháp,
nhưng mà vị này thiếu kiên nhẫn, thiếu sự
chịu đựng , bởi vì vị này đã
học Phật Pháp hoàn toàn dựa trên lý
thuyết. Nhưng nếu chúng ta sống trên sự
kiên nhẫn và nhẫn nại đối với sự tu
tập thì chúng ta sẽ thấy rằng Phật Pháp gần
với chúng ta nhiều hơn.
Cũng như Ðức Phật Ngài đã dạy trong
Trung Bộ Kinh rằng một vị Tỳ kheo khi mà
đầy đủ tứ vật dụng, đầu
đủ tứ sự cúng dường mà vị ấy tu
tập tinh tấn thì Như Lai chưa gọi vị ấy
thật sự là thuần cố, cho đến khi nào
vị ấy sống trong điều kiện khó khăn mà
vị ấy vẫn chứng tỏ được khả
năng thiện trí của mình thì Như Lai mới gọi
là vị đó là vị đã xây dựng được
cơ sở căn bản về niềm tin, về
giới, về thiền định. Thì ở đây thưa quí vị có một vài
điều đối với chúng ta không có quan trọng .
Chúng tôi mới vừa sang
Úc Ðại Lợi và đến thăm nhiều thành phố
lớn trong đó có thành phố Sydney , trong cái quan sát thì chúng tôi thấy một
điều rằng ngày hôm nay người ta thường
kính trọng lẫn nhau qua chùa chiền, qua cơ sở và
qua khả năng về tài chánh nhiều hơn qua đức độ tu
tập, chúng tôi ví dụ trong những buổi sinh hoạt,
vị nào có chùa lớn, có tầm hoạt động
rộng, thì được nể nang hơn những vị có đời
sống khiêm cung, có cuộc sống hết sức giản dị, hết sức nhẫn
nại, cái thời thế, cái quan niệm về xã hội
thay đổi, chứ chúng ta không nhìn thấy
được giá trị chân thật như thời xưa.
Nhưng chính lời dạy
này của Ðức Phật đã kéo chúng ta trở về
đúng với thực tại, là nếu mà chúng ta có
những thành tựu ở trong cuộc đời sống
này, mà sự thành tựu đó không thể hiện
được những gì mà Chư Phật đã dạy
trong Trung Bộ Kinh , như hồi nãy chúng tôi đã nhắc
đến sự tiết độ trong ẩm thực,
sự nhẫn nại hoặc thích sống độc
cư v.v.. không có một
số thể hiện căn bản thì chúng ta chưa
gọi là người thật sự tiếp xúc với
chánh pháp, bởi chính những điều đó mới thách
thức cái sự nhập cuộc của bản thân chúng
ta, khi mà chúng ta sống trong điều kiện như
vậy, ví dụ đời sống độc cư không phải là đời
sống dễ dàng, chúng ta thường sống vây chung quanh
mình bởi tín đồ, bởi Phật tử, bởi
những người thân, cho đến một lúc nào đó
chúng ta sống nơi hoang dã, sống một mình, mặt
đối mặt với chính mình thì lúc bấy giờ chúng
ta mới hiểu rằng cuộc sống đó không
phải chỉ đòi hỏi sự cố gắng mà
đòi hỏi sự chung thực, một cái nhìn rất
thành thực về ưu điểm, về nhược
điểm của bản thân mình và không may những
điều đó nó không còn có nhiều cơ hội cho chúng
ta trong cuộc sống tu tập ngày hôm nay.
Chính vì vậy ở đây
trong duyên sự này nói về một vị Tỳ Kheo
thuộc có một bài kệ thôi, và thật sự trong kinh
thường nói rằng vị này được
người ta cho một biệt danh là vị Tỳ kheo
nhất cú, chỉ thuộc một bài kệ thôi, nhưng
bài kệ này đã không phải là bài kệ được
nói ở đầu môi chót lưỡi, mà vị này thật
sự đã sống với bài kệ đó và do vậy khi
vị này đọc bài kệ đó và giảng bài kệ
đó không những nhiều người chung quanh mà Chư
Thiên cũng hoan hỷ.
Thưa quí vị chúng tôi
biết ngày xưa có những vị mà khi thuyết pháp
chỉ nói vài câu thôi, chúng tôi được may mắn
ở trong đời sống có gặp một vài vị
như vậy mà chúng tôi tin rằng khi chúng tôi đơn
cử ra đây một vị có lẽ quí Phật tử có
nhiều vị cũng đã từng gặp, thưa quí
vị đó là Ngài Hoà Thượng Hộ Tông, Ngài không
phải là vị Pháp Sư.
Một thời pháp, thì thưa quí vị có nhiều khi
Ngài thuyết rất ngắn, và những lời Ngài dạy
có đôi khi chỉ có vài lời la rày, nhưng mà đều
có ảnh hưởng, có tác dụng rất lớn và Ngài độ
được rất nhiều người, và có thể
nói rằng ở mỗi vị Tăng chúng ta học
được điều nào đó nhưng mà với Ngài
Hộ Tông thì phải nhận rằng hình ảnh của
Ngài chứng tỏ rằng Ngài là một người
thực sự sống với niềm tin, và bên cạnh
đó thì một vị mà ở đức tu đã cảm
hóa được nhiều người không qua nhiều
ngôn ngữ như chúng ta có vào
ngày hôm nay. Phải gặp và phải sống gần
những vị đó dù một ngày, hai ngày, một tuần,
hai tuần thì chúng ta mới thấy ảnh hưởng
lớn của điều mà Ðức Phật Ngài dạy
rằng sự thấm nhuần chính pháp ở trong
đời sống của chúng ta.
Chúng tôi cũng muốn nhân
đây nhắc lên hình ảnh của một số các bà
cụ ngày xưa quan niệm về sự tu tập
rất đơn giản,
ở nhà thì thắp nhang, tụng kinh niệm Phật và
rồi đi chùa, trước khi đi chùa, thì tắm
sạch sẽ và mặc đồ trang nghiêm, bước
vào trong chùa bằng thái độ cung kính lễ Phật,
lạy Phật rồi cúng dường được cái
gì thì cúng, không thì công quả, nếu ngày hôm nay quí Phật
tử nghe một số người khác đề cập
đến những bà cụ này thì thật sự quí vị
cũng rất đau lòng,
bởi vậy có đôi lúc người ta gọi những
bà cụ này là những bà già trầu, những bà già trầu
là những người nhẹ dạ, những người
chỉ nói qua loa ngoài miệng nhưng lại không có sự
sâu sắc, nhưng mà khi sống gần các cụ thì chúng ta
có thể cảm nhận được rằng cái tâm trong
sạch của các cụ thì chúng ta không thể phủ
nhận được , và các vị sống gần
với đạo ở trong sự an lạc, ở trong
niềm tin, kể cả ở trong cơn nguy biến.
Chúng ta được biết nền giáo dục ngày hôm
nay đào tạo nhiều học giả hơn là những
người Phật tử thực tu thực chứng,
học giả ở đây thưa quí Phật tử, có
một lần chúng tôi đến thăm một đại
học ở Santa Barbara ở California, lúc đó chúng tôi
được giới thiệu về một vị khoa
trưởng về ngành triết học Ðông Phương và
trong đó có thêm hai vị giáo sư , hai vị này là tác
giả của bốn, năm quyển sách viết về
Ðạo Phật, cũng dạy ngành tôn giáo Đông
Phương, lúc bấy giờ khi nói chuyện với
những vị đó, những vị đó không những có
bằng cấp mà kiến văn cũng rất quảng
bác, kể cả Phạn ngữ các vị cũng rất là
giỏi, nhưng mà chỉ một cuộc đàm luận
thì chúng ta thấy rằng họ chỉ là những học
giả không hơn, không kém, thật sự họ có thể
giỏi hơn rất nhiều nhà sư, nhưng mà rồi
đời sống của họ
không thể so sánh được với một bà già
trầu như người ta
thường đề cập đến, bởi vì
những vị này chỉ nghiên cứu, và Phật pháp
của những vị này chỉ là chữ nghĩa không
hơn không kém và nó không có một cái gì ở trong đó mà có
thể chuyển hóa được.
Bằng chứng là chúng tôi có
đưa ra một câu hỏi với một vị giáo
sư đã dạy ở đại học đó suốt
cả mười bốn năm, họ có bao nhiêu học
sinh ở trong lớp của giáo sư mà từ lớp
học đó ra trở thành những người Phật
tử, thì vị này lắc đầu nói rằng :
- không có vị nào hết, và tôi
có nhớ rằng có hai ba người đến với
Đạo Phật và sau đó trở thành Phật tử,
nhưng mà không phải do lớp học tôi đào tạo,
mà là do họ đi hành thiền với Ngài Mahasi.
Thưa quí vị tại sao
những người học giả họ chỉ có
thể trình bày, họ chỉ có thể viết sách cho chúng
ta , mà họ không thể đưa những người
khác trở về với Đạo Phật như những nhà Sư ít học
hơn họ nhiều, và điều này rất dễ để chúng ta cảm nhận ở trong
cái nhận định mà chúng ta thường thấy trong
cuộc sống hàng ngày.
Bây giờ chúng tôi xin
được trở lại với ý nghĩa của bài
kệ này, đây là bản dịch của TT Trí Siêu:
Không phải do nói nhiều
Mà thành bậc trì pháp
Người tuy nghe học ít
Như tựa thân thấy pháp
Hành pháp không buông lung
Ấy là bậc trì pháp.
Bậc trì pháp ở tại
đây được hiểu là một vị thật
sự thấm nhuần, và vị này có thể nói rằng
đã không có xao lãng, không có buông lung. Khi chúng ta xao lãng buông lung là chúng ta chưa thật
sự thấy giá trị quí báu, chúng tôi lấy ví dụ
hồi nhỏ chúng tôi rất là thích nghe đọc
chuyện Tàu vào đêm khuya và khi lớn lên chúng tôi hiểu
một điều rằng, không phải vì nghe chuyện Tàu
mà nó có một cái âm giai gì đặt biệt, mà đặt
biệt là chỗ nghĩa lý ở chỗ cốt chuyện
với tuổi của chúng tôi lúc đó mà được
nghe câu chuyện như vậy, thì thưa quí vị, bốn
giờ sáng thức dậy để nghe đọc
chuyện mỗi ngày, những quyển truyện như là
Phong Kiến Xuân Thu, Xuân Thu Oanh Liệt, Vạn Cô Lầu,
Tam Quốc Trí, đó là những tập chuyện mà ngày
xưa, trước 75 chúng tôi được nghe và nhớ,
sau này đọc sách, nếu thật sự chỉ
đọc sách có lẽ không nhớ nhiều bằng lúc
đó đang nghe bằng tâm rất là tha thiết mong
mỏi, khi người ta thật sự thấy một
điều gì, người ta sẽ tha thiết với
điều đó, và người ta sẽ sống trọn
vẹn với điều đó chứ không có phải là ai
bắt buộc mình hết, thì với một vị hành pháp
không buông lung thì điều đó chứng tỏ rằng
vị này đã có một cái nhìn rất là thông suốt
nếu chúng ta biết nó có giá trị gì đó thì chắc
chắn là chúng ta không bao giờ chúng ta bỏ cuộc
hết..
Chúng tôi có nhớ ở
tại vùng Caribean có một hòn đảo, mà ngày hôm nay
vẫn còn mệnh danh là The Castle Island, hòn đảo đó
theo trong một số hồ sơ ghi chép đó là ngày
xưa những người cướp biển sau khi
họ đánh cướp những chiếc tàu buôn lấy
được vàng bạc châu báu thì họ đem vào hòn
đảo này nó là một nơi nằm ngoài kiểm soát
của hải quân Anh và sau đó là hải quân của Hoa
Kỳ, hải quân của Tây Ban Nha, để họ chôn
giấu những tài sản.
Tất nhiên là có một con số lớn những
người chôn dấu tài sản không có dịp trở
lại để lấy tài sản tại vì đã mất
mạng ở trong những cuộc chiến đấu khác,
trong những cuộc cướp bóc khác xảy ra trên
biển cả và điều này đã khiến cho rất là
nhiều người vì hiếu kỳ cũng có mà đa
số là vì muốn làm giàu, đã đặt chân đến
hòn đảo này cố gắng tìm ra tông tích, cố
gắng tìm ra cái gì đó cho họ thấy rằng hứa
hẹn một cái tài sản kếch sù, một thứ
hoạnh tài mà họ có thể tìm trên The Castle Island hòn
đảo được mệnh danh là hòn đảo châu
báu, thưa quí vị có đọc những câu chuyện
của những người đã từng đến
đó và phải vật lộn với thiên nhiên khắc
nghiệt như thế nào rồi họ phải tự
bảo vệ lấy mạng của họ như thế
nào trong cuộc đi tìm vàng, cũng như bao nhiêu câu
chuyện mà những người đi về những
nơi đào vàng ở Cựu Kim Sơn, hay là ở Yukon,
Alaska thì chúng ta mới thấy rằng hễ con
người mà thấy được giá trị
điều gì thì họ tha thiết với điều
đó, và khi họ thật sự tha thiết với
điều đó rồi thì không có cái gì có thể cản
họ được họ hết..
Chúng tôi có nghe nhiều
Phật tử thỉnh thỏang họ là muốn tu
thiền hay là muốn hành đạo nhưng mà không có
điều kiện, những người này luôn luôn có
một số lý do và dĩ nhiên là những lý do này
đều là những lý do chánh đáng, thí dụ như có
mẹ già đang đau bệnh không thể đi tu tập
được, nhưng mà rồi chúng ta cũng phải
nhận rằng đa số chúng ta không có làm
được điều mà chúng ta gọi là tu tập là
bởi tại vì chúng ta chưa thật sự thấy
được giá trị, nếu chúng ta thấy
được giá trị của chánh pháp thì thưa quí
vị dù rằng có bị ngăn cản năm bảy lớp
rào thì chúng ta cũng cố vượt qua. "Mấy sông
cũng lội mấy đèo cũng qua ". Nhưng mà khi chúng ta chưa
cảm nhận thật sự thì chúng ta giống một
thái độ mà có thể dùng ngôn ngữ dân gian gọi là
thái độ chập chờn, chập chờn tức là
lãng bãng đi ra đi vào nhưng mà thật sự chưa có
cương quyết, chưa có một quyết định
gì gọi là thật sự để chúng ta theo đuổi
hết thì điều này làm một điều rất
đáng tiếc ở trong cuộc sống của mình.
Bây giờ trong câu kệ này
chúng tôi nghĩ rằng mạch văn rất là dễ
hiểu, dễ hiểu đến đỗi chúng ta
chỉ đọc một lần, chúng ta có thể thấy
được Đức Phật Ngài ý Ngài muốn dạy
điều gì, không phải do nói nhiều mà thành ra bất
kỳ pháp, xưa nay chúng ta nghĩ rằng những vị
Pháp Sư diễn giảng Phật Pháp, nói nhiều nói hay
thì điều đó mới là vị trì pháp, nhưng câu
kệ ngôn này Đức Phật Ngài lại nêu lên một
giá trị khác, cũng có thể làm cho một số
người ngạc nhiên,
Người tuy nghe học ít
Nhưng tự thân
thấy pháp
Hành pháp không buông lung
Ấy là bậc trì pháp
Bởi vì vị ấy
thật sự làm chứng cho chánh pháp. Đức Phật Ngài dạy rằng Ngài đã
đi qua con đường đó và đạt đến
điểm đó thì chính những người này mới là
những người thật sự làm chứng cho lời
dạy của Đức Phật.
Khi mà chúng tôi nói điều này có nhiều Phật
tử rất là ngạc nhiên, khi
chúng ta đọc về ân đức của Tăng
bảo tức là những vị thinh văn đệ
tử Phật, thật ra ý nghĩa thinh văn đệ
tử Phật không có đơn giản, ý nghĩa thinh
văn để tử Phật các Ngài ( Supatpanno ) là bậc
diệu hạnh, ( Ujupatipanno ) là bậc trực hạnh, (
Nãyapatipanno ) là bậc như lý hạnh, ( Sãmĩcipatipanno )
là bậc chân chánh hạnh, nhưng mà trong đó còn nói thêm
nữa các Ngài gồm có bốn đôi tám vị, tứ song
bát bối, tức là những vị đã chứng Tu Đà
Hườn đạo, Tu Đà Hườn quả, Tu
Đà Hàm đạo, Tu Đà Hàm quả, A Na Hàm đạo,
A Na Hàm quả, A La Hán đạo, A La Hán quả, các vị
đó mới thật sự gọi là Tăng, các vị
đó mới thật sự là những vị Thinh Văn
đệ tử Phật, cho dù
những vị hữu học, tức đang trên con đường
dẫn đến giác ngộ và những vị đã giác ngộ
hoàn toàn tức là chứng tứ quả, thì khi nói
đến điểm này thì cho chúng ta thấy một
điểm là Đức Phật Ngài nhấn mạnh
rất rõ rằng một
vị thật sự hành trì pháp không phải là vị Tam Tạng
Pháp Sư, ở đây không có ý nghĩa công kích những vị học nhiều, nhưng
mà chính những vị thực chứng thì những vị
đó mới là thành viên ở trong Tăng hội thật
sự bởi vì sao, những
vị này đã tự mình ngộ, và đã tự mình
nếm được hương vị của chánh pháp,
chánh pháp đối với vị này không có suy chuyển,
không có một mảy may nào gọi là thối chuyển
hết do vậy những vị này mới thật sự
là những vị được xem như là thành viên
của Tăng già, dĩ nhiên chúng ta quan niệm ở
đây là (Ariyasangha ) tức là
Thánh Tăng.
Khi mà nói đến Tăng theo
qui ướt từ bốn vị Tỳ kheo trở lên
đó là một hình thức khác, nhưng nếu chúng ta đọc kỹ lại ân
đức Tăng thì chúng ta sẽ thấy ngụ ý của
Đức Phật Ngài dạy gì, " tự thân mình
thấy pháp, hành pháp không buông lung, ấy là bậc trì
pháp". Nếu chúng ta thấy
một người Phật tử họ đi chùa làm
phước trai Tăng, mà trong thái độ cúng
dường trai Tăng tạo phước của
những người này, những người này thật
sự sống trọn vẹn thì những người
đó mới duy trì giáo pháp, còn những người chỉ
khuyến khích người khác bố thí mà không làm
được việc đó thì vị này chỉ sống
hờ thôi, chứ không có thật sự sống, hay
hoặc giả một người có thể sống
một ngày bát quan trai và họ hết sức an lạc với ngày bát quan trai
đó, hoặc giả họ
đi một khoá thiền, và họ tìm thấy rằng
ở trong Đạo Phật ngoài kinh điển ra thì còn
có gì để áp dụng trong đời sống hàng ngày,
nên chính những người hành pháp là người làm cho
Phật Pháp được hưng thịnh, hưng
thịnh ở đây là hưng thịnh ở trong lòng
họ trước hết, và trong cái sự hưng
thịnh đó nó mới có khả năng truyền
đạt được đến cho người khác và
Đức Phật Ngài nói bậc trì pháp ở đây
được bao gồm cả hai phương diện,
về phương diện tự thân và luôn cả
phương diện đối với tha nhân, tức là
tự bản thân mình đã là một người sống
trong pháp gìn giữ chánh pháp ở nơi tự thân mình và còn
duy trì được chánh pháp ở trong cách nói chung
Chúng ta đang đọc ở
trong phẩm Pháp Trụ và chúng tôi tin rằng quí Phật
tử đã được nghe các vị giảng sư nói
về ý nghỉa của chữ Pháp Trụ. Bây giờ chúng ta chỉ nói
một ý nghĩa rất
nhỏ để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa bài kệ
này. Nếu mà chúng ta
đến một nơi nào mà chúng ta chỉ biết có
một con đường hay một việc ở tại
đó thì chúng ta chưa có thể gọi là một cư dân
ở tại đó được cho đến khi nào chúng
ta ổn định công ăn việc làm biết
đường đi nước bước, biết
được cuộc sống thật sự mình sống
ở trong đó rồi thì mình mới là cư dân của
thành phố đó. Thì tương tựa như vậy,
nhiều người ở trong chúng ta khi bước vào ngôi nhà chánh pháp chúng ta mãi mãi là một
người khách lạ, một người khách lạ
đó là một người khách e dè, một người
khách không tìm thấy rằng ở trong căn nhà chánh pháp
đó có cái gì thắm thiết đối với chính mình,
có cái gì thật sự liên quan mật thiết đối
với đời sống của mình.
Chúng tôi có một vị sư
đệ, vị này rất ham đọc sách, mỗi
lần chúng tôi đi đến tiệm sách với vị
này, chúng tôi nhìn thấy cặp mắt của vị này
rất sáng khi gặp một
tựa sách mới, khi gặp một quyển sách hay,
phải nói rằng khi mà nhìn thái độ của vị này
thì chúng tôi biết vị này sống đối với sách
vở như thế nào bởi vì cách sống, cái cảm xúc
và sự gắn bó rất dễ dàng để nhận
định, để nhận thấy trong đời
sống của vị đó, thì vị đó mới
thật sự là sống với văn hoá, sống với
Phật Pháp, thì thưa quí vị đối với chúng ta,
chúng ta cũng phải lập đi lập lại rất
nhiều lần rằng chúng ta nghe pháp, chúng ta có đọc
kinh sách, chỉ có thể mua cả tủ kinh sách mua về
nhà, nhưng mà rồi chúng ta phải đặt lại
vấn đề những thứ đó nó có giá trị
lớn với chúng ta như thế nào.
Chúng tôi có bắt gặp hình
ảnh hết sức cảm động, có một
người Phật tử đi vượt biển,
năm 1980, lên trại tỵ nạn BuLaBiDong, lúc đó quí
vị đó lên trước chúng tôi hai tháng, chúng tôi lên sau ,
có một buổi chiều vị đó lên đồi tôn
giáo, nơi đó có ngôi chùa Từ Bi nơi chúng tôi đang ở, mang cho chúng tôi
một cuổn kinh Nhật Hành, Kinh Nhật Hành do Ngài
Hộ Tông soạn và do Hoà Thượng Pháp Tri Ấn
Tống lại với suy tập một số các lời
dạy, chúng tôi sống ở trại tỵ nạn mấy
tháng trời không có kinh sách, bây giờ nhìn thấy kinh sách
Nhật Hành trong lòng vui,
rộn rã lắm, chúng tôi hỏi người Phật
tử đó sao đi vượt biên còn mang kinh sách theo
đuợc hay vậy, thì vị này trả lời chúng tôi
rằng, " thật ra đâu có mang được gì
đâu Sư, ngó tới ngó lui trong nhà chỉ thấy cái này
quí nhất thì mang theo thôi", lúc đó chúng tôi thật
sự cảm động, chúng tôi rất lấy làm cảm
động, bởi vì ở trên đời này chúng ta có
nhiều thứ để mang theo lắm, trong một
chuyến đi xa, một chuyến đi mà rời quê cha
đất tổ có thể
chúng ta nói đến một vật kỷ niệm,
chúng ta nói đến như một quyển album trong gia
đình nói đến vàng bạc châu báu, nói đến bao
nhiêu thứ, nhưng rồi một người ra đi
trong chuyến đi vô định như vậy đó, sau
khi quyết định bỏ tất cả chỉ mang theo
quyển kinh tụng, phải nhận rằng người
đó có đạo tâm thật sự.
Khi đề cập
đến câu kệ này này bỗng dưng Phật tử
đó trở lại trong lòng của chúng tôi, chúng tôi lại
nghĩ đến trường hợp của những
người sống bây giờ, chúng ta có quá nhiều
thưa quí vị, Phật Pháp đối với chúng ta có
quá nhiều, chúng ta có thể muốn bao nhiêu kinh sách cũng
được, dễ dàng để mua hơn ngày xưa,
thậm chí ở trên internet cũng quá nhiều, thậm trí
những bài giảng trên paltalk cũng quá nhiều, đôi
lúc chúng ta thấy những thứ đó không thật sự
quan trọng đối với chúng ta, nhưng lâu lâu chúng ta
cũng phải nghĩ lại rằng cái gì thật sự
quan trọng.
Ở trong cuộc
đời này một người thiện trí, khác với
người không có trí tuệ ở một điểm là
người thiện trí
biết nhận ra rằng cái gì có giá trị lâu dài, có
giá trị lớn với chính mình.
Lấy ví dụ như chúng ta
đọc kinh Châu Báu
(Ratanasutta), Đức Phật Ngài mở đầu bài
kệ rằng:
- Phàm ở cõi đời này,
hoặc trên cõi trời không có vàng bạc châu báu, ở
nơi thiên giới , hay ở trần gian mà sánh bằng
Phật Bảo, do chơn ngôn này cầu xin được
hạnh phúc.
Thưa quí vị cho
đến lúc nào đó chúng ta nhìn thấy bài kệ này
đúng nghĩa , ở trên đời này dù bao nhiêu vàng
bạc châu báu, ở trên trần gian này, hay ở trên thiên giới
thì không có gì sánh bằng Đức Phật mà chúng ta
thấy và chúng ta tụng đọc và chúng ta tin thật
sự như vậy, thì chúng ta mới gọi là biết
được giá trị của Đức Phật, còn
nếu không chúng ta chỉ tụng, chỉ tụng thậm
chí có nhiều người vì tiền, vì bạc, vì cuộc
sống mà bỏ Đức Phật, tại vì họ không
thấy được rằng Đức Phật Ngài quan
trọng với họ ra sao. Chúng tôi xin kết thúc bài nói
chuyện ở tại đây. Nam Mô Bổn Sư thích Ca Mâu
Ni Phật.
Minh Hạnh biên soạn